Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

74. Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung

04/09/201102:42(Xem: 9698)
74. Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨMƯỜI HAI SAU LỤC TỔ

74.THIỀN SƯ ĐẠO GIAIỞPhù Dung - (1043 - 1118)

Sưhọ Thôi quê ở Nghi Thủy Nghi Châu, tánh tình cứng cỏi cangtrực, tự lúc thiếu thời đã học đạo nhịn cơm, vào ẩntrong núi Y Dương. Sau, Sư dạo kinh đô nương nơi chùa ThuậtĐài và ở đây học tập kinh điển, thọ giới cụ túc.

*

Đidu phương, Sư đến yết kiến Thiền sư Nghĩa Thanh ở chùaHoa Nghiêm núi Đầu Tử.

Sưhỏi:

- Ngôngiáo của Phật Tổ như việc cơm nước thường ngày trongnhà, lìa rời việc này riêng có chỗ vì người hay chăng?

ĐầuTử đáp:

- Ngươinói sắc lệnh của Thiên tử trong cõi này, lại nhờ vua Võ,vua Thang, Nghiêu, Thuấn hay chăng?

Sưsuy nghĩ để đáp lại. Đầu Tử lấy phất tử bịt miệngSư, nói:

- Ngươiphát ý ra đã đáng ăn ba mươi gậy rồi.

Ngaycâu nói này, Sư tỉnh ngộ, đảnh lễ, liền ra đi. Đầu Tửgọi: Xà-lê hãy lại đây. Sư chẳng ngó lại. Đầu Tử nói:Ngươi đến chỗ chẳng nghi chăng? Sư liền bịt tai.

*

Sau,Sư coi việc nhà trù. Đầu Tử hỏi: Việc trong nhà trù khôngphải là dễ. Sư thưa: Chả dám. Đầu Tử hỏi: Ngươi thổicơm ư? Nấu cháo ư? Sư thưa: Nhân công đãi gạo nhúm lửa,trị nhật nấu cháo thổi cơm. Đầu Tử hỏi: Còn ngươi làmgì? Sư thưa: Nhờ ơn Hòa thượng từ bi cho con rảnh rang.

*

Mộthôm, Sư theo hầu Đầu Tử đi dạo vườn trà. Đầu Tử traocây gậy cho Sư, Sư nhận lấy liền đi theo sau Đầu Tử. ĐầuTử bảo: Lý nên thế ấy. Sư thưa: Cùng Hòa thượng xáchgiày cầm gậy, cũng chẳng phải việc phần ngoài. Đầu Tửbảo: Vẫn có người đồng hành. Sư thưa: Đây là một ngườikhông nhận dạy. Đầu Tử thôi hỏi.

Đếnchiều, Đầu Tử bảo: Sớm mai nói thoại chưa hết. Sư thưa:Thỉnh Hòa thượng nói tiếp. Đầu Tử nói: Mẹo sanh nhật,tuất sanh nguyệt. Sư liền đốt đèn đem đến, Đầu Tửnói: Ngươi đi lên đi xuống đều không luống công. Sư thưa:Ở bên cạnh Hòa thượng lý phải như thế. Đầu Tử nói:Kẻ tôi đòi trong nhà nào mà không có. Sư thưa: Hòa thượngtuổi cao thiếu nó không được. Đầu Tử hỏi: Ân cần cáigì? Sư thưa: Có phần đền ân.

*

Niênhiệu Nguyên Phong năm thứ năm (1082), Sư trở về Nghi Châuở núi Mã An bắt đầu truyền bá đạo pháp. Ban đầu, Sưở Tiên Động, sau dời đến chùa Long Môn. Sư lại sang trụnúi Đại Dương thuộc Dĩnh Châu và Đại Hồng ở Tùy Châu,đều do sự cung thỉnh của mọi người. Tông Tào Động đượcthạnh hành miền Tây Bắc.

*

Niênhiệu Sùng Ninh năm thứ ba (1104) có chiếu mời Sư trụ tạiThiền viện Thập Phương Tịnh Nhơn ở Đông Kinh. Đến niênhiệu Đại Quan năm đầu (1107), vua sai Trung sứ áp đặt Sưtrụ trì ở Thiên Ninh không được từ chối.

LýHiếu Thọ làm sớ tâu lên vua Tống Huy Tông đại lược rằng: "Đạo Giai đức hạnh vượt cả tùng lâm, đáng được khenthưởng..." Vua liền ban tử y tăng-già-lê và hiệu Định ChiếuThiền sư.

Sưthắp hương tạ ơn xong, lại dâng biểu rằng:

?Cúimong thánh thượng từ ân chú tâm làm sáng rỡ điều lành,nêu cao đức tốt. Ban cho thần Định Chiếu Thiền sư và mộtlá tử y. Thần cảm đội ân sâu, rồi liền đó thắp hươnglên tòa chúc nguyện thánh thọ.

MongBệ hạ nghĩ đến hạnh nghiệp thô sơ, đạo lực kém mỏngcủa thần, thường phát nguyện chẳng thọ danh lợi, cố giữý này đã được nhiều năm. Như thế, ngõ hầu truyền đạođời sau khiến người chuyên ý vào Phật pháp. Nay tuy nhờđặc ân của Bệ hạ, nếu toại tánh hèn thì tự trái vớilời nguyện lành của thần, lấy gì để dạy người. Đâudám ngửa khen Bệ hạ để có ý sai thần trụ trì. Nhữngy vật Bệ hạ ban cho thần không dám thọ nhận.

Cúimong thánh thượng từ ân xét thấu nỗi lòng của thần, khôngdám dùng lời trau chuốt, đặc biệt ban cho theo lòng thànhthật của thần, thần nguyện suốt đời hành đạo để đềnđáp thiên ân.?

VuaTống Huy Tông xem xong, giao cho Lý Hiếu Thọ đích thân đi đếnkhuyên đừng trái ý tốt của triều đình.

LýHiếu Thọ đến khuyên dụ lắm lời, Sư vẫn quyết địnhtừ chối. Lý Hiếu Thọ tâu hết lên nhà vua. Nhà vua nổigiận ra lệnh bắt giao cho quan Hữu ty (tra khảo).

QuanHữu ty biết Sư trung thành mà trái ý vua nên hỏi: Trưỡnglão thân gầy ốm vậy có bệnh chăng? Sư đáp: Bình nhậtcũng có bệnh, hiện nay thì không bệnh. Hữu-ty lại nói: Nếunói có bệnh thì đối với pháp luật khỏi hình phạt. Sưbảo: Đâu dám dối trá nói bệnh để mong khỏi tội ư! Hữuty ngậm ngùi! Sư điềm nhiên thọ hình phạt. Sau đó, Sư bịđày mặc áo kẻ phục dịch ra ở Tri Châu. Kẻ tăng ngườitục trông thấy Sư đều rơi nước mắt! Riêng Sư khí sắcvẫn nhàn hạ.

*

ĐếnTri Châu, Sư thuê nhà ở. Những học giả nghe tiếng tìm đếngần gũi. Mùa Đông năm sau, nhà vua ban sắc phóng thích.

Sưtự tiện cất am nơi hồ Phù Dung, có mấy trăm Tăng chúngvây quanh hằng ngày. Ở đây mỗi ngày chỉ ăn một chén cháo,những người chịu không nổi từ từ đi bớt. Số Tăng cònthường trực không dưới một trăm.

Sưdạy chúng:

- Phàmngười xuất gia vì chán trần lao cầu thoát sanh tử, thôitâm dứt niệm cắt vin theo, gặp thanh gặp sắc như hoa trồngtrên đá, thấy lợi thấy danh như bụi rớt trong con mắt.Vì từ vô thủy đến giờ, những cái ấy đâu phải chẳngtừng trải qua, cần gì lại nhọc nhằn tham luyến? Hiện naychẳng dứt còn đợi chừng nào? Thời nay dứt sạch lại cònviệc gì? Nếu được trong tâm vô sự, thì Phật Tổ vẫnlà oan gia, tất cả thế sự tự nhiên lạnh nhạt, mới làphù hợp bên này.

Cácngươi đâu chẳng thấy, Ẩn Sơn đến chết chẳng chịu tiếpngười. Triệu Châu đến chết chẳng biên thơ cho đàn việt,thà lượm trái giẻ trái lật mà ăn. Đại Mai lấy lá senlàm áo. Chỉ Y Đạo Giả mặc y phục bằng giấy. Thượngtọa Huyền Thái chỉ mặc bằng bố. Thạch Sương nơi nhàCây khô (chúng tọa thiền yên lặng như cây khô) cùng ngườingồi nằm, chỉ cần chết hẳn tâm của các ngươi. ĐầuTử sai người nấu cơm lẫn khoai rồi đồng ăn, cốt đượctỉnh việc của các ngươi.

Cácbậc thánh từ trước có những gương cao đẹp như thế, nếukhông có chỗ đặc biệt làm sao chịu nổi.

Chưnhân giả! Nếu hay nơi đây thể cứu thì chẳng thiếu thốnđiều gì, bằng chẳng chịu thừa đương về sau e phải phínhiều khí lực.

*

Sưdạy chúng:

- Ngàynay Sơn tăng đối với các vị nói về gia môn đã là chẳngtiện. Đâu thể lại đăng đường, nhập thất, niêm chùy,dựng phất, nhướng mày, chớp mắt, đông gậy, tây hét intuồng bệnh động kinh phát hiện. Đâu chẳng thấy Tổ Đạt-masang ngồi xây mặt vào vách chín năm dưới núi Thiếu Thất.Nhị Tổ đến đứng ngoài tuyết đến chặt cánh tay, có thểnói chịu tột sự gian khổ. Nhưng Tổ Đạt-ma chưa từng nóimột lời. Nhị Tổ chưa từng hỏi một câu. Thế là, nóiTổ Đạt-ma chẳng vì người được chăng? Nhị Tổ chẳngcầu thầy được chăng?

*

Sưcó làm năm bài kệ, thuật môn phong của mình.

Bàithứ nhất tên: Nói khéo không chạm lưỡi

Sát sát trần trần xứ xứ đàm

Bất tham thiền xứ Thiện Tài tham

Không sanh đã giải thông tiêu tức

Hoa vũ nham tiền điểu bất hàm.

Bàithứ hai: Rắn chết sợ trong bụi chui ra

Nhật chích phong suy thảo lý mai

Xúc tha độc khí hựu hoàn oai

Ảm địa nhược giao khai tử khẩu

Trường An y cựu tuyệt nhân lai.

Bàithứ ba: Giỏi châm xương khô ngâm

Tử trung hoạt đắc thị phi thường

Minh dụng tha gia biệt hữu trường

Bán dạ độc lâu ngâm nhất khúc

Băng hà hồng diệm khước thanh lương.

Bàithứ tư: Cưa sắt và tam đài

Bất thị cung thương điều

Thùy nhân hòa nhất trường

Bá Nha hà sở thố

Thử khúc cựu lai trường.

Bàithứ năm: Xưa nay không cách hở

Nhất pháp nguyên vạn pháp không

Cá trung na hứa ngộ viên thông

Tương vị Thiếu Lâm tiêu tức đoạn

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Dịch:

Cõi cõi nơi nơi chốn chốn bàn

Thiện Tài tham lấy chỗ không tham

KhôngSanh đã hiểu rành tin tức[Không Sanh là ông Tu-bồ-đề hayThiện Hiện là người hiểu lý không bậc nhất.]

Ngọn núi mưa hoa chim lặng câm.

Gió táp nắng phơi cỏ ẩn mình

Chạm người khí độc lại sai chinh

Thẳm sâu nếu khiến khai tử khẩu

Trường An như trước bặt người sang.

Trong chết được sống việc phi thường

Phải nhận là y có sở trường

Xương sọ giữa đêm ngâm một bản

Sông băng lửa dậy lại thanh lương.

Chẳng phải đàn sáo hòa

Ai người ca một bài

Bá Nha đâu thi thố

Bản này xưa nay hay.

Một pháp nguyên không muôn pháp không

Trong đây ai nhận ngộ viên thông

Sẽ bảo Thiếu Lâm tin tức bặt

Hoa đào vẫn lại cười gió đông.

Niênhiệu Chánh Hòa năm thứ tám (1118) ngày mười bốn tháng năm,Sư đòi viết mực viết một bài kệ:

Ngô niên thất thập lục

Thế duyên kim dĩ túc

Sanh bất ái thiên đường

Tử bất phạ địa ngục

Tán thủ hoành thân tam giới ngoại

Đằng đằng nhận vận hà câu thúc.

Dịch:

Ta tuổi bảy mươi sáu

Duyên đời nay đã đủ

Sanh chẳng thích thiên đường

Chết chẳng sợ địa ngục

Buông tay đi ngang ngoài tam giới

Mặc tình vươn bổng nào buộc ràng.

Sau đó, liền tịch, Sư thọ bảy mươi sáu tuổi.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567