Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong

03/09/201113:53(Xem: 9060)
21. Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨSÁU SAU LỤC TỔ

21.THIỀN SƯ NGHĨA TỒNỞTuyết Phong - (822-908)

Sưhọ Tằng người Nam An Tuyền Châu. Sư sanh trong gia đình thờPhật, thuở nhỏ đã không chịu ăn thịt cá. Còn trong nôimà Sư nghe tiếng chuông, hoặc thấy tràng phan, hoa hương, tượngPhật Bồ-tát liền cười.

Nămmười hai tuổi. Sư theo cha đến chùa Ngọc Gián ở Bồ Điền,thấy Luật sư Khánh Huyền bèn đảnh lễ nói: thầy con! rồiở lại đây luôn. Đến mười bảy tuổi, Sư được cạotóc. Sau, Sư đến chùa Bảo Sát ở U Khê thọ giới cụ túc.Sư thường dạo qua các thiền họ?.

*

TạiĐộng Sơn, Sư làm Phạn đầu (trưởng ban trai phạn) đangđãi gạo. Khâm Sơn hỏi: Đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏcát? Sư đáp: Gạo cát đồng thời bỏ. Khâm Sơn hỏi: Đạichúng lấy gì ăn? Sư bèn lật úp thau đãi gạo. Khâm Sơn nói:Cứ theo nhân duyên này, huynh hợp ở Đức Sơn.

*

Mộthôm, Động Sơn hỏi: Làm gì đây? Sư thưa: Đẽo máng. ĐộngSơn hỏi: Đẽo mấy búa được thành? Sư thưa: Một búa đẽothành. Động Sơn bảo: Vẫn là việc bên này, việc bên kiathì sao? Sư thưa: Hẳn được không chỗ hạ thủ. Động Sơnbảo: Vẫn là việc bên này, việc bên kia thì sao? Sư im lặng.

*

Sưđến tạm biệt Động Sơn, Động Sơn hỏi: Ngươi đi đâu?Sư thưa: Đi về trong đảnh núi. Động Sơn hỏi: Đương thờitừ đường nào ra? Sư thưa: Từ đường vượn bay đảnh núira. Động Sơn hỏi: Nay quay lại đường mà đi? Sư thưa: Từđường vượn bay đảnh núi đi. Động Sơn bảo: Có ngườichẳng từ đường vượn bay đảnh núi đi, ngươi biết chăng?Sư thưa: Chẳng biết. Động Sơn hỏi: Tại sao chẳng biết?Sư thưa: Y không mặt mày. Động Sơn bảo: Ngươi đã chẳngbiết, sao biết không mặt mày? Sư không đáp được.

*

ĐếnĐức Sơn, Sư hỏi: Tông thừa từ trước, con có phần cùngchăng?

ĐứcSơn đánh một gậy, bảo: Nói cái gì? Sư thưa: Chẳng hội.

Hômsau, giờ thưa hỏi, Đức Sơn bảo chúng: Tông của ta khôngngữ cú, thật không một pháp cho người. Sư nhân đó có tỉnh.

*

Sưcùng Nham Đầu đi đến Ngao Sơn ở Lễ Châu gặp trở tuyết(tuyết xuống quá nhiều) dừng lại, Nham Đầu mỗi ngày cứngủ, Sư một bề ngồi thiền. Một hôm, Sư gọi: Sư huynh!Sư huynh! hãy dậy.

NhamĐầu hỏi:- Làm cái gì?

Sưnói:

- Đờinay chẳng giải quyết xong, lão Văn Thúy đi hành khước đếnnơi chốn, bị y chê cười, từ ngày đến đây sao chỉ longủ?

NhamĐầu nạt:

- Ngủđi! mỗi ngày ngồi trên giường giống như thổ địa, ngàysau bọn ma quỉ nam nữ vẫn còn.

Sưchỉ trong ngực nói:- Tôi trong ấy còn chưa ổn, không dámtự dối.

- Tôibảo ông sau này lên trên chót núi cất thảo am xiển dươngđại giáo, sẽ nói câu ấy.

- Tôithật còn chưa ổn.

- Nếuông thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thôngqua, chỗ phải tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ chẳng phảitôi sẽ vì ông đuổi dẹp.

- Khitôi mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắckhông liền được chỗ vào.

- Từđây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến.

- Tôithấy bài kệ của Động Sơn qua sông: "Thiết kỵ tùng thamít, điều điều dữ ngã sơ, cừ kim chánh thị ngã, ngã kimbất thị cừ."

- Nếucùng ấy tự cứu cũng chưa tột.

Sau,hỏi Đức Sơn: việc trong tông thừa từ trước con có phầnchăng, Đức Sơn đánh một gậy hỏi: nói cái gì, tôi khi đógiống như thùng lủng đáy.

NhamĐầu nạt:

- Ôngchẳng nghe nói "từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà?"

- Vềsau làm thế nào mới phải?

- Vềsau, nếu muốn xiển dương Đại giáo, mỗi mỗi từ trong hôngngực mình lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi!

Sưnhân câu ấy đại ngộ liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn:Sư huynh! ngày nay mới là thành đạo ở Ngao Sơn.

*

Tănghỏi:- Hòa thượng thấy Đức Sơn được cái gì liền thôi?

Sưđáp:- Ta đi tay không, về tay không.

*

Cóhai vị Tăng đến, Sư lấy tay chặn cửa am, nhảy vọt ra,nói: Ấy cái gì? Tăng cũng nói: Ấy cái gì? Sư cúi đầu vàoam. Tăng từ Sư đi nơi khác. Sư hỏi: Đi nơi nào? Tăng thưa:Hồ nam. Sư bảo: Ta có người bạn đồng hành ở Nham Đầu,gởi ông một lá thơ đưa hộ. Thơ viết: "Tôi gởi thơ lênSư huynh, từ ngày tôi thành đạo ở Ngao Sơn về sau cho đếnngày nay vẫn còn no chẳng đói."

Tăngđến Nham Đầu, Nham Đầu hỏi: Từ nơi nào đến? Tăng thưa:Tuyết Phong đến, có thơ dâng lên Hòa thượng. Nham Đầu tiếpthơ xong hỏi: Có ngôn cú gì khác chăng? Tăng bèn thuật lạilời trước. Nham Đầu hỏi: Ông ấy nói sao? Tăng thưa: Khôngnói, chỉ cúi đầu vào am. Nham Đầu nói: Ôi! ta hối hậnlúc đầu chẳng nói với y câu rốt sau. Nếu nói với y thìngười trong thiên hạ không làm gì được lão Tuyết.

*

Tăngở lại đến cuối hạ mới lên thưa hỏi câu ấy. Nham Đầubảo: Sao chẳng hỏi sớm? Tăng thưa: Chưa dám dễ dàng. NhamĐầu bảo: Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, mà chẳngcùng ta đồng điều tử. Cần biết câu rốt sau chỉ là thế.

*

VịTăng hỏi Hòa thượng Tây Sơn: Thế nào là ý Tổ sư từ Ấnsang? Tây Sơn đưa cây phất tử lên chỉ đó. Tăng không chấpnhận.

Sau,vị Tăng ấy đến tham vấn Sư. Sư hỏi: Ở nơi nào đến?Tăng thưa: Ở Chiết Trung đến. Sư hỏi: Hạ năm nay ở tạiđâu? Tăng thưa: Ở Tây Sơn Tô Châu. Sư hỏi: Hòa thượngan ổn chăng? Tăng thưa: Khi đến thấy Ngài được muôn phước.Sư hỏi: Sao không ở đó tu học? Tăng thưa: Phật pháp chẳngsáng. Sư hỏi: Có việc gì? Tăng thuật lại việc trước.Sư hỏi: Tại sao ông chẳng chấp nhận Ngài? Tăng thưa: Ấylà cảnh. Sư bảo: Ông thấy kẻ nam nữ ở Tô Châu chăng?Tăng thưa: Thấy. Sư hỏi: Ông thấy cây cối trên đườngchăng? Tăng thưa: Thấy. Sư bảo: Phàm thấy nam nữ đất cátsuối rừng thảy đều là cảnh, ông chấp nhận những cáiấy chăng? Tăng thưa: Chấp nhận. Sư bảo: Tại sao giở phấttử ông không chấp nhận? Tăng lễ bái thưa: Con chấp bướngnói bừa, xin Hòa thượng từ bi. Sư hỏi: Tột càn khôn làcon mắt, ông tìm chỗ nào ngồi xổm. Tăng không đáp được.

*

Cómột vị Tăng ở dưới núi cất thảo am, nhiều năm khôngcạo tóc, dùng một ống cây dài ra bên suối múc nước. VịTăng khác thấy hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn sang? Amchủ đáp: Suối sâu ống cây dài.

Sưnghe việc này, nói: rất là kỳ quái. Một hôm Sư cùng thịgiả đem dao cạo theo đến am. Vừa gặp mặt, Sư dẫn lờinói trước hỏi, phải lời am chủ chăng? Am chủ nói: Phải.Sư bảo: Nếu nói được chẳng cạo tóc ông. Am chủ liềnđi gội đầu, quì gối trước Sư, Sư liền cạo tóc cho.

*

TamThánh Huệ Nhiên hỏi:- Cá vàng vượt khỏi lưới lấy gìăn?

Sưbảo:- Đợi ông vượt khỏi lưới sẽ vì ông nói.

TamThánh nói:

- Làthiện tri thức của một ngàn năm trăm người, mà câu thoạiđầu cũng chẳng biết.

Sưbảo:- Lão tăng trụ trì nhiều việc.

*

Sưhỏi vị Tăng mới đến: Vừa rời chỗ nào đến? Tăng thưa:Phú Thuyền (Thiền sư Hồng Tiến) đến. Sư hỏi: Biển sanhtử chưa qua, vì sao lại Phú Thuyền (úp thuyền)? Tăng khôngđáp được, bèn trở về thuật lại Phú Thuyền. Phú Thuyềnbảo: Sao không nói y không sanh tử. Tăng trở lại nói lờinày. Sư bảo: Đây không phải lời của ông. Tăng thưa: PhúThuyền nói thế ấy. Sư bảo: Ta có hai mươi gậy gởi choPhú Thuyền, còn ta tự ăn hai mươi gậy, chẳng can hệ gìviệc Xà-lê.

*

HuyềnSa Sư Bị thưa:- Hiện nay có đại dụng, Hòa thượng phảilàm sao?

Sưđem ba trái cầu gỗ đồng thời ném ra. Huyền Sa ra bộ chẻbia.

Sưbảo:- Người hiện ở Linh Sơn mới được như vậy.

HuyềnSa thưa:- Cũng là việc nhà mình.

*

Mộthôm, Sư ở trong nhà tăng đóng cửa trước cửa sau nổi lửađốt, lại kêu: Cứu lửa! Cứu lửa! Huyền Sa đem một thanhcủi từ cửa sổ ném vào trong. Sư bèn mở cửa.

*

Sưthượng đường:

- NúiNam có một con rắn mũi to, hết thảy các ông đều phải khéoxem.

TrườngKhánh bước ra thưa:

- Hômnay trong nhà này có người tán thân mất mạng.

VânMôn lấy cây gậy ném trước Sư rồi ra bộ sợ.

Cóngười đem việc này thuật lại Huyền Sa. Huyền Sa nói:

- Phảilà huynh Lăng mới được. Tuy nhiên như thế, nếu ta thì chẳngvậy.

Tănghỏi:- Hòa thượng làm thế nào?

HuyềnSa nói:- Dùng núi Nam làm gì.

*

Mộthôm, Sư bảo Huệ Lăng (Trường Khánh):

- Tathấy Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn ?chư thánh đi chỗ nào?, NgưỡngSơn đáp: "hoặc ở trên trời, hoặc ở nhân gian". Ngươi nóiý Ngưỡng Sơn thế nào?

HuệLăng thưa:

- Nếuhỏi chỗ ra vào của chư thánh mà nói thế ấy thì không được.

Sưbảo:

- Ngươiđều không chấp nhận, chợt có người hỏi ngươi đáp thếnào?

- Chỉnói lầm.

- Làngươi chẳng lầm.

- Đâukhác với lầm.

*

Sưsắp thị tịch, Sư tự chế tháp và làm bài minh, tựa rằng:

- Phàmtừ duyên mà có là trước sau thành hoại, chẳng từ duyênmà được muôn kiếp thường vững; Vững thì hằng còn, hoạithì tổn giảm. Tuy nhiên ly tán chưa đến, ngại gì dự bịsắp đặt? Sở dĩ, chất đá làm nhà, cưa cây đóng hòm, bưngđất đổ đống làm khám. Các việc đã đủ, đầu xây hướngnam, chân về hướng bắc, nằm ngang qua núi.

Chỉmong đến giờ, đồng đạo chớ trái ý ta. Người biết tâmta, thì chẳng đổi chí ta, dặn sâu! lại dặn!

Sưtrụ Mân Xuyên hơn bốn mươi năm, học giả mùa Đông mùaHạ chẳng dưới số một ngàn năm trăm người.

ĐờiLương niên hiệu Khai Bình năm thứ hai (908) vào tháng ba, Sưcó chút ít bệnh. Mân Soái sai lương y đến xem mạch. Sư bảo:Ta chẳng phải bệnh, trọn chẳng uống thuốc. Sư để kệvà trao pháp xong, ngày mùng hai tháng năm, sáng đi dạo Lam Điền,chiều về tắm rửa, nửa đêm nhập diệt. Sư thọ tám mươibảy tuổi, năm mươi chín tuổi hạ.

8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567