Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Chương Thứ Mười Bảy

18/07/201115:14(Xem: 7494)
17. Chương Thứ Mười Bảy
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ:Vọng Nguyệt Tín Hanh

Hán dịch:Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười bảy

Luận về nhiều niệm tương tục và tự lực, tha lực

Tiết thứ nhất

Vấn đề một niệm, nhiều niệm và tha lực, tự lực

Như văn trên ngài Pháp Nhiên đã nói lấy xưng danh niệm Phật làm sanh nhân của tuyển trạch bản nguyện, nêu lên nghiệp niệm Phật được vãng sanh làm trước tiên. Nhiều thì niệm Phật suốt đời, ít thì mười tiếng, cho đến một tiếng niệm Phật, tin sâu và nương theo nguyện lực của Đức Phật sẽ được vãng sanh về báo độ, khuyên mọi người suốt đời không nên lười biếng, xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà tương tục. Đệ tử của ngài Pháp Nhiên tuân thủ lời thầy dạy, người trì niệm danh hiệu Phật tương tục tất nhiên rất đông. Nhưng trong đó có người lấy nhiều niệm tương tục, khuyến khích tự lực mà hoài nghi bản nguyện. Ngoài ra, còn đề xướng nghĩa mới là một niệm vãng sanh, chủ trương lấy an tâm làm thuyết chính nhân v.v…cho nên phát sanh ra các vấn đề một niệm, nhiều niệm, tự lực và tha lực; do đó mà có sự đối lập của các phái.

Tóm lại, ngài Thành Giác Phòng Hạnh Tây, ngài Chứng Không phái Tây Sơn và ngài Thân Loan v.v…đều chủ xướng thuyết an tâm chánh nhân, lên án thuyết lấy nhiều niệm tương tục làm hạnh tự lực. Ở đây trái ngược lại với ngài Thánh Quang phái Trấn Tây, ngài Long Khoan ở chùa Trường Lạc chủ trương nhiều niệm tương tục, bài trừ một niệm vãng sanh, trái với ý thầy, tự lập đường lối khác. Trong đó, các phái lớn và nhỏ lập nghĩa luận thuyết khác nhau rất nhiều, giống như trăm hoa khoe sắc, làm cho sự nghiên cứu về Tịnh độ giáo đạt đến đỉnh cao nhất.

Tiết thứ hai

Luận về tự lực và tha lực của ngài Thánh Quang

Ngài Thánh Quang lấy tự lực, tha lực, hai đạo nan, dị và hai môn thánh đạo, Tịnh độ làm cùng một ý nghĩa. Nghĩa là tự lực và nan hành là Thánh đạo môn, tha lực và dị hành là Tịnh độ môn. Vì thế, một niệm là tha lực, là dị hành; nhiều niệm là tự lực, là chắc chắn thuộc về nan hành. Tịnh độ tông danh mục vấn đápquyển trung của ngài trứ tác nói: “Một đời thánh giáo chia làm hai môn, lấy ba bộ kinh làm Tịnh độ môn, kinh giáo khác làm Thánh đạo môn. Thánh đạo môn là nan hành đạo, Tịnh độ môn là dị hành đạo”.

Lại nữa, Tịnh độ tông hành giả dụng ý vấn đápcủa ngài Lương Trung, nêu ra khẩu truyền của tiên sư Thánh Quang nói: “Tiên sư thượng nhân (tức ngài Pháp Nhiên) thuật rằng: Thuyết tự lực là Thánh đạo môn, dựa theo lực ba nghiệp của chính mình mà cầu xuất li. Thuyết tha lực là Tịnh độ môn, hành giả cầu vãng sanh Tịnh độ, biết căn cơ của mình không thể xuất li nên dựa vào tha lực của Đức Phật”.

Tuyển trạch truyền hoằng quyết nghi sao quyển 1 cũng nói: “Về tự lực, tha lực nếu do sức tam học (giới, định, huệ) chính mình gọi là tự lực, bản nguyện lực của Phật gọi là tha lực. Người tu hành theo thánh đạo cầu Phật gia hộ; người cầu về Tịnh độ cũng là hạnh ba nghiệp của chính mình. Hành giả tu hành theo thánh đạo là thành tựu hạnh của tam học cầu Phật gia hộ, cho nên thuộc tự lực. Hành giả tu theo Tịnh độ tin sâu Phật lực là thuận theo nguyện của Phật, tu hạnh niệm Phật thuộc về tha lực”.

Bởi vì, trong Vãng sanh luận chúcủa ngài Đàm Loan nói: “Đời ác năm trược không có Phật, nếu chẳng phải sức trụ trì Phật mà chỉ tự lực cầu bất thoái là nan hành đạo. Lấy nhân duyên tin Phật để vãng sanh Tịnh độ thì được sức Phật trụ trì nhập Đại thừa chính định tụ gọi là dị hành đạo”. Tuyển trạch tậpkế thừa ý này, nói về nan hành, dị hành và thánh đạo, Tịnh độ tuy bất đồng nhưng ý nghĩa là một, nói rõ tự lực và tha lực, hai đạo nan hành và dị hành vốn là ý nghĩa này.

Tiết thứ ba

Thuyết ba tâm của ngài Thánh Quang

Liên quan đến sự giải thích ba tâm, ngài Thánh Quang cũng theo thuyết của ngài Pháp Nhiên. Trong ngoài tương ưng, không che giấu tai, mắt của người khác, tâm này chân thật chí thành là Chí thành tâm; tin sâu bản nguyện không sanh nghi ngờ là Thâm tâm; không theo nguyện khác, đem những việc đã làm hồi hướng vãng sanh về Tây phương là Hồi hướng phát nguyện tâm. Nói chung là hành giả đã phát tâm.

Mạt đại niệm Phật thụ thủ ấn1 quyển của ngài trứ tác, đem ba tâm mà phân biệt tỉ mỉ thì mỗi tâm thành nhiều loại bốn câu sai biệt: Trong Chí thành tâm chia có bốn câu như Nhất hướng hư giả, Nhất hướng chân thật v.v…; bốn câu như Đa hư thiểu thật, Đa thật thiểu hư v.v…; bốn câu như Thỉ hư chung thật, Thỉ thật chung hư v.v…Trong Thâm tâm cũng chia có bốn câu như Nhất hướng nghi tâm, Nhất hướng tín tâm v.v…; bốn câu như Thỉ nghi chung tín, Thỉ tín chung nghi v.v…Trong Hồi hướng phát nguyện tâm cũng chia có bốn câu như Hữu nguyện vô hành, Vô nguyện hữu hành v.v…Ngoài ra, còn lập sự sai biệt của bốn câu là Tây phương hồi nguyện, Dư sự hồi nguyện v.v…để biện minh mỗi loại được vãng sanh hay không.

Lại nói ba tâm hoành và ba tâm thụ, người đầy đủ ba tâm thì được vãng sanh, không đủ ba tâm thì không được vãng sanh. Ngài Thánh Quang lại lấy ba tâm giải nói niệm Phật và hạnh khác. Nếu người đủ ba tâm thì tu các thiện hạnh khác hay niệm Phật cũng đều được vãng sanh Tịnh độ.

Quán kinh sớquyển 4 của ngài Thiện Đạo nói: “Ba tâm này cũng thuộc về định thiện”. Lại trong Tuyển trạch tậpnói: “Tóm lại, nói chung là pháp các hạnh, nói riêng là y theo hạnh vãng sanh này”, tức là kế thừa thuyết của ngài Pháp Nhiên.

Tiết thứ tư

Luận về tự lực, tha lực của ngài Long Khoan

Ngài Long Khoan giải nói Thánh đạo môn là tự lực, Tịnh độ môn là tha lực, nhưng xả bỏ tự lực quy về tha lực thì gọi là ba tâm, giải thích ba tâm khác với ngài Thánh Quang đã nói. Nghĩa là ngài Long Khoan khởi xướng ba tâm quy nạp về tha lực thì chắc chắn quy kết về niệm Phật, quy về niệm Phật thì nhất định vãng sanh về báo độ do bản nguyện mà thành, các thiện hạnh khác đều là hạnh tự lực, vì không đủ pháp ba tâm, nên ở lại chín phẩm biên địa, không thể vào báo độ.

Tiết thứ năm

Thuyết ba tâm của ngài Long Khoan

Nay thuật lại ý nghĩa của ba tâm đã nói. Ngài Long Khoan theo Quán kinh tán thiện nghĩacủa ngài Thiện Đạo nói, Chí thành tâm là tâm chân thật. Tâm chân thật được quy nạp về tâm bản nguyện lợi tha của Như Lai. Bởi vì đã thuộc về bản nguyện là chân thật, cho nên có thể quy về tâm phàm phu cũng gọi là tâm chân thật. Nhưng trong Quán kinh sớcủa ngài Thiện Đạo lấy nhiều tính xấucủa phàm phu như tham, sân, tà ngụy, gian trá và các nạn xâm nhập xem chúng đồng như rắn, rết v.v… Tuy khởi ba nghiệp gọi là tạp độc thiện, cũng gọi là hạnh giả danh, chẳng được gọi là hạnh chân thật. Nếu như bỏ đi an tâm, khởi hạnh thì cho dù ngày đêm mười hai thời, thân tâm gắng sức tu hành gấp rút như cứu lửa cháy đầu cũng gọi là tạp độc thiện. Lấy hạnh tạp độc này mà hồi hướng, muốn cầu vãng sanh về Tịnh độ Phật A-di-đà thì nhất định không được.

Giải nói về tướng tự lực tu hành, trong tâm phàm phu đầy ắp phiền não, tính ác, cho nên tâm họ đảo điên giả dối, không có chân thật; cho dù ngày đêm thân tâm gắng sức tu hành, khởi hạnh ba nghiệp thân, khẩu, ý đều gọi là tự lực tạp độc thiện, không phải nghiệp chân thật, đem những hạnh này mà hồi hướng, cầu vãng sanh thì rốt cuộc không thể đạt được tâm nguyện. Đây là xả bỏ cố chấp tự lực của phàm phu, chuyên tâm quay về bản nguyện lợi tha chân thật gọi là Chí thành tâm.

Thâm tâm là tâm không nghi ngờ, tín tâm tin sâu bản nguyện của Như Lai, tức là quy về bản nguyện. Tâm không nghi ngờ là tín tâm tha thiết, tín tâm là do tin sâu bản nguyện chân thật. Đức tin về nguyện hải của Phật Di-đà sâu rộng không bờ mé, theo nguyện đã tin gọi là Thâm tâm, tức là đồng nghĩa với Chí thành tâm. Ngài Long Khoan nói đầy đủ ý nghĩa ba tâm: “Chí thành tâm cùng một thể với Thâm tâm nhưng do giả lập mà có hai tên”.

Hồi hướng phát nguyện tâm có Vãng tướng hồi hướng và Hoàn tướng hồi hướng. Trong Vãng tướng hồi hướng lại chia hai loại sai biệt là tu niệm Phật hồi hướng và tu các hạnh khác hồi hướng. Văn Vãng tướng hồi hướng trong Tán thiện nghĩacủa ngài nói: “Thiện căn từ đời quá khứ đến nay của ba nghiệp thân, khẩu, ý đã tu pháp thế gian và xuất thế gian đều lấy thiện căn tùy hỉ, tất cả ở trong tín tâm chân thật, hồi hướng nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm. Hồi hướng hạnh khác có nghĩa là chuyển hướng niệm Phật. Sau đó, hồi hướng phát nguyện vãng sanh là cần phải có tâm chân thật hồi hướng mong muốn được vãng sanh”. Điều này chỉ căn cứ theo người niệm Phật chân chính hồi hướng phát nguyện mà nói.

Bởi vì, ngài Long Khoan nói căn cơ vãng sanh có hai hạng: một, người chỉ niệm Phật; hai, người chuyển hướng hạnh khác. Lại nữa, người chuyển hướng hạnh khác vốn có sai khác là tu các hạnh thánh đạo và tu tạp hạnh. Trong đó, người chỉ niệm Phật, lúc đầu quy về bản nguyện chân thật, chỉ thực hành niệm Phật, người này nương theo nguyện thứ mười tám mà vãng sanh. Do thánh đạo môn hồi tâm chuyển hướng quy về bản nguyện niệm Phật, nguyện hạnh đầy đủ là nương nguyện thứ mười chín mà vãng sanh. Do tạp hạnh hồi tâm chuyển hướng là nương nguyện thứ hai mươi mà vãng sanh. Căn cơ vãng sanh Tịnh độ thường chia ba loại, phối hợp ba nguyện thứ mười tám, thứ mười chín và thứ hai mươi mà thành. Nhưng nay nói nghĩa phần sau trong Vãng tướng hồi hướng, tức là trong ba loại này nói người chỉ niệm Phật để mong theo nghĩa thuận thứ vãng sanh. Phần trước là người thánh đạo và tạp hạnh hồi tâm chuyển hướng, nói quy về nghĩa bản nguyện niệm Phật. Giải thích như thế thì Hồi hướng phát nguyện là nghĩa hồi tâm chuyển hướng, tức là chủ trương mới cuả ngài Long Khoan. Ở đây phần nhiều theo thuyết mở ra tam thừa rồi quy về nhất thừa trong kinh Pháp hoa.

Ngài Long Khoan đã trứ tác Tán thiện nghĩa vấn đápghi: “Hạnh tạp độc, hạnh hư giả là hạnh đáng bị chán ghét, nay đem nó hồi hướng về Di-đà thì ở trong pháp vốn thiện đã bị thấm tạp độc phiền não làm che phủ nguyện lực, thành ra chướng ngại không thể vãng sanh”.

Lại nữa, Cụ tam tâm nghĩanói: “Khi hồi hướng tha lực, các hạnh đều quy về bản nguyện, nhất định được vãng sanh. Căn cứ theo hồi tâm chuyển hướng thì tạp độc thiện được tịnh hóa”. Chúng ta có thể thấy thuyết này chính là kế thừa thuyết: “Những việc các ông đã làm là đạo Bồ-tát” trong kinh Pháp hoa. Ngài trứ tác Chứng Không chi niệm Phật nhất loại vãng sanh nghĩađồng với quan điểm này, phần nhiều bắt nguồn từ thuyết này.

Tiết thứ sáu

Thuyết tự lực niệm Phật của ngài Long Khoan

Ngài Long Khoan lấy ba tâm quy nạp vào bản nguyện tha lực, gọi là ba tâm tha lực làm chính nhân vãng sanh về báo độ; cho nên không luận bàn đến hạnh khác, niệm danh hiệu Phật và đầy đủ ba tâm tha lực cũng quyết định được vãng sanh về báo độ. Do đó niệm Phật cũng có sai biệt tự lực và tha lực.

Cực Lạc Tịnh độ tông nghĩa quyển trung nói: “Không phát ba tâm thì chẳng phải bản nguyện niệm Phật. Chẳng phải bản nguyện niệm Phật thì không thể sanh về cõi nước bản nguyện”.

Lại nữa, về tự lực, tha lực, hạnh niệm Phật thì có tự lực và tha lực. Người niệm Phật nguyện sanh về thế giới Cực Lạc lấy tâm tự lực xưng niệm danh hiệu Di-đà, gọi là tâm tự lực. Người thân không làm bậy, miệng không nói dối, ý không vọng tưởng, nhờ lực niệm Phật này mà tiêu trừ tội nghiệp thì chắc chắn sẽ vãng sanh về cõi nước Cực Lạc; đây gọi là hạnh tự lực. Người chăm chỉ niệm Phật gọi thì niệm Phật tự lực, tự lực niệm Phật thì vãng sanh về biên địa, không thể sanh về báo độ do bản nguyện mà thành.

Ngài Thân Loan cũng lấy chấp trì danh hiệu trong kinh Di-đàlàm tự lực niệm Phật; đây là nhân biên địa thai sanh, phần nhiều chịu ảnh hưởng thuyết của ngài Long Khoan. Chỉ cần chăm chỉ niệm Phật như thế thì gọi là tự lực niệm Phật, nếu niệm Phật nhưng thân không thận trọng mà làm ác thì gọi là tha lực niệm Phật. Nhưng ngài Long Khoan còn chưa suy xét kỹ điều này nên rơi vào chỗ cực đoan, chỉ lấy lực niệm Phật của mình để ngăn ngừa tội ác ba nghiệp thân, khẩu, ý; nhờ đó mà tội diệt được vãng sanh nên quy về tự lực.

Trong đề mục củaPháp Nhiên thượng nhân truyện kýbản khắc vào niên hiệu Đề Hồ nói: “Người ác còn được vãng sanh, huống gì người thiện?”. Bản nguyện Di-đà lấy tha lực để ra khỏi sanh tử, chẳng phải là phương tiện dành cho người thiện mà là vì thương xót người cực ác, không còn cửa phương tiện nào khác.

Nhưng bồ-tát, hiền thánh cũng y theo đây mà cầu vãng sanh, phàm phu hiền thiện cũng quy về nguyện này mà được vãng sanh, huống gì phàm phu tội ác, đặc biệt là nương theo tha lực cứu giúp của Đức Phật. Rõ ràng làm ác là ở trong tà kiến, thuyết này phần nhiều là thuyết của phái chùa Trường Lạc.

Nhưng trong Thân Loan pháp ngữ tán dị saonói: “Người thiện được vãng sanh, người ác cũng được vãng sanh. Cho nên người đời thường nói: ‘Người ác còn được vãng sanh, huống gì người thiện?’ ” Nhưng người đời thường nói: ‘Người ác còn được vãng sanh, huống gì người thiện?’. Cách nói này giống như “giả thiết” chẳng phải chân thật. Thật ra trái với ý nghĩa của bản nguyện. Thuyết này e rằng do người theo chủ trương tự lực niệm Phật hiện nay nói. Chủ trương như thế, chẳng những trái với “bảy điều khởi thỉnh” của ngài Pháp Nhiên đặt ra, mà cũng trái với thể lệ chung của Phật giáo, có thể nói là đường lối khác. Đặc biệt trong “Tiểu tiêu tức” của ngài Pháp Nhiên nói, người ác còn được vãng sanh, huống gì người thiện? Nếu lấy ý nghĩa bản nguyện để bình luận thì có thể gọi là phỉ báng không thể tha thứ.

Tiết thứ bảy

Thuyết tam-muội thấy Phật của ngài Thánh Quang

Ngài Thánh Quang chủ trương thuyết nhiều niệm tương tục, phần nhiều chú trọng về thực hành, mỗi ngày niệm Phật mấy vạn tiếng liên tục không dừng. Trong đó, Thánh Quang tiến tu niệm Phật hành nghi,ngài nói: Có ba loại là Tầm thường hành nghi, Biệt thời hành nghi, Lâm chung hành nghi. Không cần thân tịnh hay bất tịnh, bất luận khi đi, đứng, nằm, ngồi, thời gian, nơi chốn và các duyên, lúc bình thường niệm Phật liên tục gọi là Tầm thường hành nghi. Hạn định số ngày, giữ gìn trai giới, tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục sạch đi vào đạo tràng chuyên tâm niệm Phật, gọi là Biệt thời hành nghi. Khi lâm chung đốt đèn thắp hương, mặt hướng về phía tây, mong cầu Phật đến tiếp đón, nhất tâm niệm Phật, gọi là Lâm chung hành nghi. Riêng Biệt thời hành nghi khuyến khích người kỳ hạn thấy Phật.

Trong điều Biệt thời niệm Phật, Tịnh độ tông yếu tậpquyển 4 nói: “Niệm Phật là mong cầu tam-muội thấy Phật, nhưng vì chậm chạp chưa thấy Phật thì dùng Biệt thời niệm Phật để nhanh chóng thấy Phật”. Nhanh chóng thấy Phật thuộc tam-muội thấy Phật là theo đốn cơ mà nói, hàng đốn cơ mới có thể lãnh thụ. Căn cơ bình thường là tiệm cơ, tầm thường niệm Phật có thể thấy Phật, nếu đối lại với căn cơ biệt thời thì gọi là tiệm cơ thấy Phật.

Khi trong tâm không có vọng tưởng thì thấy Phật, hành giả bình thường khi niệm Phật trong tâm không có vọng tưởng thì có thể thấy Phật, có vọng tưởng thì không thấy Phật. Vì thế, trong pháp môn quán niệm của ngài Thiện Đạo có pháp Biệt thời niệm Phật. Ở trong đạo tràng, ngày đêm thúc liễm nội tâm, chuyên tâm tương tục niệm Phật A-di-đà, chuyên tâm niệm Phật A-di-đà liên tục, tâm và tiếng khắn nhau, chỉ ngồi, chỉ đứng trong bảy ngày không được ngủ nghỉ, cũng không y theo hàng ngày lạy Phật, tụng kinh, cũng không cầm xâu chuỗi, chỉ biết chắp tay niệm Phật. Đây là căn cứ thuyết niệm Phật, mỗi niệm quán tưởng thấy Phật. Chứng minh Biệt thời hành nghi là y theo pháp Bát-chu tam-muội mà tu. Đặc biệt ngài Thánh Quang đề xướng thuyết này, có ý cho rằng thấy Phật thì có thể thành tựu việc vãng sanh.

Tịnh độ tông yếu tậpquyển 2, trích dẫn từ trong kinh Bát-chu tam-muộinói về việc vãng sanh: “Hành giả miệng xưng niệm danh hiệu Phật mong cầu được thấy Phật, lấy tam-muội thấy Phật làm điều mong ước. Cho nên miệng xưng niệm Phật thành tựu hoặc không thành tựu đều lấy sự phát khởi được tam-muội làm sự thành tựu thân hiện tại thấy Phật”. Thành tựu gọi là thấy Phật. Nhưng ở đây khi thấy Phật là thành tựu miệng xưng niệm Phật, từ miệng xưng niệm Phật thành tựu mà thấy được ý nghĩa thành tựu sự nghiệp vãng sanh.

Ngài Thiện Đạo thật chứng Bát-chu tam-muội, đương thời ngài được mọi người ca ngợi là “vị đại đức thân chứng tam-muội” là một sự kiện rất nổi tiếng. Ngài Pháp Nhiên cũng phát khởi được tam-muội miệng xưng niệm Phật cảm ứng thấy được y báo, chánh báo ở Cực Lạc, điều này được ghi chép rõ trong văn Tam-muội phát đắc kícủa ngài.

Thấy Phật là kết quả của chí thành nhiều niệm tương tục, người thực hành y theo đó mới được thể nghiệm trong tôn giáo, khi đạt đến cảnh giới này thì cảm thấy an lạc, niềm tin vãng sanh là chắc chắn không cần phải bàn luận. Vì thế phải là người đốn cơ mới thực hành được, nên nói là khó khăn như thế. Nay bản thân ngài Thánh Quang tu hành thể nghiệm được điều này, cho nên nói chẳng phải người bình thường mà có thể tu trì.

Tiết thứ tám

Thuyết tịnh nghiệp thành tựu lâm chung vãng sanh của ngài Long Khoan

Ngài Long Khoan chủ trương thuyết tịnh nghiệp thành tựu lâm chung vãng sanh, phàm phu được sanh về báo độ. Tức là khi lâm chung một niệm đoạn trừ vô minh, chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, đề xướng thuyết lâm chung đoạn hoặc chứng chân. Ngài đã trứ tác Tán thiện nghĩa vấn đápquyển 6 nói: “Hạnh niệm Phật, khi phát tâm rồi, khuyến tấn mong được vãng sanh mà không thoái chuyển”. Một niệm chân chánh thì lâm chung được ngồi hoa sen, dùng một niệm bình thường nương theo bản nguyện, chỉ có các vị tổ sư như Thiện Đạo, Hoài Cảm mới đạt đến được mà thôi. Hành giả khác dựa theo sức niệm Phật bình thường, cuối cùng có thể thành tựu chánh niệm, vì nương theo sức bản nguyện .

Lại nữa, Cực Lạc Tịnh độ tông nghĩaquyển trung nói: “Khi ngồi đài hoa sen đắc Vô sanh nhẫn chẳng phải là Vô sanh nhẫn của hàng phàm phu khôngsanh về báo độ. Nên biết nay đắc Vô sanh nhẫn là được sanh về báo độ, đắc Vô sanh nhẫn là đoạn trừ vô minh”.

Xả tử vấn quyểnquyển thượng nói: “Khi bệnh nằm trên giường là phàm phu đầy đủ tham, sân. Quán Âm ngồi kiết già trên đài hoa sen tức là bồ-tát đắc Vô sanh nhẫn. Một niệm lúc lâm chung này dựa vào niệm Phật tối hậu thì hơn cả nghiệp trăm năm, tức là nói ra khỏi vô thỉ sanh tử từ xa xưa, cố hương xa lìa sanh tử v.v…”. Việc vãng sanh này đến khi lâm chung do một niệm mà thành tựu là nhờ lúc sống thường tu niệm Phật tương tục dự bị tư lương; cho nên thành lập nghĩa nhiều niệm.

Lại nữa, thuyết lâm chung đoạn hoặc chứng chân là y theo tông nghĩa của Thiên Thai, cho đó là nguyên nhân phàm phu có thể nhập báo độ. Khác với thuyết của ngài Pháp Nhiên đã lập, quan điểm của hai ngài cũng có nhiều điểm bất đồng. Nhưng ngài Thánh Quang chủ trương hành giả phải nỗ lực thực hành, phần nhiều là căn cứ trên sự thể nghiệm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567