Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Thiền sư Tùng Duyệt ở Đẩu Suất

04/09/201102:42(Xem: 9133)
20. Thiền sư Tùng Duyệt ở Đẩu Suất

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 3
ĐỜI THỨMƯỜI BỐN SAU LỤC TỔ

20.THIỀN SƯ TÙNG DUYỆT
ỞĐẩu Suất phủ Long Hưng - (1044 - 1091)

Sư họ Hùng, quê ở Cám Châu. Buổi đầu Thủ chúng ở ĐạoNgô, lãnh một số chúng đến yết kiến Hòa thượng Trí ởVân Cái. Trí đàm luận với Sư chưa bao nhiêu đã biết chỗuẩn tích, bèn cười bảo: - Xem Thủ tọa khí chất phi phàm,tại sao thốt ra lời dường như kẻ say?

Sư đỏ mặt xuất mồ hôi thưa: - Cúi mong Hòa thượng chẳngtiếc từ bi.

Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt, liền xin nhậpthất. Trí hỏi: - Từng thấy Hòa thượng Ngộ ở Pháp Xướngchăng?

Sư thưa: - Từng xem Ngữ lục của Ngài, tự hiểu rõ cũngkhông mong thấy.

Trí hỏi: - Từng thấy Hòa thượng Văn ở Động Sơn chăng?

Sư thưa: - Người Quan Tây không đầu não, mang một cái quầnvải khai nước đái, có chỗ nào hay?

Trí bảo: - Ông chỉ đến chỗ khai nước đái tham lấy.

Sư theo lời dạy đến yết kiến Hòa thượng Văn thâm nhậnđược áo chỉ. Sư trở lại yết kiến Hòa thượng Trí. Tríhỏi: - Sau khi thấy người Quan Tây đại sự thế nào?

Sư thưa: - Nếu chẳng được Hòa thượng chỉ dạy đã luốngqua một đời.

Sư bèn lễ tạ. Sư trở lại yết kiến Chơn Tịnh.

*

Sau Sư khai pháp ở chùa Lộc Uyển, có Thiền sư Thanh Tố làngười đã tham vấn lâu nơi Từ Minh, tạm ở một cái thấtchưa cùng Sư giao tiếp. Sư nhân ăn trái vải, gặp Thanh Tốqua cửa. Sư gọi: - Này ông già! Đây là hương quả mời cùngăn.

Tố nói: - Sau khi Tiên sư tịch đã lâu không được ăn thứnày.

Sư hỏi: - Tiên sư là ai?

Tố nói: - Từ Minh, tôi hầu hạ người mười ba năm.

Sư nghi sợ nói: - Mười ba năm kham nhẫn hầu hạ, chẳng đượcđạo kia là sao?

Từ đây nhân ăn quả, Sư thường thường thân cận. Tố hỏi:- Thầy đã thấy người nào?

Sư thưa: - Động Sơn Văn.

Tố hỏi: - Văn thấy người nào?

Sư thưa: - Hoàng Long Nam.

Tố bảo: - Nam tấm biển thấy Tiên sư chẳng lâu, pháp đạochấn hưng như thế.

Sư càng nghi sợ, bèn sắm hương đèn đến lễ Tố. Tố đứngtránh nói: - Tôi do phước mỏng Tiên sư thọ ký chẳng chovì người.

Sư càng thêm cung kính. Tố bảo: - Vì thương lòng thành củaông, trái lời ký của Tiên sư. Ông bình sanh sở đắc thửnói ta xem?

Sư thưa đủ sở kiến.

Tố bảo: - Khả dĩ vào Phật mà không thể vào ma.

Sư thưa: - Vì sao vậy?

Tố bảo: - Há chẳng thấy cổ nhân nói một câu rốt sau mớiđến lao quan.

Như thế mấy tháng, Tố mới ấn khả, bèn răn rằng: - Văndạy ông đều là chánh tri chánh kiến, song ông lìa Văn quásớm nên không thể tột chỗ diệu kia. Nay tôi vì ông điểmphá, khiến ông thọ dụng được đại tự tại, ngày khácchớ có nối pháp tôi.

Sau Sư nối pháp Chơn Tịnh.

*

Tăng hỏi: - Cầm binh khiển tướng phải nhờ hổ phù củavua, lãnh chúng dạy đồ thầm mang Tổ sư tâm ấn, thế nàolà Tổ sư tâm ấn?

Sư đáp: - Đầy miệng nói chẳng được.

Tăng hỏi: - Chỉ cái này hay lại có cái khác?

Sư đáp: - Chớ đem hạc chạy trốn, gọi là ngỗng cầm quân.

Tăng hỏi: - Thế nào là cảnh Đẩu Suất?

Sư đáp: - Một nước nổi màu lam, ngàn núi gọt ngọc biếc.

Tăng hỏi: - Thế nào là người trong cảnh?

Sư đáp: - Bảy trũng tám gò không người thấy, trăm tay ngànđầu chỉ tự biết.

*

Sư thượng đường: Tai mắt một bề trong, ở yên trong hangvắng, gió thu vào cổ tùng, trăng thu sanh sông biếc. Thiềntăng khi ấy lại cầu chân, hai con khỉ đột bốn đuôi duỗi.Sư hét một tiếng.

*

Sư thượng đường: Đẩu Suất trọn không biện biệt, lạikêu rùa đen là trạnh, không thể nói diệu bàn huyền, chỉbiết khua môi động lưỡi, khiến cho Thiền tăng trong thiênhạ xem thấy trong mắt một giọt máu, chớ có đổi sân làmhỉ người tiếu ngạo Yên Hà đó chăng? Sư im lặng giây lâunói: Thổi lên một bản thăng bình nhạc, mong được sanh bìnhchưa hết sầu.

Sư thượng đường: Mới thấy tân xuân lại sang đầu hạ,bốn mùa dường tên sáng tối như thoi, bỗng chợt mặt hồngtrở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần,cày lấy vườn ruộng của mình, chớ phạm lúa mạ của người,tuy nhiên như thế kéo cày mang bừa, phải là con trâu trắngở núi Tuyết mới được. Hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào? Sưim lặng giây lâu nói: - Bậy! Bậy!

Sư thượng đường: Thường cư vật ngoại qua thời rỗi,cầm ngang ống sáo thổi lưng trâu, một bản tự yên núi tựbiếc, tình này chẳng với mây trắng bay. Rất thích, chư Thiềnđức! Nhớ lại Phạm Lãi dối vượt sóng to, nhân nghĩ TrầnĐoàn ngủ rỗng trên ngọn Thái Hoa, đâu từng mộng thấyluống được cao danh, thật chưa thần đạo nhàn du dấu quê.Tuy nhiên như thế, Thiền tăng mắt sáng chớ nói, Long An tựkỷ kia. Tốt!

*

Thượng đường: Không pháp cũng không tâm, không tâm lạigì xả, cần chân trọn thuộc chân, cần giả toàn về giả,trên đất bằng chèo thuyền, trong hư không cỡi ngựa, ngườichín năm nhìn vách, có miệng lại như câm. Tham!

Thượng đường: "Đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phậtđi, ngồi đứng cùng theo nhau, nói nín đồng chung ở, muốnbiết chỗ Phật đi, chỉ lời nói này vậy." Chư Thiền đức!Cả nhà Phó Đại sĩ chỉ biết ôm cột cầu, tắm rửa đeodây neo thuyền trên bản in đập đem lại, trong khuôn mẫugỡ đem đi. Đâu biết nói: Thiền tăng bản sắc lấp bíthang Phật Tổ, đập nát cửa huyền diệu, nhảy ra hầm đoạnthường, chẳng nương cảnh thanh tịnh, trọn không một vậtriêng vận dụng hai nắm tay, trên biển đi ngang dựng nhà lậpnước. Có một nhóm, cần nhằm trên đầu sào trăm thướcngồi yên lặng lẽ, đến lúc thân nhào bỏ mạng không được.Đâu chẳng thấy Đại sư Vân Môn nói: Biết là việc này,ném qua một bên, dù cho thôi động tinh thần mắc chút gâncốt, nhằm trước khi hỗn độn chưa phân tiến được vẫnlà kẻ độn, đâu kham ở trên đầu lưỡi người nếm đượcmùi vị, trọn không có ngày liễu ngộ. Chư Thiền khách! Cầnhội chăng? Vén đứng lông mày có khó gì, rõ ràng chẳng thấymột mảy tơ, gió thổi bầu trời mây nổi nát, trên trăngnúi biếc ngọc một hòn. Sư hét một hét xuống tòa.

*

Một hôm, Tào Sử Vô Tận cư sĩ Trương Công Thương Ưởngđi thanh tra qua Phần Minh thỉnh Trưởng lão năm viện đếnVân Nham thuyết pháp. Sư đăng tòa rốt sau, cầm ngang cây gậynói: Chư thiện tri thức mới đến, nắm ngang buông dọc, đứngthẳng ném xiên, đổi bước dời thân dấu đầu bày sừng,đã ở trước mặt học sĩ mỗi vị nhận bại quyết, chưakhỏi ăn gậy đau trong tay Đẩu Suất (Sư), đến trong đâychẳng do ngọt cho ngọt. Cớ sao? Vì thấy sự bất bình đâunhẫn được. Thiền tăng chánh lệnh tự phải hành, chao câygậy xuống tòa.

*

Trong thất Sư dùng ba câu nói để nghiệm học giả:

1. Vạch cỏ xem gió chỉ mong thấy tánh, chính nay Thượng tọatánh ở chỗ nào?

2. Biết được tự tánh mới thoát sanh tử, khi chết rồilàm sao thoát?

3. Thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại phânly nhằm chỗ nào đi?

*

Niên hiệu Nguyên Hựu thứ sáu (1091) vào mùa đông, Sư tắmgội xong, họp chúng nói kệ:

Bốn mươi tám năm,

Thánh phàm giết sạch,

Chẳng phải anh hùng,

Long An đường trơn.

Sư ngồi yên thị tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. Vua sắcphong Chơn Tịnh Thiền sư.




8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567