Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phụ Lục 5-6-7-8

26/03/201105:16(Xem: 5877)
Phụ Lục 5-6-7-8

SO SÁNH KINH TRUNG A-HÀM CHỮ HÁN
VÀ KINH TRUNG-BỘ CHỮ PÀLI
Hòa thượng Thích Minh Châu (1961) - Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961), "A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

PHẦN 4: PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 5

Những tựa đề và nơi thuyết các kinh C và P tương đương

NC 1
C100, Tưởng kinh.
Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc.
P1: Mùlapariyàyasutta, Kinh Pháp môn căn bản.
Ukkatthà, Subhagavana, gốc cây Sa la vương.
NC 2
C10, Lậu tận kinh
(Kurus, Kammassadamma).
P2 : Sabbàsavasutta, Kinh Tất cả lậu hoặc Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc.
NC 3
C88,Cầu pháp kinh
(Kosala, Pancasàlà, Simsapàvana).
P3: Dhammadàyàdasutta, Kinh Thừa tự pháp Xá Vệ, vườn Kỳ thọ... Anàthapindikàràma.
NC 4
C87, Uế phẩm kinh


(Bhagga, Sumsumàragiri, Bhesakalàvana), vườn Nai.

P5: Ananganasutta, Kinh Không uế nhiễm


Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.

NC 5
C105, Nguyện kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P6: Àkankheyyasutta, Kinh Ước nguyện
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 6
C93, Thủy tịnh phạm chí kinh
(Uruvelà, Neranjarà, Ajapàlanigrodha).
P7: Vatthùpamasutta, Kinh Ví dụ tấm vải
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 7
C91, Châu na vấn kiến kinh
(Kosambì, Ghositàràma).
P8: Sallekhasutta, Kinh Đoạn giảm
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 8
C98, Niệm trú kinh
(Kurus, Kammassadamma).
P10: Satipatthànasutta,Kinh Niệm xứ
Kurus, Kammassadamma.
NC 9
C 103, Sư tử hống kinh
(Kurus, Kammassadamma).
P11: Cùlasìhanàdasutta, Tiểu kinh Sư tử hống
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 10
C 99,Khổ ấm kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P13: Mahàdukkhakkhandhasutta, Đại kinh khổ uẩn. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma
NC 11
C100,Khổ ấm kinh
(Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha).
P14: Cùladukkhakkhandha, Tiểu kinh khổ uẩn
Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha.
NC 12
C89, Tỳ-kheo thỉnh kinh
(Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa).
P15:Anumànasutta, Kinh Tư lượng
Sumsumàragiri, Bhesakalàvana.
NC 13
C206,Tâm uế kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma)
P16: Cetokhilasutta, Kinh Tâm hoang vu
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 14
C107, Lâm kinh


(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).

P17: Vanapatthasutta, Kinh Khu rừng


Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.

NC 15
C115, Mật hoàn dụ kinh
(Sakkas, Kapilavatthu).
P18: Madhupindikasutta, Kinh Mật hoàn
Kapilavatthu.
NC 16
C102, Niệm kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P19: Dvedhàvitakkasutta, Kinh Song tầm
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 17
C101, Tăng thượng tâm kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P20: Vitakkasanthànasutta, Kinh An trú tầm
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 18
C193, Mâu lê phá quần na kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P21: Kakacùpamasutta, Kinh Ví dụ cái cưa
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 19
C200, A lê tra kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P22: Alagaddùpamasutta, Kinh Ví dụ con rắn
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 20
C9,Thất xa kinh
(Ràjagaha, Veluvana, rồi đến Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P24: Rathavinìtasutta, Kinh Trạm xe
Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa; rồi Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 21
C178, Lạp sư kinh
(Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa).
P25: Nivàpasutta, Kinh Bẫy mồi
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 22
C204, La ma kinh
(Sàvatthi, lâu đài Migàramàtu).
P26: Ariyapariyesanasutta, Kinh Thánh cầu
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma, rồi Pubbàràma, Migàramàtu.
NC 23
C 146, Tượng tích dụ kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P27: Cùlahatthipadopamasutta, Tiểu kinh dụ dấu chân voi
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 24
C30,Tượng tích dụ kinh
Chỗ như trên.
P28: Mahàhatthipadopamasutta, Đại kinh dụ dấu chân voi. Chỗ như trên.
NC 25
C185, Ngưu giác Sa la lâm kinh
(Nàdikà, Ginjakàvasatha).
P31: Cùla-Gosingasutta, Tiểu kinh rừng Sừng bò
Nàdikà, Ginjakàvasatha.
NC 26
C184, Ngưu giác Sa la lâm kinh
(Bhagga, Gosingasalavana) .
P32: Mahà-Gosingasutta, Đại kinh rừng Sừng bò
Gosingasalavanadàya.
NC 27
C201, Trà đế kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P38: Mahàtanhàsankhàyasutta, Đại kinh đoạn tận ái. Như C.
NC 28
C182,Mã ấp kinh
(Anga, Assapura, Assavana).
P39: Mahà-Assapurasutta, Đại kinh Xóm ngựa
Như C.
NC 29
C183, Mã ấp kinh
Như trên.
P40: Cùlaassapurasutta, Tiểu kinh Xóm ngựa
Như C.
NC 30
C211, Đại Câu-hy-la kinh
(Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa).
P43: Mahàvedallasutta, Đại kinh Phương quảng
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 31
C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh
(Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma).
P44: Cùlavedallasutta, Tiểu kinh Phương quảng
Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa.
NC 32
C174, Thọ pháp kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P45: Cùladhammasamàdànasutta, Tiểu kinh Pháp hành. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 33
C175, Thọ pháp kinh
Như trên.
P46: Mahàdhammasamàdànasutta, Đại kinh Pháp hành. Như trên.
NC 34
C186, Cầu giải kinh


(Kurus, Kammassadamma).

P47: Vìmamsakasutta, Kinh Tư sát


Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.

NC 35
C78,Phạm thiên thỉnh Phật kinh


Xá vệ, Thắng lâm, Cấp-cô-độc viên.

P49: Brahmanimantanika, Kinh Phạm thiên cầu thỉnh. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 36
C131,Hàng ma kinh
(Bhagga, Sumsumàragiri, Bhesakalàvana).
P50: Màratajjaniyasutta, Kinh Hàng phục ác ma
Như C.
NC 37
C217 Bát thành kinh
Tỳ Xá Ly.
P52: Atthakanagarasutta, Kinh Bát thành
Vesàli, Beluvagàmaka.
NC 38
C203, Bổ lợi đa kinh
(Nàlandà, Pàvàrikambavana).
P54: Potaliyasutta, Kinh Potaliya
Anguttaràpa, thị trấn Àpana.
NC 39
C133, Ưu ba ly kinh
Nà Lan Đà.
P56: Upàlisutta, Kinh Upàli
Nàlandà, Pàvàrikambavana.
NC 40
C14,La vân kinh
Vương Xá, rừng Suối nóng.
P61: Ambalatthikàràhulovàdasutta, Kinh Giáo giới Ràhula ở rừng Ambala. Như C.
NC 41
C221, Tiễn dụ kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên
P63: Cùlamàlunkyasutta, Tiểu kinh Màlunkyaputta. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 42
C205, Ngũ hạ phần kết
Chỗ như trên.
P64: Mahàmàlunkyasutta, Đại kinh Màlunkyaputta. Chỗ như trên.
NC 43
C194, Bạt đà hòa lợi kinh
Chỗ như trên.
P65: Bhaddàlisutta, Kinh Bhaddàli
Chỗ như trên.
NC 44
C192, Ca lâu Ô đà di kinh
Sàketa.
P66: Latukìkopamasutta, Kinh Ví dụ Chim cáy
Anguttaràpa, thị trấn Àpana.
NC 45
C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh
Sàketa.
P68: Nalakapànasutta
Nalakapàna, rừng Palàsa.
NC 46
C26, Cù ni sư kinh
Vương Xá, rừng trúc Ca Lan Đà
P69: Gulissànisutta, Kinh Cù ni sư
Như C.
NC 47
C195, A thấp bối kinh
Kàsi, rồi Simsapàvana.
P70: Kìtagirisutta
Như C.
NC 48
C153,Man nhàn đề
(Kurus, Bhàradvàjagotta).
P75: Màgandiyasutta, Kinh Màgandiya
Như C.
NC 49
C207, Tiễn mao kinh
(Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa, Moranivàpa).
P77: Mahàsakulùdàyìsutta, Đại kinh Sakulùdàyì
Đầu tiên ở Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. Rồi đến Moranivàpa, Paribbàjakàràma.
NC 50
C179, Ngũ chi vật chủ kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P78: Samanamandikasutta
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 51
C208,Tiễn mao kinh
(Vương Xá, vườn trúc Ca Lan Đà, rồi đến Moranivàpa).
P79: Cùlasakulùdàyìsutta, Tiểu kinh Sakulùdàyì
Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa. Rồi đến Moranivàpa.
NC 52
C209, Bệ ma na tư kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P80: Vekhanassasutta, Kinh Vekhanassa
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 53
C63, Bệ bà lăng kỳ kinh
(Kosalas).
P81: Ghatìkàrasutta, Kinh Ghatìkàra
Như kinh C.
NC 54
C132, Lại-tra-hòa-la kinh
(Kurus, Thullakotthita, Simsapàvana).
P82: Ratthapàlasutta, Kinh Ratthapàla
Như kinh C.
NC 55
C67, Đại thiên nại lâm kinh
(Videla, Mithilà, Makkhàdevambavana).
P83: Makhàdevasutta, Kinh Makhàdeva
Như C.
NC 56
C216, Ái sanh kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm.
P87: Piyajàtikasutta, Kinh Ái sanh
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 57
C214,Bệ ha đề kinh
Chỗ như trên.
P88: Bàhitikasutta
Như trên.
NC 58
C213,Pháp trang nghiêm kinh
(Sakkas, Medalumpa).
P89, Dhammacetiyasutta, Kinh Pháp trang nghiêm. Như C.
NC 59
C212, Nhất thiết trí kinh
(Ujunnnà, Kannakatthala).
P90: Kannakatthalasutta
Chỗ như C.
NC 60
C161, Phạm ma kinh
(Videha).
P91: Brahmàyusutta, Kinh Brahmàyu
Như C.
NC 61
C151, Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P93: Assalàyanasutta, Kinh Assalàyana
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 62
C150, Uất sậu ca la kinh
(Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa).
P96: Esukàrìsutta, Kinh Esukàrì
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 63
C27,Phạm chí Đà nhiên kinh
Vương Xá (như P).
P97: Dhànanjànisutta, Kinh Dhànanjàni
Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa.
NC 64
C152, Anh vũ kinh
Vương Xá, rừng trúc Ca Lan Đà.
P99: Subhasutta, Kinh Subha


Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.

NC 65
C19, Ni kiền kinh
Thích Sí Sấu, thị trấn Devadaha.
P101: Devadahasutta, Kinh Devadaha
Như C.
NC 66
C196, Châu na kinh
(Bhaggas?, Sàmagàma).
P104: Sàmagàmasutta, Kinh Làng Sàma
Như C.
NC 67
C75, Tịnh bất động đạo kinh
(Kurus, Kammassadamma).
P106: Ànanjasappàyasutta.
Như kinh C.
NC 68
C144,Toán số Mục-liền-liên kinh
Xá Vệ, Đông viên Lộc Mẩu giảng đường.
P107:Ganakamoggallànasutta, Kinh Toán số Mục-liền-liên. Như C.
NC 69
C145, Cù mặc Mục-liền-liên kinh
(Vương Xá).
P108: Gopakamoggallànasutta
Như C.
NC 70
C187, Thuyết trí kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P112: Chabbisodhanasutta
Như C.
NC 71
C85, Chân nhân kinh
Như trên.
P113: Sappurisasutta
Như trên.
NC 72
C181, Đa giới kinh


Như trên.

P115:Bahudhàtukasutta


Như trên.

NC 73
C189,Thánh đạo kinh
(Kurus, kammassadamma).
P117: Mahàcattàrìsakasutta, Kinh Đại tứ thập
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc.
NC 74
C81, Niệm thân kinh
(Anga, Àpana?).
P 119: Kàyagatàsatisutta, Kinh Thân hành niệm
Như trên.
NC 75
C168, Ý hành kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P120: Sankhàruppatisutta
Như trên.
NC 76
C190, Tiểu không kinh
Xá Vệ, Đông viên Lộc Mẫu giảng đường.
P121: Cùlasunnatasutta, Kinh Tiểu không
Sàvatthi, Pubbàràma, lâu đài Migàramàtu.
NC 77
C191, Đại không kinh
(Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha).
P122: Mahàsunnatasutta, Kinh Đại không
Như C.
NC 78
C32, Vị tằng hữu pháp kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P123: Acchariyabbhutadhammasutta
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 79
C34, Bạt câu la kinh
Vương Xá, rừng Trúc Ca Lan Đà.
P124: Bakkulasutta
Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa.
NC 80
C198, Điều ngự địa kinh
Chỗ như trên.
P125: Dantabhùmisutta
Chỗ như trên.
NC 81
C173, Phù di kinh
Chỗ như trên.
P126: Bhùmijasutta
Chỗ như trên.
NC 82
C79, Hữu thắng thiên
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên
P127: Anuruddhasutta, Kinh A na luật
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 83
C72, Trường thọ vương bản khởi kinh
(Kosambì, Ghositàràma).
P128: Upakkilesasutta, Kinh Tùy phiền não
Như C.
NC 84
C199, Si tuệ địa kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P129: Bàlapanditasutta, Kinh Hiền ngu
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 85
C64, Thiên sứ kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P130: Devadùtasutta, Kinh Thiên sứ
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 86
C167, A nan thuyết kinh
Chỗ như trên.
P132: Ànanda-Bhaddekarattasutta, Kinh A nan nhất dạ hiền giả. Chỗ như trên.
NC 87
C165, Ôn Tuyền lâm thiên kinh
Vương Xá, rừng Trúc Ca Lan Đà.
P133:Mahàkaccàna-Bhaddekarattasutta, Kinh Đại Ca chiên diên nhất dạ hiền giả
Ràjagaha, Tapodàràma.
NC 88
C166, Thích trung thiền thất tôn kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P134: Lomasakangiya- Bhaddekarattasutta, Kinh Nhất dạ hiền giả Lomasaka
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 89
C170, Anh vũ kinh
Chỗ như trên.
P135: Cùlakammavibhangasutta, Kinh Phân biệt tiểu nghiệp. Chỗ như trên.
NC 90
C171, Phân biệt đại nghiệp kinh
Vương Xá, rừng Trúc Ca Lan Đà.
P136: Mahàkammavibhangasutta, Kinh Phân biệt đại nghiệp. Ràjagaha, Veluvana, Kalandakanivàpa.
NC 91
C163, Phân biệt lục xứ kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P137: Salàyatanavibhangasutta, Kinh Phân biệt sáu xứ. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 92
C164, Phân biệt quán pháp kinh
Chỗ như trên.
P138: Uddesavibhangasutta,
Chỗ như trên.
NC 93
C169, Câu lâu sấu vô tránh kinh
(Bhagga, Kammassadamma).
P139: Aranavibhangasutta
Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 94
C162, Phân biệt lục giới kinh
(Magadha, Ràjagaha).
P140: Dhàtuvibhangasutta, Kinh Phân biệt giới
Như C.
NC 95
C31, Phân biệt thánh đế kinh
(Kurus, Kammassadamma).
P141: Saccavibhangasutta, Kinh Phân biệt sự thật. Bàrànasì, Isipatana, Migadàya.
NC 96
C180, Cù Đàm di kinh
(Sakkas, Kapilavatthu, Nigrodha).
P142: Dakkhinavibhangasutta.
Như C.
NC 97
C28, Giáo hóa bịnh kinh
Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc viên.
P143: Anàthapindikovàdasutta, Kinh Giáo hóa Cấp-cô-độc. Sàvatthi, Jetavana, Anàthapindikàràma.
NC 98
C86, Thuyết xứ kinh
Chỗ như trên.
P148: Chachakkasutta, Kinh Sáu sáu
Chỗ như trên.
PHỤ LỤC 6
Danh sách 22 kinh Pàli Trung bộ không có trong A-hàm

1) P30, Cùla Saropamasutta
2) P36, Mahà Saccakasutta
3) P41, Sàleyyakasutta
4) P42, Velanjakasutta
5) P51, Kandarakasutta
6) P55, Jìvakasutta
7) P57, Kukkuravatikasutta
8) P58, Abhayaràjakumàrasutta
9) P60, Apannakasutta
10) P71, Tevijja-Vacchagottasutta
11) P85, Bodhiràjakumàrasutta
12) P94, Ghotamukhasutta
13) P95, Cankìsutta
14) P98, Vàsetthasutta
15) P100, Sangàravasutta
16) P102, Pancattayasutta
17) P103, Kintìsutta
18) P105, Sunakkhattasutta
19) P111, Anupadasutta
20) P114, Sevitabbàsevitabbasutta
21) P118, Ànàpànasatisutta
22) P131, Bhaddekarattasutta.

Chúng ta nhận thấy rằng kinh P85, Bodhiràjakumàrasutta, có kinh tương đương của nó trong tạng Luật, và kinh P118, Ànàpànasatisutta, có tương đương trong bản kinh riêng rẽ nhan đề là Sự kinh.


PHỤ LỤC 7

Danh sách 19 kinh trong A-hàm
không có trong Trung bộ và trong các Nikàya khác

(Theo C.A.P.N)

1) C7, Thế gian phước kinh
2) C39, Úc già trưởng giả kinh
3) C44, Niệm kinh
4) C54, Tận trí kinh
5) C55, Niết-bàn kinh
6) C60, Tứ châu kinh
7) C62, Tần bệ sa la vương ứng pháp kinh
8) C65, Ô điểu dụ kinh
9) C69, Tam thập dụ kinh
10) C80, Ca hy na kinh
11) C92, Thanh bạch liên hoa dụ kinh
12) C147, Văn đức kinh
13) C159, A già la ha na kinh
14) C176, Hành thiền kinh
15) C177, Thuyết kinh
16) C197, Ưu ba ly kinh
17) C218, A na luật đà kinh (A)
18) C219, A na luật đà kinh (B)
19) C222, Lệ kinh

Kinh C197, Ưu ba ly kinh, có bản tương đương Pàli trong Mahàvagga (Đại Phẩm) (6,1-8). Kinh C62 có bản Pàli tương đương trong Mahàvagga (1,4-1).

PHỤ LỤC 8
Toát yếu 19 kinh trong Trung A-hàm

không có trong Trung bộ kinh và các Nikàya khác

 

1. C7, Thế gian phước kinh:
Phật giảng bảy loại phước trên thế gian, là phẩm vật mà các thiện nam tín nữ dâng cúng cho tăng già:
a) phòng xá;
b) tọa cụ, thảm, chiếu, đệm ngủ;
c) tất cả y phục mới và sạch;
d) thức ăn;
e) cho người làm vườn, tôi tớ đến phục vụ chư tăng;
f) khi có gió mưa, lạnh, tuyết, thì đích thân đến chùa để cúng dường;
g) sau khi chư tăng ăn xong, phải xem chừng để họ không bị khổ vì gió, mưa, lạnh, tuyết, y phục không bị ướt, để ngày đêm có thể an ổn thực hành thiền quán.

Rồi Phật giải thích bảy loại phước siêu thế, đó là các thiện nam tín nữ vui mừng :

a. khi nghe rằng đức Như lai và các đệ tử của Ngài đang du hành đến một nơi nào;
b. khi nghe rằng đức Như lai và đệ tử muốn đi từ nơi này đến nơi kia;
c. khi nghe rằng đức Như lai và đệ tử đã từ giã chỗ kia để đến chỗ này;
d. sau khi nghe như vậy, đi đến yết kiến và đảnh lễ Phật cùng chúng tăng với một tâm thanh tịnh;
e. cúng dường cho họ;
f. sau khi cúng dường, quy y Tam bảo;
g. thọ ngũ giới.

Đức Phật lại giải thích rằng những hành vi này đem lại vô lượng vô số quả báo công đức, như nước của năm con sông lớn ở Diêm Phù Đề.

2. C39, Úc già trưởng giả kinh:

Không lâu sau khi Phật nhập Niết-bàn, có một gia chủ tại Tỳ Xá Ly thường bố thí cho tất cả mọi người và mỗi năm ngày lại mời chư tăng thọ trai. Một hôm ông ta mất một chiếc tàu và Tôn giả A Nan được chư tăng phái đến bảo ông đừng cúng dường nữa. Gia chủ thưa Tôn giả rằng ông cúng dường bố thí cốt để toại nguyện làm Chuyển luân vương. Ông giải thích rằng ước nguyện của người nghèo trong làng là được trở thành một người giàu; người giàu trong làng thì ước mong trở thành một người giàu trong quận; người giàu trong quận mong thành người giàu nhất trong đô thị; người giàu trong đô thị ước nguyện được làm người mà mọi người phải cung kính tôn trọng; người được cung kính tôn trọng trong thành phố ước muốn trở thành tể tướng trong xứ; tể tướng trong xứ muốn trở thành tiểu vương; ước nguyện của tiểu vương là muốn trở thành Chuyển luân vương; Chuyển luân vương lại có ước nguyện muốn tu hành phạm hạnh thành một Tỳ-kheo, thực chứng chân lý và đắc quả A-la-hán. Bởi thế ông ta bố thí thật nhiều cốt để thỏa mãn lời nguyện làm Chuyển luân vương. Rồi Úc Già nói thêm rằng, ông có bốn sự thành tựu khác nữa: a. Mỗi khi đến tu viện ông luôn luôn đảnh lễ các Tỳ-kheo, ngồi vói họ, đàm luận pháp với họ, và không bao giờ coi thường một Tỳ-kheo nào cả; b. Mỗi khi ông cúng dường cho các Tỳ-kheo, có một vị trời đứng trên không bảo ông, người này là một A-la-hán, người kia sẽ thành La hán; người này là bậc Bất hoàn; người này sẽ thành Bất hoàn, người này là một bậc Nhất lai, người này sẽ thành một bậc Nhất lai; người này là một bậc Dự lưu người này sẽ thành một bậc Dự lưu; người này tinh cần, người kia không tinh cần. Nhưng ông ta không tin vị trời ấy, không làm theo lời khuyên và mong muốn của vị trời, mà với trí tuệ trong sáng của mình, ông biết rằng có đức Như lai và thánh chúng của đức Như lai; d. Ông đã ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú cho đến thiền thứ tư.

3. C44, Niệm kinh:

Phật bảo các Tỳ-kheo rằng, nếu Tỳ-kheo thất niệm, không có chánh trí thì điều này có hại cho chánh niệm, chánh trí của vị ấy. Không có chánh niệm, chánh trí là có hại cho sự hộ trì các giác quan, sự hộ trì giới, sự bất hối, hỷ, lạc, an tịnh, hạnh phúc, chánh định, chánh tri kiến, viễn ly, ly dục, giải thoát. Sự không giải thoát có hại cho Niết-bàn. Nếu Tỳ-kheo không thất niệm và có chánh trí, thì điều này sẽ sinh khởi chánh niệm chánh trí. Chánh niệm, chánh trí sẽ sinh khởi sự hộ trì căn.... cho đến giải thoát. Giải thoát, sinh khởi Niết-bàn.

4. C54, Tận trí kinh:

Phật bảo các Tỳ-kheo rằng, với chánh tri chánh kiến, người ta có thể đạt đến lậu tận, không phải là không chánh tri chánh kiến. Do chánh tri kiến về khổ, về tập khởi của khổ, về sự diệt khổ, về con đường đưa đến diệt khổ phù hợp với chân lý mà người ta đạt đến lậu tận, rồi Phật kể ra một loạt 24 pháp kế tiếp nhau, hiển thị rằng pháp thứ nhất có pháp thứ hai là nguồn gốc, pháp thứ hai có thứ ba là nguồn gốc v.v.. cho đến pháp thứ 24. 24 pháp như sau: 1. Thắng trí, 2. Giải thoát, 3. Ly dục, 4. Yểm ly, 5. Chánh tri chánh kiến, 6. Định, 7. Lạc, 8. An tịnh, 9. Hỷ, 10. Hân hoan, 11. Bất hối, 12. Giữ giới, 13. Hộ trì kinh, 14. Chánh niệm, chánh trí, 15. Chánh tư duy, 16. Tin tưởng, 17. Nhẫn nhục, 18. Đọc tụng, 19. Thọ trì pháp, 20. Suy xét ý nghĩa pháp, 21. Phạm vi lỗ tai (ear-sphere?), 22. Lắng tai nghe diệu pháp, 23. Đến gần, 24. Cung kính hầu hạ. Rồi Phật giải thích 24 pháp trong thứ tự ngược lại và theo cách phủ định.

5. C55, Niết-bàn kinh:

Đức Phật kể ra một loạt 29 pháp tiếp nhau, hiển thị pháp thứ nhất có nguồn gốc từ pháp thứ hai, pháp thứ hai có nguồn gốc từ pháp thứ ba.... cho đến pháp 29. 29 pháp ấy như sau: 1. Niết-bàn, 2. Giải thoát, 3. Ly dục, 4. Nhàm chán, 5. Thấy biết chân chính, 6. Tập trung, 7. Lạc, 8. An tịnh, 9. Hỷ, 10. Hân hoan, 11. Bất hối, 12. Giữ giới, 13. Hộ trì căn, 14. Chánh niệm chánh trí, 15. Suy xét chân chính, 16. Tin tưởng, 17. Khổ, 18. Già chết, 19. Sanh, 20. Hữu, 21. Thủ, 22. Ái, 23. Thọ, 24. Hưởng thụ mạnh mẽ, 25. Sáu xứ, 26. Danh sắc, 27. Thức, 28. Hành, 29. Vô minh. Rồi Phật giải thích những pháp ấy theo cách ngược lại, do vô minh có hành v.v.. cho đến Niết-bàn.

6. C60, Tứ châu kinh:

Đức Phật xác nhận tư tưởng của Tôn giả A Nan là đúng, rằng trên thế gian này rất ít người chết với những ước muốn của họ đặc biệt thỏa mãn, rất ít người chết với tâm nhàm chán dục vọng. Rồi Phật kể lại một tiền kiếp của Ngài lúc còn làm một vị Chuyển luân vương cai trị bốn châu: 1. Cai trị châu Diêm Phù, ở đó ngài có vô số tài sản và quyến thuộc, 7000 con trai với những trận mưa châu báu suốt bảy ngày ngập đến gối; 2. Cai trị châu ở phía tây tên Cù Đà Ni (Aparagoyàna); 3. Cai trị châu phía đông Phất Bà Tỳ Đà Đề (Pubbavideha); 4. Cai trị châu Uất Đơn Bạch (Uttarakuru). Mặc dù Ngài đã cai trì cả bốn châu ấy, Ngài vẫn chưa thỏa mãn, rồi Ngài lên cõi trời 33, và tại đấy, vì bị mê mẩn bởi sự giống nhau giữa Ngài với trời Đế thích, trừ đôi mắt, ngài đã muốn đoạt ngôi của Đế Thích và do duyên cớ này Ngài đã rớt xuống trở lại châu Diêm Phù Đề. Rồi Ngài nhận ra và công bố rằng nếu chết đi Ngài sẽ chết với một tâm bất mãn, đức Phật tiếp tục giải thích rằng bây giờ thì khác vì Ngài đã thành một đức Như lai viên mãn và chân chính giác ngộ và đã chấm dứt tất cả những loại đau khổ.

7. C62, Tần bệ sa la vương ứng Phật kinh:

Kinh này có kinh P tương đương trong Mahàvagga, nói về việc vua Tần Bà Sa La xứ Ma Kiệt Đà thỉnh Phật.

8. C65, Ô điểu dụ kinh:

Phật dùng bảy ví dụ, một con rái cá, một con cưu mạt (chim săn mồi), một con chim thứu (kên kên), một con chim ăn đồ mửa, một con sói, một con quạ, và một con bê để khuyên các Tỳ-kheo không nên xử sự giống sáu con thú và chim (nghĩa là nhận của cúng dường từ cư sĩ mà không có tịnh giới) nhưng hãy theo gương con bò, nghĩa là từ bỏ năm triền cái, hành thiền để đắc quả A-la-hán.

9. C69, Tam thập dụ kinh:

Đức Phật dùng 30 thí dụ về các vật và người mà vua hoặc cận thần của vua sở hữu, để khuyên các tăng ni phải có đủ 30 đức tính cần có của người đã xuất gia. Đó là: 1. Lấy giới làm đồ trang sức, 2. Sự viên mãn giới để hộ trì đời sống phạm hạnh, như năm ấn, 3. Hộ trì sáu giác quan, như lính gác cung điện, 4. Chánh niệm, như người gác cổng, 5. Tâm an tịnh, như hồ tắm đầy nước trong, 6. Bạn lành, như người hầu tắm, 7. Sự tuân giữ giới, như hương liệu thoa thân, 8. Tàm và quý, như y phục đẹp, 9. Bốn thiền, như chỗ ngồi, 10. Chánh niệm, như người thợ hớt tóc, 11. Hỷ, như thực phẩm tuyệt hảo, ngon lành, 12. Pháp vị, như thức uống ngon, 13. Ba thiền về tâm, không, vô nguyện, vô tướng, như là những tràng hoa đẹp, 14. Nhà của chư thiên, phạm thiên, như là lâu đài cung điện. 15. Trí tuệ, như người giữ nhà, 16. Bốn chánh cần, như bốn loại thuế. 17. Bốn chánh đoạn, như các loại quân, 18. Bốn thần thông, như bốn loại xe, 19. Định tuệ, như vật trang hoàng cho xe. 20. Chánh niệm, như người đánh xe, 21. Tự tâm, như lá cờ cao, 22. Bát chánh đạo, như con đường bằng phẳng, 23. Trí tuệ, như tướng quân, 24. Trí tuệ, như sảnh đường cho tiếp kiến, 25. Lên lầu cao trí tuệ, như vua và đình thần lên lầu cao, 26. Sự đạt đến bốn hạng gia đình cao quý, như là thiện xảo về dòng họ và triều đại, 27. Chánh niệm, như một y sĩ có tài. 28. Thiền định không chướng ngại, như một chỗ nằm khéo trang hoàng, 29. Tâm giải thoát bất động, như ngọc báu nổi tiếng, 30. Quán tâm để thanh tịnh thân, như việc vua và định thần của vua đi tắm và bôi hương liệu lên thân thể để làm thân họ trong sạch.

10. C80, Ca thi na kinh:

Tôn giả A Na Luật Đà bảo Tôn giả A Nan rằng, ba cái y của mình đã rách, rất tồi tệ, và xin Tôn giả A Nan sai các Tỳ-kheo sắm cho mình ba y. Tôn giả A Nan bảo các Tỳ-kheo tụ hội để may y cho Tôn giả A Na Luật Đà. Khi Phật trông thấy, Ngài hỏi Tôn giả A Nan sao không báo cho Ngài biết để Ngài đến giúp một tay may y, rồi Phật đi đến hội chúng và giúp một tay may y cho Tôn giả A Na Luật Đà, cùng với 800 Tỳ-kheo hiện diện, nhờ thế ba y hoàn tất nội trong một ngày. Khi ấy đức Thế Tôn vì bị đau lưng, trước đại chúng, nằm xuống nghỉ một lát và bảo Tôn giả A Na Luật Đà thuyết pháp về Ca thi na cho các Tỳ-kheo. A Na Luật Đà vâng lời, ngài nói ra lý do của việc mình theo đời sống phạm hạnh, tuân giữ giới luật, gột rửa năm triền cái, sự hành thiền, chứng đắc bốn thiền, các thần thông, thiên nhãn, tha tâm, túc mạng trí, sinh tử trí, trí biết về bốn đế, về các lậu hoặc một cách như thật. Rồi Tôn giả A Na Luật Đà hỏi các Tỳ-kheo, nếu có nghi ngờ gì về sự chứng đắc sáu thắng trí của ngài thì cứ hỏi, ngài sẽ trả lời cho tất cả. Khi ấy, đức Phật sau khi hết cơn đau lưng, trở dậy ngồi kiết già, khen ngợi A Na Luật và khuyến khích ngài giảng pháp Ca thi na cho các Tỳ-kheo và khuyên các Tỳ-kheo nên thực hành pháp Ca thi na.

11. C92, Thanh bạch liên hoa dụ kinh:

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng có những pháp có thể phá hủy bằng thân như các bất thiện thân hành, có những pháp có thể phá hủy bằng miệng như các bất thiện ngữ hành, có những pháp không thể phá hủy bằng thân và miệng, như sự tranh chấp, cải cọ, thù hằn, tham lam, quỷ quyệt, nịnh hót, vô tàm vô quý, ác dục, tà kiến, những thứ này không thể được phá hủy bằng thân và miệng mà chỉ nhờ bằng trí tuệ.

12. C147, Văn đức kinh:

Đức Phật kể ra cho Bà-la-môn Văn Đức 14 đức tính cần phải có của đệ tử xuất gia, tại gia của Phật. Nhờ đa văn và tu tập: 1. không khổ sầu và bị đau khổ thắng lướt, nếu công việc của họ không được thịnh vượng, 2. (như trên) nếu phải xa lìa những gì họ yêu thích, 3. quán sát tài sản là vô thường và nghĩ đến việc xuất gia học pháp, 4. theo đời sống không nhà để học pháp, 5. nhẫn khổ chịu nhọc về mọi thứ, 6. chịu đựng sự bất hạnh một cách nhẫn nại không bị nó làm ảnh hưởng, 7. chịu đựng sự kinh hoàng một cách nhẫn nại không bị ảnh hưởng bởi sợ hãi, 8. không bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng sân hận, 9. tránh xa ác bất thiện pháp, chứng và trú bốn thiền, 10. đắc quả Dự lưu, 11. đắc Nhất lai, 12. đắc Bất hoàn, đắc giải thoát tịch tịnh khỏi sắc pháp, đạt đến vô sắc, 14. đắc sáu thắng trí và quả A-la-hán.

13. C159, A già la A na kinh:

Bà-la-môn A Già La A Na hỏi Phật một loạt câu hỏi, khởi đầu là : "Kinh điển Vệ đà căn cứ trên nền tảng nào" cho đến Niết-bàn là pháp thứ 16. Phật trả lời một loạt 17 pháp, khởi đầu bằng con người, được nói là nền tảng trên đó kinh Vệ đà căn cứ, v.v.. cho đến Niết-bàn, pháp kế tiếp làm nền tảng cho pháp đi trước nó, trừ pháp thứ sáu, hư không, không có nền tảng vì do mặt trăng mặt trời mà hư không hiện hữu; cũng trừ Niết-bàn, cái không có nền tảng. 17 pháp như sau: 1. Người, 2. Mùa màng, 3. Đất, 4. Nước, 5. Gió, 6. Hư không. 7. Nhật nguyệt, 8. Tứ thiên vương, 9. Cõi trời 33, 10. Trời Dạ Ma, 11. Trời Đâu Suất Đà, 12. Trời Hóa Lạc, 13. Trời Đại Hóa Lạc, 14. Trời Brahmaloka 15. Trời Đại Phạm, 16. Nhẫn nhục và từ bi, 17. Niết-bàn.

14. C176, Hành thiền kinh:

Đức Phật giảng cho các Tỳ-kheo bốn hạng người tu tập thiền định: những người tu hành thối về thiền định mà tưởng mình tiến, hạng người tiến mà tưởng mình thối, hạng người thối nhưng biết mình thối, hạng người tiến mà biết mình tiến.

15. C77, Thuyết kinh:

Đức Phật giảng cho các Tỳ-kheo lý thuyết về bốn loại ngôn ngữ. Có một Tỳ-kheo tu hành đạt đến sơ thiền nhưng không bám giữ sụ tu tập ấy, không nghĩ về đặc tính của nó mà lại nuôi những ý nghĩ liên hệ đến dục. Tỳ-kheo ấy nên biết rằng vị ấy khởi lên sơ thiền nhưng không đứng vững, không tiến, mà sẽ thụt lùi. Nếu có một Tỳ-kheo tu tập và đạt đến sơ thiền, nhưng bám lấy sự tu tập này, tư duy về đặc tính của nó, trú tâm mình trên pháp ấy làm nó trở thành chuyên nhất, Tỳ-kheo ấy nên biết rằng vị ấy khởi lên pháp này không thụt lùi cũng không tiến bộ; vị ấy sẽ không trở thành nhàm chán, mà sẽ đứng vững và định của vị ấy sẽ kéo dài.

Lại nữa có một Tỳ-kheo hành thiền đạt đến sơ thiền. Vị ấy không bám giữ sự tu tập này, không nghĩ đến đặc tính của nó nhưng nuôi những ý tưởng liên hệ và mong muốn tiến lên. Tỳ-kheo ấy nên biết rằng, vị ấy làm khởi lên pháp ấy nhưng không thụt lùi, không đứng nguyên chỗ, không trở thành nhàm chán, mà pháp ấy khiến họ tiến xa hơn và chẳng bao lâu họ sẽ đạt đến thiền thứ hai. Lại nữa có một Tỳ-kheo hành thiền, đạt đến sơ thiền, không bám giữ pháp ấy, không nghĩ đến đặc tính của nó, nhưng nuôi dưỡng những ý tưởng liên hệ đến diệt tận, an tịnh, ly dục, Tỳ-kheo nên biết rằng vị ấy làm phát sinh pháp ấy nhưng không thụt lùi, không đứng một chỗ, không tiến lên, nhưng pháp ấy làm cho vị ấy nhàm chán và chẳng bao lâu vị ấy sẽ đạt đến lậu tận, sự chấm dứt tất cả lậu hoặc. Cũng vậy với thiền thứ hai, thứ ba và thứ tư cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ.

16. C197, Ưu ba ly kinh:

Kinh này có kinh P tương đương trong Mahàvagga.

17. C218, A na luật đà kinh:

Các Tỳ-kheo hỏi Tôn giả A Na Luật Đà thế nào gọi là một Tỳ-kheo chết như một bậc thánh. Tôn giả A Na Luật Đà trả lời rằng, khi một Tỳ-kheo tu tập chứng đến thiền thứ tư, vị ấy được gọi là chết như một bậc thánh nhưng không hoàn toàn thánh. Nhưng vị Tỳ-kheo nào có được thiên nhãn, tha tâm, biết các đời trước, đạt đến sanh tử trí, lậu tận trí, đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đắc quả A-la-hán, vị ấy được gọi là đã chết với một tâm thánh thiện và đây là tối thượng.

18. C219, A na luật đà kinh:

Các Tỳ-kheo hỏi Tôn giả A Na Luật Đà thế nào gọi là một Tỳ-kheo chết không còn phiền não. Tôn giả A Na Luật Đà trả lời rằng, khi một Tỳ-kheo có tri kiến chánh trực, có các học giới mà chư thánh yêu mến. Khi một Tỳ-kheo tu tập bốn niệm xứ, bốn vô lượng, khi một Tỳ-kheo tu các thiền vô sắc cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, thế là họ chết không có phiền não, nhưng không phải là tuyệt đối không phiền não. Chỉ có những Tỳ-kheo nào biết cách dập tắt thân xúc, và với trí tuệ đoạn trừ tất cả lậu hoặc, những Tỳ-kheo ấy sẽ chết tuyệt đối không phiền não.

19. C222, Lệ kinh:

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng, muốn nhổ tận gốc, hoặc muốn biết một cách riêng rẽ 12 thành phần của duyên sinh, người ta phải tu tập bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo, mười biến xứ, và mười pháp của bậc vô học.

 

CHƯƠNG III : VAI TRÒ CÁC NHÂN VẬT TRONG KINH
- NHỮNG CÁCH THUYẾT PHÁP

Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu so sánh 98 kinh, đề cập vai trò của các nhân vật khác nhau trong những kinh này cũng như những cách thuyết pháp. Ở đây chúng ta chỉ giới hạn việc nghiên cứu vào thái độ, oai nghi cử chỉ của những nhân vật trong kinh, còn giáo lý trong đó sẽ được đề cập rộng rãi trong những chương kế tiếp.
Các kinh có thể phân loại thành tám cách thuyết:
1- Phật thuyết pháp không có lý do nào rõ rệt;
2- Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến của đệ tử hay người khác;
3- Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn;
4- Phật thuyết pháp để đối đáp với những tông phái phi Phật giáo;
5- Phật thuyết pháp cho những Tỳ-kheo đệ tử;
6- Phật thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ của Ngài hoặc cho những người khác;
7- Những đệ tử của Phật tụ họp để bàn luận Phật pháp;
8- Một trong những đệ tử của Phật giảng toàn thể kinh.

1. Đức Phật thuyết pháp không có lý do rõ rệt:

Đôi khi đức Phật gọi các Tỳ-kheo đến rồi giảng pháp không có lý do rõ rệt cũng không do một cơ hội đặc biệt nào. Ở đây những người nghe phần lớn là Tỳ-kheo, tên của họ không được kể ra. Trong số 98 kinh NC, có 22 kinh được xếp vào loại này: NC 1, 2, 8, 9, 13, 14, 16, 17, 21, 28, 29, 32, 33, 34, 70, 71, 73, 75, 84, 85, 91, 93.

2. Đức Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến nơi những đệ tử hoặc người khác:

Đôi khi một vài đệ tử Phật có tà kiến. Những Tỳ-kheo bạn cố sửa đổi nhưng không thành công, bởi vậy vấn đề được đưa đến trước đức Phật và Ngài triệu tập những người có lỗi để quở trách và nêu lên những lỗi lầm của họ. NC số 19, 27, 35, 47 thuộc về loại này.
Trong NC 27, C201, kinh Trà đế,nói đức Phật hỏi các Tỳ-kheo trước, rồi quở trách Tỳ-kheo Trà Đế (Ch'a-ti), và vị này hối hận. Trong P38, Ái tận đại kinh,Tỳ-kheo Sàti hối hận trước, rồi các Tỳ-kheo khác đáp câu hỏi của Phật. Bản C thêm: "Đức Phật thuyết kinh này xong, ba vạn thế giới chấn động ba lần."

Trong NC 35, một vị Phạm thiên trên cõi trời có tà kiến rằng cõi Phạm thiên là trường cửu. P49 thêm tên của vị Phạm thiên ấy là Baka. Trong C78, Phạm thiên thỉnh Phật, Phật biến mất khỏi Xá Vệ, Shêng-lin, Kei-ku-tu để đi đến cõi Phạm thiên. Trong P49, đức Thế tôn biến mất từ rừng Subhaga tại Ukkatthïà và hiện ra trong cõi Phạm thiên. Bản C nói khi đức Phật nhận ra Ác ma (Màra), thì Ác ma bị thua và biến mất tại chỗ, nhưng bản P ghi rằng Phật nêu lên cho Ác ma thấy rằng có thể Phạm thiên (Brahmà) và quyến thuộc của ông ta ở trong tầm tay của Ác ma, nhưng Phật thì không. Sự đấu phép thần thông của Phật và Ác ma cũng không giống nhau. Trong bản C, Phạm thiên dùng tất cả năng lực thần thông để cố ẩn nấp chỗ này chỗ kia nhưng đức Thế tôn đều thấy được ông ta, bởi thế ông không thể trốn mà phải trở lại trong Phạm thiên giới. Trong bản P, Phạm thiên Baka không thể biến mất trước mặt đức Phật. Trong bản C, Phật phóng hào quang chiếu khắp các Phạm thiên giới, và ẩn trong đó, làm cho Phạm thiên và quyến thuộc chỉ có thể nghe Ngài nói mà không thể trông thấy Ngài. Trong bản P, khi đức Phật biến mất, Ngài làm cho Phạm thiên, tùy tùng (Brahmaparisà) và quyến thuộc (Brahmapàrisajja) không trông thấy Ngài mà chỉ nghe Ngài nói bài kệ:

"Bị vướng vào hữu, ta đi tìm phi hữu.
Vì đã thấy nguy hiểm của hữu,
Ta không thích thú đối với hữu,
Và không dục hỷ trong đó."

Phạm thiên, tùy tùng và quyến thuộc của Phạm thiên sửng sốt kinh ngạc.

3. Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn:

Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn lời Phật trong NC số 3, 95; Tôn giả Ca-chiên-diên (C:Chia-chan-yen; P: Mahàkaccàna) trong NC 15, 87, 92.
a) Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn:

Trong NC 3, C88, Cầu Pháp kinh,nói có nhiều đại đệ tử cư trú gần am tranh của Phật, như Tôn giả Xá-lợi-tử, Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Lệ Việt (Li-yueh), A Nan, nhưng P3, Thừa tự Pháp,bỏ mục này. Trong bản C, đức Thế tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-tử hãy giảng rộng lời Ngài dạy vì đức Phật đau lưng cần nghỉ ngơi chút đỉnh. Đoạn Ngài gấp tư y Uất đa la tăng (C: Yu-to-lo-sêng; P: Uttarà-sanga) mà trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (C: Sêng-chia-li; P: Sanghàti) làm thành một cái gối và nằm xuống hông bên phải, hai ống chân xếp chồng lên nhau, thiền định về quang tướng với chánh niệm tỉnh giác và luôn luôn nghỉ đến lúc thức dậy (69). Nhưng bản P chỉ nói rằng bậc Thiện thệ (Sugata) từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Trong bản C, Thượng tọa Xá-lợi-tử yêu cầu các Tỳ-kheo giải thích lời dạy vắn tắt của Phật, và hai Tỳ-kheo cố trả lời nhưng không thỏa đáng. Trong bản P, không có lời vắn tắt của Phật và sự trả lời của các Tỳ-kheo, mặc dù Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đặt câu hỏi ấy. Sau khi Tôn giả Xá-lợi-tử giải thích xong, đức Thế tôn đã bớt đau lưng, cảm thấy dễ chịu, bèn ngồi dậy khoanh chân kiết già và ca ngợi Tôn giả Xá-lợi-tử. Những chi tiết này không có trong bản P.

Trong NC số 95, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử đọc một bài kệ tóm tắt bài giảng của Ngài, còn bản P bỏ bài kệ nhưng lập lại lời công bố của sự chuyển Pháp luân tại Ba La Nại, Chư thiên đọa xứ, vườn Nai, lúc mở đầu kinh.

b) Tôn giả Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) khai diễn:

Trong NC 15, đức Phật gặp một người gậy cầm tay tên Sakya muốn hỏi mục đích của giáo lý Ngài. Sự trả lời của đức Phật không làm ông ta thỏa mãn, ông ta không chấp thuận cũng không bác bỏ, đã cất cao đầu và bỏ đi. Trong bản P, bỏ câu "không chấp thuận không bác bỏ", nhưng thêm rằng "ông ta thụt lưỡi, nhíu mày tạo nên ba đường nhăn và tựa mình trên cây gậy". Trong bản C, chính đức Phật đưa ra ví dụ viên mật trong khi bản C lại nói là Tôn giả A Nan. Bản P bỏ chỗ nói Tôn giả A Nan đứng sau lưng đức Phật tay cầm phất trần. Bản P cũng bỏ lời đức Phật khích lệ các Tỳ-kheo ở cuối kinh.

Trong NC 87, Tôn giả San-mi-t'i(Samiddhi) đi đến suối nóng để tắm, khi tắm xong, ông ta gặp một vị tiên có dung sắc hoan hỷ đến đảnh lễ ngài và hỏi ngài có biết bài kệ Nhất dạ hiền giả (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta). Vị Tỳ-kheo nói không biết, vị tiên bảo rằng đức Thế tôn có biết bài kệ rồi khuyên Tỳ-kheo nên đi đến xin Thế Tôn giải thích. Rồi vị tiên đảnh lễ vị Tỳ-kheo, đi quanh ông ba vòng rồi biến mất. Bản Pali thêm rằng vị tiên chiếu sáng cả Tapodà với hào quang rực rở của mình nhưng bỏ qua chyện hỏi vị tỷ kheo về câu kệ và lời khuyên của vị tiên đi đến Thế Tôn. Bàn Pali chỉ đề cập rằng vị tiên khuyên vị tỷ-kheo nên học, tinh thông và ghi nhớ câu kệ đó ở trong lòng. Rồi vị tiên biến mất mà không có đảnh lễ và đi quanh vị tỷ-kheo ba vòng. Bản C nói tên của vị trời này là Chêng-tien, một vị binh tướng trong cõi trời 33, nhưng bản P bỏ chi tiết ấy.

4. Đức Phật thuyết pháp để đối phó các tông phái ngoại đạo :

Trong NC 39 và NC 65, đức Phật bác bỏ quan điểm của Ni Kiền Tử (Jainas); trong NC 6 và NC 61, 62, 64, Ngài bác bỏ lý thuyết và thực hành của những người bà la môn; và trong NC 10, 48, 50, 51, 52, Ngài đối phó với những du sĩ (paribbàjakas).
a) Đối phó với Ni Kiền Tử :

Trong NC 39, Ch'ang-k'u-hsing (Dìghatapassi), Ni Kiền Tử bện tóc có một cuộc đàm luận với Phật, trong đó ông ta trình bày lý thuyết của Ni Kiền Tử (Ch'in-tzu) về hình phạt và vai trò chính yếu của thân phạt trong bất cứ hành vi tội lỗi nào. Nhưng đức Phật trình bày lý thuyết của Ngài về nghiệp và vai trò chính yếu của ý nghiệp trong bất cứ tà hạnh nào. Ni Kiền Tử bện tóc thuật lại cuộc đàm thoại ấy cho thầy của mình (Ch'in-tzu) trước mặt Ưu Ba Ly (Yu-p'o-li). Trong khi ở bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) lặp lại lời ca tụng của Ni Kiền Tử (Nàtaputta) tán dương Bện tóc (Dìgha-tapassi) và tỏ ý sẵn sàng đến đối chất với đức Phật, bản C thêm rằng Ưu ba ly cùng đi với 500 cư sĩ trong hội chúng. Ông ta chắp tay hướng về Ni Kiền Tử và hỏi Bện tóc có phải ông ta đã thực sự hạ Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) ba lần trong vấn đề này. Khi Bện tóc trả lời phải, Ưu Ba Ly nói : vậy thì ông ta cũng có thể đánh bại Sa-môn Cồ Đàm trong vấn đề này và kéo ông ta xuống. Khi ấy Ưu Ba Ly đến thách thức đức Phật, trước sự chấp thuận của vị thầy Ni Kiền Tử và trước sự sợ hãi, bất đồng của Bện tóc. Đức Phật với bốn ví dụ đã làm cho Ưu Ba Ly đổi ý và theo quan điểm của Ngài. Trong ví dụ thứ tư, khi đức Phật hỏi ai đã khiến cho những nơi thanh tịnh này trở thành thanh tịnh, theo bản C, Ưu Ba Ly im lặng một lát, và khi đức Phật hỏi lại một lần nữa, ông ta đã trả lời rằng, không phải ông muốn giữ im lặng, mà chính ông đang nghĩ đến một điều. Ông nghĩ rằng Ni Kiền Tử (Ni-chien) thật điên rồ, ngu si và đã lừa bịp ông ta trong một thời gian dài. Trong bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) trả lời ngay rằng những khu rừng này Kandaka, Kàlinga, Mejjha Màtanga trở thành rừng là do những ý tưởng sân hận của những vị trông coi những khu rừng đó. Ở cuối bài kinh, bản C thêm rằng Ưu Ba Ly đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu, còn Ni Kiền Tử hộc máu tươi, phải đi đến Po-ho (Pàvà) và bệnh chết ở đấy. Bản P bỏ chi tiết về cái chết của Ni Kiền Tử và chỉ nói ông ta hộc ra máu tươi.

b) Đối phó với cách tu và quan điểm của các bà la môn :

Trong NC 6, đức Phật bác bỏ tập tục tắm nước thiêng của những người bà la môn, được xem là để rửa sạch tội lỗi. Kinh C93,Thủy tịnh Phạm chí,nhắc đến bà la môn Thủy Tịnh (Shui-ching) ngay ở đầu kinh, trong khi P7, Ví dụ tấm vải,chỉ nói đến sự hiện diện của bà la môn Sundarika-bhàradvàja vào cuối bản kinh. Trong bản C, vị bà la môn ấy xin quy y Tam bảo và xin Phật nhận ông làm đệ tử. Nhưng trong bản P, Sundarika Bhàradvàja xin đức Phật cho ông được xuất gia và thọ đại giới. Khi lời yêu cầu của ông được chấp thuận, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đã đắc quả A-la-hán.

Trong NC 61, kinh C151, Phạm chí A nhiếp hòa,nói rằng một số đông bà la môn tại Chu-sa-lo (Kosala) tụ tập trong giảng đường và đang bàn bạc lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) về sự thanh tịnh của bốn giai cấp, trong khi họ tuyên bố rằng chỉ có giai cấp bà la môn là cao nhất và thanh tịnh nhất. Họ chọn thanh niên bà la môn tên A Nhiếp Hòa (A-shê-ho-lo-yen-to) đến chất vấn đức Phật. Nhưng kinh P93, Assalàyana,nói rằng 500 bà la môn thuộc nhiều vùng khác nhau đến Xá Vệ vì một vài công việc, và họ chỉ nhắc đến lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Có thêm rằng thanh niên Assalàyanamới 16 tuổi, đầu tóc cạo. Trong bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa nhận lời bằng cách im lặng, trong khi ở bản P, Assalàyana nói rằng quả thật Sa-môn Gotama nói phù hợp với pháp (dhamma), và thật khó mà tranh luận với người nào nói đúng pháp, và anh ta cũng không thể tranh luận với Sa-môn Gotama. Tuy thế anh ta cũng sẽ ra đi như được yêu cầu. Sau khi nghe những luận cứ của đức Phật, theo bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa muốn đảnh lễ Phật nhưng hội chúng la lớn tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục. Đức Phật biết tâm họ nên bảo thanh niên hãy trở về chỗ ngồi, dạy rằng chỉ cần tâm anh ta vui mừng là đủ. Rồi đức Phật giảng pháp làm cho anh ta hoan hỷ, thích thú, phấn chấn. Bản P chỉ nói rằng Assalàyana thốt lên rằng thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, rồi xin đức Phật nhận mình làm đệ tử từ nay cho đến trọn đời.

Trong NC 64, kinh P 99, Subha,có thêm một cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì, bà la môn hỏi Subha từ đâu đến và hỏi về trí tuệ của Sa-môn Gotama. Sự trả lời và những lời ca tụng của Subha đã khiến bà la môn xuống khỏi chiếc xe bạch mã, trật vai áo, chắp tay hướng về đức Thế tôn và bảo rằng thật là lợi ích lớn, thật là tốt cho vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) xứ Kosala vì có Như lai (Tathàgata) sống trong vương quốc của nhà vua. Bản C bỏ cuộc gặp gỡ này.

c) Đối phó với các ngoại đạo khác :

Trong NC 10, theo kinh C 99, Khổ ấm, các Tỳ-kheo sau khi ngọ trai xong đã tụ họp tại giảng đường vì một vài công việc. Tại đây có một số lớn tín đồ ngoại đạo đến chất vấn họ. Trong kinh P13, Đại khổ uẩn, thì các Tỳ-kheo khi vào thành Xá Vệ (Sàvatthi) khất thực, thấy hãy còn sớm nên đến trú xứ của các du sĩ (paribbàjakas), và cuộc đàm luận đã xảy ra.

Trong NC48, Hsu-hsien-t'i(du sĩ Màgandiya) trông thấy đệm cỏ của Phật ngồi trong nhà bà la môn P'o-lo-p'o (Bhàradvàjagotta) thì rất khó chịu và lên án đức Phật là một người phá hoại (Huai-pai-ti: )(70) . Bà la môn Bà La Bà (P'o-lo-p'o) cảnh cáo du sĩ Hsu-hsien-t'ođừng có nói xấu đức Phật, nhưng du sĩ nói rằng ông cũng sẽ nói như vậy ngay trước mặt Sa-môn Cồ Đàm. Trong kinh C 153,Man nhàn đề, đức Phật lúc ấy đang ngồi thiền trong một ngôi rừng xa; với thiên nhĩ, Ngài nghe được lời ấy nên đi đến nhà Bà la môn Bà-la-bà kia trải tọa cụ ngồi kiết già. Khi bà la môn ra chào, đức Phật hỏi có phải thật ông ta có đàm thoại với du sĩ về đệm cỏ của Ngài không. Bà la môn nói ông muốn báo cho Phật biết nhưng Phật đã biết trước rồi. Ngay lúc ấy du sĩ đến, và cuộc đàm luận xảy ra. Bản P bỏ tất cả chi tiết Phật mang theo tọa cụ và trải ngồi, đẹp đẽ và rực rỡ như trăng sao; nhưng thêm rằng du sĩ Bhàradvàjagotta bị dao động lông tóc dựng ngược khi nghe nói đức Phật đã biết được tư tưởng của mình. Trong bản C, sau khi đức Phật giảng pháp, du sĩ đạt được Pháp nhãn ly trần vô cấu. Rồi ông ta xin Phật cho phép xuất gia học đạo và thọ giới Tỳ-kheo. Rồi đức Phật truyền giới cho ông ta, nói rằng: "Lành thay, Tỷ kheo, hãy sống đời sống phạm hạnh." Sau khi xuất gia làm tỷ-kheo, Hsu-hsien-t'i đắc quả A-la-hán. Bản P bỏ chi tiết du sĩ Màgandiya được Pháp nhãn; nhưng thêm sự tán thán của Màgandiya như thường lệ và xin quy y Tam bảo của ông ta. Ở đây cũng vậy, Màgandiya xin đức Phật cho ông ta thọ giới Tỳ-kheo. Phật bảo những người thuộc giáo phái khác cần trải qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết rõ sự khác nhau giữa những con người, và Ngài đã cho phép Màgandiyaxuất gia làm Tỳ-kheo. Bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn, và kết luận rằng Trưởng lão Màgandiya trở thành một vị A-la-hán nữa.

Trong NC số 52, Bệ Ma Na Tu (C: Pei-mo-na-hsiu; P: Vekhanassa) nói với đức Phật về dung sắc "vanna" tối thượng. (Danh từ Pàli vanna,dịch là dung sắc, được sử dụng ở đây với hai nghĩa, màu sắc và giai cấp xã hội, nhưng danh từ dung sắc trong Hoa ngữ thì rõ ràng không có hai nghĩa như thế). Nhưng đức Phật nêu lên sự trống rỗng của một quan điểm như vậy. Bản C thêm một đoạn trong đó Bệ Ma Na Tu tỏ thái độ hối hận im lặng hổ thẹn cúi đầu. Khi Bệ Ma Na Tu ca tụng sự giải thích của Phật, Phật ngăn ông lại, bảo rằng vì thuộc vào một quan điểm khác, ông ta không thể hiểu được lời giảng dạy của Ngài, Bệ Ma Na Tu phẫn nộ mạ lỵ đức Phật. Kinh Pali Vekhanassacũng tương tự nhưng bỏ chi tiết Phật ngăn lại. Rồi Phật dùng ba ví dụ (bản P chỉ có một) làm sáng tỏ giáo lý của Ngài và cuối cùng cảm hóa được Bệ Ma Na Tu. Ở đây bản C nói Bệ Ma Na Tu đắc Pháp nhãn vô cấu và xin Phật xuất gia. Sau khi xuất gia, ông nỗ lực tinh tiến và đắc quả A-la-hán. Trong bản P, Vekhanassa tán thán sự giảng dạy của Phật như thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia.

5. Phật thuyết pháp cho đệ tử:

Có 28 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho một Tỳ-kheo, NC 5;
- Cho một số Tỳ-kheo, NC 22,74;
- Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula), NC 40;
- Cho Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta), NC 41,42;
- Cho A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anurudha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya), Kim Tỳ La (C: Chin-p'i-lo; P: Kimbila), NC 25,45,83;
- Cho Ma-ha-nam (Mahànàma), NC 11;
- Cho Mou-li-p'o-ch'un-na(Moliyaphagguna), NC 18;
- Cho Bạt-đà-hòa-lợi (C: Po-t'o-ho-li; P: Bhaddàli), NC 43;
- Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì), NC 44;
- Cho A Nan, NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98;
- Cho A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chouna; P: Cunda), NC 66;
- Cho A Nan và nhiều Tỳ-kheo, NC 77;
- Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla), NC 54;
- Cho Fou-mi(Bhùmija), NC 81;
- Cho Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya), NC 88;
- Cho San-mi-t'i (Samiddhi), NC 90;
- Cho Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti), NC 94;
- Cho Đại Chu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda), NC 7;
- Cho chú tiểu A-i-na-ho-t'i(Aciravata), NC 80.

a) Cho một vị Tỳ-kheo:

Trong NC 5, (P6,kinh Ước nguyện = C 105,kinh Nguyện) có một Tỳ-kheo trong lúc ngồi nơi vắng vẻ, đã tư duy về lợi ích lớn của Phật đối với mình, đã rời chỗ ngồi đứng lên đi đến nơi Phật. Đức Thế tôn sau khi trông thấy Tỳ-kheo này, đã nhân vì ông mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo. Bản P bỏ hoàn cảnh đặc biệt này. Phật thuyết pháp không có một dẫn nhập nào cả.

b) Cho một số Tỳ-kheo:

Trong NC 22 (P26, Thánh cầu = C204,La ma) , Phật đang ở Lộc Mẫu giảng đường (Lu-tzu-mu). Vào buổi chiều, Ngài rời khỏi tòa ngồi đứng lên, từ trên lầu đi xuống và bảo Trưởng lão A Nan cùng đi tắm ở sông A-i-lo-p'o-t'i (Aciravati). Rồi Trưởng lão A-nan cầm chìa khóa đi đến các Tỳ-kheo đang ở trong những chòi của họ và bảo họ đi đến nhà bà la môn La Ma (C: Lo-mo; P: Rammaka). Khi ấy đức Phật và Trưởng lão A Nan xuống sông tắm. Sau khi tắm xong, Phật lên khỏi nước, lau khô thân thể và mặc y. Bản P khởi đầu với đức Phật ở tại Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Rồi đức Phật đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Nhiều Tỳ-kheo đi đến Tôn giả A Nan, thưa rằng họ muốn được trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, vì đã lâu họ không có được cơ hội ấy. Tôn giả A Nan bảo họ đi đến nhà bà la môn Rammaka. Khi Phật khất thực về và dùng bữa xong, Ngài cùng Trưởng lão A Nan đi đến Pubbàràma ở vườn của Lộc Mẫu (Migaàramàtu) để nghỉ ban ngày. Vào buổi chiều Phật ra khỏi độc cư thiền tịnh rồi cùng với Trưởng lão A Nan đi đến Pubbakotthaka để ngâm chân tay. Sau khi tắm rửa, Phật ra khỏi nước, đứng trên bờ với một tấm y (cìvara) độc nhất để phơi tay chân. Rồi theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Phật đi đến nhà Lo-mo (Rammaka) để thuyết pháp.

c) Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula) :

Trong NC 40, C14, La vân kinh, khi đêm đã tàn, vào sáng sớm Phật đi vào thành Vương Xá (Wang-shê) khất thực. Sau khi ăn xong, Ngài đi đến rừng Suối nóng, nơi có Tôn giả La Vân. Tôn giả La Vân trông thấy Phật từ xa đến, đi ra đón Ngài, cầm lấy y bát, trải tọa cụ và lấy nước rửa chân. Đức Phật rửa chân xong, ngồi trên chỗ ngồi của La Vân đã soạn sẵn. Trong P61, Ambalatthikàràhulovàda,đức Phật vào buổi chiều ra khỏi độc cư thiền tịnh, đi đến Ambalatthikà, nơi Tôn giả Ràhula ở. Tôn giả Ràhula, khi thấy đức Phật từ xa đến, đã sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân nhưng không đi ra đón Ngài và đỡ lấy y bát. Đức Phật ngồi trên chỗ đã soạn và rửa chân. Để quở trách Tôn giả La Vân, đức Phật đã chỉ một ít nước còn trong chậu, rồi đổ nó đi, lật úp cái chậu và lật ngửa trở lại, và cứ mỗi lần như thế Ngài răn dạy Tôn giả. Bản P thêm một thái độ thứ năm của đức Phật là chỉ ra sự trống rỗng trong cái chậu lật ngửa và tuyên bố rằng cũng trống rỗng như thế là hạnh Sa-môn của người cố ý nói dối mà không biết hổ thẹn.

d) Cho Tôn giả Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta) : NC 41, NC 42:

Trong NC 42 (P64,Mahàmàlunkya, Đại kinh Màlunkya = C205, Ngũ hạ phần kết), đức Phật quở trách Man-đồng-tử về sự hiểu sai của ông đối với năm kiết sử trói buộc con người vào đọa xứ và Man-đồng-tử tỏ thái độ hối hận. Khi ấy Tôn giả A Nan đang đứng sau đức Phật và quạt cho Ngài, đã yêu cầu đức Phật giải thích năm kiết sử, và đức Phật đã chấp thuận lời yêu cầu của Tôn giả A Nan. Trong bản P, đức Phật không công khai quở trách Màlunkyaputta. Cũng không có thái độ hối hận của Màlukyaputta, không có chi tiết về Tôn giả A Nan đứng sau lưng Phật và quạt cho Ngài.

e) Cho Tôn giả A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya) và Kim Tỳ La (C:Chin-p'i-lo; P: Kimbila): NC 25, 45, 83:

Không có nhiều khác biệt giữa hai bản trong NC 25 (P31, Tiểu kinh rừng Sừng bò=C 185, Ngưu giác sa la lâm kinh) và NC 45 (P68, Nalakapàna = C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh).

Trong NC 83, theo bản C 72,Trường thọ vương bản khởi kinh,muốn giảng hòa các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di (C: Chu-shê-mi; P: Kosambì), Phật đã kể câu chuyện dài về sự tha thứ của vua Phạm chí (C:Fan-mo-ta-to; P: Brahmadatta) cho vua Trường thọ (C: Ch'ang-shou; P: Dìghìti), nhưng câu chuyện này không có ảnh hưởng gì các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di. Khi ấy đức Thế tôn đọc lên một bài kệ cho thấy rõ sự vô vọng, ngu ngốc của gây gỗ và xúc phạm nhau. Kinh P128 không giống. Kinh này cũng nói các Tỳ-kheo ở Kosambì (Câu Xá Di) tranh chấp nhau, đã thương nhau với binh khí miệng lưỡi, nhưng thêm rằng một Tỳ-kheo đến tường thuật sự việc với đức Thế tôn và Ngài đã đến khuyên bảo họ đừng gây nhau. Ba lần đức Phật khuyên bảo, và cả ba lần đều có một Tỳ-kheo yên cầu Ngài đừng can thiệp vì họ sẽ chịu trách nhiệm về cuộc gây gổ này. Ở đây bản P bỏ câu chuyện về vua Phạm chí. Theo bản C, đức Thế tôn, sau khi đọc bài kệ đã vận thần thông bay lên không để đi đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo). Tại đấy có một Tỳ-kheo tên Bà Cửu (C: P'o-chiu; P: Bhagu) đêm ngày chuyên tâm thiền định và Phật đã giảng pháp cho ông. Sau đó Ngài vào rừng Hộ Tự (Hu-szu) ngồi kiết già dưới một gốc cây, tại đó Ngài gặp một con voi chúa cũng đi tìm sự cô tịch để thoát ly những huyên náo của đàn voi. Bản P chỉ nói đức Phật gặp Tỳ-kheo Bhagu, không nói gặp con voi; cũng không có chi tiết đức Phật bay trên không. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

f) Cho Tôn giả Ma-ha-nam (C: Mo-ho-nan; P Mahànàma) :

NC 11: (P14, Tiểu kinh khổ uẩn = C100, Khổ ấm kinh):

Hai bản gần giống nhau.

g) Cho Moliya (C: Mou-li-p'o-ch'un-na; P: Moliyaphagguna):

NC 18: (P21, Ví dụ cái cưa = C193, Mâu lê phá quần na):

Hai bản gần giống nhau.

h) Cho Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi (C: P'o-t'o-ho-li; P: Bhaddàli) :

NC 43: (P 65, Bhaddàli= C 194, Bạt-đà-hòa-lợi) :

Hai bản gần giống nhau.

i) Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì) :

NC 44: (P 66 Ví dụ con chim cáy = C192, Ca lâu ô đà di):

Không có gì khác nhau lắm giữa hai bản kinh. Trong khi bản C nói về một Tỳ-kheo nào đó đi khất thực về đêm, bản P nói rõ chính là Ưu-đà-di.

j) Cho Tôn giả A Nan:

NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98:

Trong NC 53, (P81,Ghatikara= C63,Bệ bà lăng kỳ), NC 67 ( P106, Bất động lợi ích = C75, Tịnh bất động đạo kinh), hai bản gần giống nhau. Trong NC 55, kinh C67,Đại thiên nại lâm, dịch từ Ta-t'iencó nghĩa là "Mahàdeva: Đại-thiên" trong khi P83, kinh Makhàdeva Makhàdeva.

Trong NC 72, (P115,Bahudhàtuka= C181,Đa giới kinh), Tôn giả A Nan trong lúc ngồi thiền đã có được tri kiến rằng tất cả sợ hãi, rối ren, tai nạn, sầu ưu đều do vô minh, không do trí tuệ. Tôn giả trình bày ý tưởng ấy với đức Phật và Ngài đồng ý, đưa ra một định nghĩa về một Tỳ-kheo ngu si và một Tỳ-kheo có trí tuệ. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả A Nan ngồi thiền, thuật ý tưởng của mình cho đức Phật và sự chấp thuận của đức Phật. Ở đây đức Phật gọi các Tỳ-kheo và dạy rằng mọi sợ hãi, rắc rối, tai nạn đến với người ngu, không phải với người trí. Rồi Ngài khuyên các Tỳ-kheo hãy tu tập để trở thành có trí tuệ nhờ trạch pháp. Ở đây bản P thêm Trưởng lão A Nan hỏi đức Phật đến mức nào thì đủ để gọi là một Tỳ-kheo có trí nhờ trạch pháp.

Trong NC 78, (P123, Acchariyabbhutadhamma= C32, Vị tằng hữu pháp), Tôn giả A Nan sau khi ra khỏi thiền định vào buổi chiều đi đến đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên và kể ra những đức tính kỳ diệu của đức Phật. Trong bản P, một số đông Tỳ-kheo sau khi khất thực về ăn xong, tụ họp trong giảng đường và ca tụng đức Như lai (Tathàgata) thật kỳ diệu, có thần thông, biết được chư Phật về trước. Tôn giả A Nan xác nhận lời các Tỳ-kheo nói chư Như lai có nhiều đức tính kỳ diệu. Câu chuyện này được Phật cắt ngang lúc Ngài vừa ra khỏi độc cư thiền tịnh. Ngài hỏi các Tỳ-kheo đang đàm luận về điều gì, họ trình lại với Phật, khi ấy Phật bảo Tôn giả A Nan kể lại những đức tính kỳ diệu của đức Thế tôn.

Trong NC 98, ( P148, Chachakka = C86, kinh Thuyết xứ ), Tôn giả A Nan vào buổi chiều ra khỏi thiền định, đưa các Tỳ-kheo trẻ cùng đi đến đảnh lễ Phật và hỏi đức Thế tôn làm thế nào để dạy dỗ, khích lệ các Tỳ-kheo trẻ. Rồi Đức Phật giảng nhiều pháp môn cho những tỷ kheo trẻ. Bản P hoàn toàn không có chi tiết Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo trẻ, chỉ nói đức Phật cho gọi các Tỳ-kheo rồi giảng pháp.

k) Cho Tôn giả A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chou-na; P: Cunda) :

NC 66: ( P104, kinh Làng Soma= C196,Châu na kinh).

l) Cho Tôn giả A Nan và nhiều Tỳ-kheo:

NC 77: (P122, Mahàsunnatà= C191, Đại không kinh):

Cả hai bản dịch gần giống nhau trong NC 66, 77.

m) Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla) :

NC 54: (P82, Ratthapàla= C132, Lại-tra-hòa-la kinh):

Câu chuyện Lại-tra-hòa-la không giống nhau trong hai bản. Lại-tra-hòa-la nghe đức Phật thuyết pháp, xin xuất gia, đức Phật từ chối vì chưa có phép cha mẹ, cha mẹ không bằng lòng cho xuất gia, Lại-tra-hòa-la tuyệt thực để gây áp lực đối với cha mẹ, cha mẹ nhượng bộ, Lại-tra-hòa-la xuất gia thọ giới và đắc quả A-la-hán, tất cả những chi tiết này đều giống nhau trong hai bản. Khi ấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la vào sáng sớm cầm y bát đi vào làng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) để khất thực, nghĩ đến đức Thế tôn khen ngơi hạnh tuần tự khất thực nên ông đi từng nhà và đến nhà cha, lúc ấy người cha đang tỉa râu tóc, khi trông thấy Tôn giả ông nói: "Bọn Sa-môn trọc đầu này chuyên làm việc hắc ám, không có con, không người kế tự, những kẻ phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con trai yêu quý, nhưng chúng đã đem đi mất và cạo trọc đầu nó, đừng cho Sa-môn này cái gì để ăn cả." Thế là Lại-tra-hòa-la không nhận được một sự bố thí nào từ nhà cha mình, ngoại trừ lời chưởi rủa. Khi ấy một người tớ gái đem ra một rỗ đầy thức ăn thối để đổ vào đống rác. Lại-tra-hòa-la trông thấy cô ta bèn yêu cầu đổ thức ăn ấy vào bát của mình. Khi người tớ gái đem đồ ăn đổ vào bát khất thực, cô nhận ra ngài nhờ giọng nói và chân tay. Cô đi vào báo cho người cha, được tin ông hết sức vui mừng. Tay phải cầm áo, tay trái vuốt râu tóc, ông vội vàng đi đến chỗ Lại-tra-hòa-la đang ngồi tựa vào một bức tường để ăn thức ăn đã thối. Người cha hỏi con trai sao có thể ăn được thức ăn thối ấy khi con ông vốn có thân thể mềm mại và đã quen với mỹ vị cao lương. Ông cũng hỏi con trai sao không đi vào nhà cha mẹ mình. Lại-tra-hòa-la trả lời ông có vào nhà cha mẹ, nhưng không nhận được gì ở đấy, ngoại trừ lời nguyền rủa. Người cha xin lỗi con trai, kính cẩn đưa ông vào nhà, trải chỗ và mời ngồi. Sau đó ông báo tin cho mẹ Lại-tra-hòa-la và bảo bà dọn cơm cho con. Bà vui vẻ đi làm thức ăn. Rồi bà chất một đống lớn những đồng tiền ra giữa sân, lớn đến nỗi một người đứng bên này không trông thấy người đứng bên kia. Rồi bà đi đến Lại-tra-hòa-la mà bảo đống tiền này là của mẹ dành cho ông, còn tiền của cha dành cho ông thì vô số, không thể đếm hàng trăm, hàng ngàn. Tất cả tiền này dành cho ông nếu ông hoàn tục. Lại-tra-hòa-la khuyên mẹ hãy đem tiền ấy đổ xuống sông vì chính do tiền này mà người ta trải qua đau khổ, tuyệt vọng. Khi ấy bà mẹ biết không thể đem tiền mà dụ ông hoàn tục. Rồi bà bảo những người vợ trước kia của ông mặc đồ đẹp và trang sức các chuỗi đeo cổ, đi đến nơi ông, ôm chân ông mà nói: "Hỡi người chồng tệ bạc, có những tiên nữ nào đẹp hơn chúng tôi để cho ông vì họ mà đi tu?" Những bà vợ cũ của Lại-tra-hòa-la theo lời chỉ dẫn của mẹ chồng. Nhưng Lại-tra-hòa-la gọi họ bằng chị và bảo ông xuất gia không phải vì tiên nữ nào hết, chỉ vì để được Phật pháp, và bây giờ mục đích của ông đã thành tựu. Những bà vợ đứng lên khóc lóc bảo rằng họ không phải chị nhưng Lại-tra-hòa-la lại gọi họ bằng chị. Khi ấy Lại-tra-hòa-la yêu cầu cha mẹ dọn đồ ăn ra vì đã đến giờ, chớ có phiền nhiễu ông nữa. Khi ấy cha mẹ ông đứng lên, đưa nước cho ông rửa tay và tự tay mình bồi tiếp những thức ăn mỹ vị. Sau khi ăn xong, Tôn giả Lại-tra-hòa-la giảng pháp cho cha mẹ, làm họ vui mừng hoan hỷ phấn chấn. Rồi ngài đứng lên đọc một bài kệ. Bản P hơi khác. Khi Ratthapàla đi đến Thullakotthita, bản P thêm rằng ông ở lại trong vườn nai của vua Kuru. Trong khi đi khất thực, Ratthapàla đi từng nhà, nhưng bản P bỏ chi tiết ông nghĩ đến đức Phật thường khen ngợi sự tuần tự khất thực. Khi Ratthapàla vào nhà cha mẹ, người cha đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa. Trong bản C, người cha mắng các Tỳ-kheo là bọn chuyên làm việc đen tối, không con cái, không kế tự, phá hoại gia đình mình. Bản P chỉ nói ông ta bảo đứa con trai yêu quý độc nhất đã bỏ nhà đi tu vì những Sa-môn trọc đầu này, và thế là Trưởng lão Ratthapàla tại nhà cha mẹ đã không nhận được của bố thí cũng không nhận được lời từ chối mà nhận được lời nguyền rủa. Ở đây thức ăn người nữ tỳ đem đổ là đồ ăn thừa của ngày hôm trước. Trong khi bản C nói người tớ gái đi vào báo thẳng với người cha, bản P nói nàng báo tin trước cho người mẹ và bà này kể lại với chồng. Bản P thêm rằng bà mẹ của Ratthapàla khi được tin ông trở về đã nói với người tớ gái rằng nếu tin này là đúng thì cô ta sẽ thoát vòng nô lệ. Bản P không nói đến thái độ của người cha vui mừng trước tin tức ấy. Khi người cha của Ratthapàla trông thấy con trai mình tựa lưng vào bức tường để ăn đồ ăn còn thừa ngày trước, ông đã hỏi : "Có thật là con đang ăn đồ thừa đấy không? Con hãy nên đi vào nhà của con." Và Ratthapàla đã trả lời rằng ông không có nhà vì đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình. Ông đã đi đến nhà gia chủ nhưng không nhận được bố thí hay sự từ chối mà nhận được sự nguyền rủa. Khi ấy người cha mời ông vào nhà nhưng Ratthapàla từ chối, nói rằng đã ăn xong. Khi ấy người cha mời ông đến để ăn bữa trưa ngày hôm sau, và ông đã im lặng nhận lời. Trong bản C, chính bà mẹ đã chất tiền thành từng đống và bảo các bà vợ cũ của ông trang sức. Trong bản P, người cha làm những việc ấy. Trong bản C, người mẹ đem tiền ra dụ rồi đến các bà vợ; nhưng trong bản P, người cha sử dụng cả hai phương pháp cùng một lúc. Trước hết ông chất một đống lớn tiền vàng và che khuất nó sau một bình phong. Rồi ông bảo các bà vợ trước của Ratthapàlatrang sức đẹp đẽ. Khi thức ăn đã sẵn sàng, ông cho mời Tôn giả và khi Ratthapàla ngồi xuống, ông mở cho thấy đống tiền vàng và bảo Ratthapàlarằng một đống của mẹ, một đống của cha, một đống của ông nội. Chàng có thể thừa hưởng của cải và thực hành những việc phước. Bởi thế ông yêu cầu con trai hãy từ bỏ đời sống phạm hạnh, trở về đời sống thế tục, hưởng thụ của cải và hành thiện. Sự trả lời của Ratthapàla, vai trò các bà vợ cũ cũng gần như trong bản C, ngoại trừ trong bản P, các bà vợ té xỉu xuống đất khi nghe Ratthapàla gọi họ bằng chị. Bản P bỏ chi tiết Ratthapàla giảng pháp cho cha mẹ. Theo bản C, Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) ngang qua hư không, đi vào rừng ngồi trên tọa cụ. Lúc ấy vua Câu Lao Bà (Chu-lao-p'o) ngồi với đình thần trong cung, đang ca tụng Lại-tra-hòa-la và tỏ ý muốn gặp Tôn giả. Rồi vua ra lệnh cho quan săn bắn sửa soạn rừng Thâu Lô Tra để đi săn. Khi viên quan đi vào rừng, trông thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la bèn trở về tâu vua, vua đi gặp Tôn giả. Khi Tôn giả thấy vua đến, ngài mời vua ngồi. Vua trả lời, mặc dù nơi này là sở hữu của vua, vua vẫn muốn được Tôn giả mời ngồi, và Tôn giả Lại-tra-hòa-la mời vua ngồi xuống. Vua hỏi phải chăng Tôn giả đi tu vì thiếu tiền, nếu vậy vua sẵn sàng cung cấp tất cả tiền bạc cần thiết để Lại-tra-hòa-la hoàn tục hưởng dục lạc, bố thí và làm các việc phước. Khi ấy Tôn giả bảo vua đã hiến cho mình những vật bất tịnh, không phải là tịnh pháp. Khi vua hỏi thế nào là hiến tịnh pháp, Tôn giả bảo vua nên nói xứ sở và thần dân của vua được hạnh phúc, không sợ hãi, không xáo trộn, không lo lắng, không bị làm nô lệ. Khi ấy vua nói muốn hiến cho Tôn giả tịnh pháp, không phải vật bất tịnh. Bản P không nói Ratthapàla bay trở về ngang qua hư không. Tôn giả chỉ trở về vườn Nai của vua Kuru, ngồi dưới một cây để nghỉ ban ngày. Bản P không nói vua Chu-lao-p'ongồi với đình thần trong cung, khen ngợi Tôn giả Ratthapàla và ngỏ ý muốn gặp ngài, mà chỉ nói vua sai người săn nai đi sửa soạn khu đất trong vườn Nai để vua đi ngắm cảnh. Người săn nai đến trông thấy Tôn giả đang ngồi dưới cây, về tâu vua, và vua sai thắng xe để đi gặp Tôn giả. Khi vua gặp Tôn giả, vua chào và mời Tôn giả ngồi trên tấm thảm lót lưng voi, nhưng Tôn giả từ chối và mời vua hãy ngồi lên đấy vì ngài đã có tọa cụ riêng. Ở đây bản P bỏ đoạn vua dụ Tôn giả từ bỏ đời sống phạm hạnh, như được tìm thấy trong bản C. Rồi vua hỏi những lý do đã khiến Ratthapàla sống đời phạm hạnh, và Tôn giả giải thích cho vua những lý do đã khiến ngài trở thành tu sĩ.

n) Giảng cho Tôn giả Phù Di (C: Fou-mi; P: Bhumija):

NC81: ( P126, Bhùmija= C173, kinh Phù Di ):

Tôn giả Phù Di ở trong thiền thất vô sự. Một buổi sáng, ông sửa soạn đi vào thành Vương Xá khất thực. Rồi ông hoãn việc khất thực mà đi đến nhà vương tử Kỳ Bà Tiên Na (Ch'i-p'o-hsien-na). Ở đấy, Tôn giả được vương tử chào đón một cách kính cẩn, mời ngồi và xin phép được hỏi Tôn giả. Sau khi được cho phép, vương tử đặt những câu hỏi và Tôn giả trả lời. Rồi vương tử mời Tôn giả ăn trưa, tự tay mang nước đến và phục vụ ngài với những thực phẩm hảo hạng. Sau khi ăn xong, vương tử ngồi xuống trên một chỗ ngồi thấp để lắng nghe thuyết pháp. Tôn giả thuyết pháp làm cho vương tử hoan hỷ, thỏa mãn, phấn chấn tinh thần bằng nhiều cách thuyết pháp. Khi bài pháp đã xong, Tôn giả đi đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ Ngài và kể lại cuộc đàm thoại với vương tử. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả sửa soạn đi khất thực, hoãn việc khất thực, sự chào đón tôn kính của vương tử và xin phép đặt câu hỏi. Bản P chỉ nói Bhùmija vào buổi sáng đắp y cầm bát đi đến trú xứ vương tử Jayasenavà ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi vương tử đến chào ngài và hỏi những câu hỏi. Trong khi kinh C nói dông dài về chuyện vương tử mời dùng cơm, phục vụ Tôn giả với những đồ ăn thượng hạng, Tôn giả thuyết pháp cho vương tử; kinh P chỉ nói vương tử cúng dường Tôn giả cơm nấu với sữa. Sau khi kể lại cho đức Phật nghe cuộc đàm thoại này, bản P nói Tôn giả hỏi đức Phật, có phải khi được hỏi và trả lời như thế là ông đã nói đúng những gì Thế tôn đã dạy, không xuyên tạc lời Thế tôn. Và đức Phật hỏi Tôn giả vì sao không nói cho vương tử nghe về bốn ví dụ.

o) Giảng cho Tôn giả Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya):

NC88: (P134, Lomasakangiiya, Nhất dạ hiền giả = C166, Thích trung thiền thất tôn) :

Có một việc khác nhau quan trọng cần chú ý giữa hai bản dịch. Bản C nói đức Phật giảng bài kệ về Bạt địa la đế (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta) tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc, ở vườn Ca Lan Đà (Chia-lan-to), nhưng bản P nói đức Phật giảng bài kệ này tại cõi trời 33, giữa thiên chúng, ở gốc cây Pàricchattaka, trên Pandukambalasilà.

p) Giảng cho Tôn giả San-mi-t'i (Samiddhi):

NC 90: (P136, Đại nghiệp phân biệt = C171, Phân biệt đại nghiệp kinh):

Trong bản C, chính Tôn giả A Nan có tà kiến của Samiddhi và bị Phật quở. Nhưng trong bản P Tôn giả Ưu-đà-di (Udàyì) có tà kiến như Samiddhi và bị đức Phật quở trách.

q) Giảng cho Tôn giả Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti):

NC94: (P140, Giới phân biệt = C162,Phân biệt lục giới kinh):

Theo bản C, sau khi đức Phật giảng xong, Tôn giả Pukkusàtiđắc Pháp nhãn. Rồi ông thú nhận lỗi lầm đã gọi Phật bằng bạn và Phật nhận sự sám hối của ông. Ở đây bản P hoàn toàn khác. Tôn giả Pukkusàti cũng sám hối, và sau khi sám hối, còn xin đức Phật xuất gia làm Tỳ-kheo, nhưng đức Phật từ chối vì Tôn giả không có y bát sẵn sàng. Trong lúc đi tìm y bát, Tôn giả bị bò húc chết. Những Tỳ-kheo đưa tin ấy đến Phật và bạch hỏi về cảnh giới tương lai của Pukkusàti. Đức Phật trả lời Pukkusàti đã đoạn trừ năm kiết sử, đã hóa sinh và đạt Niết-bàn (Nibbàna) ngay ở đấy, không còn trở lui đời này. Tất cả những chi tiết này không có trong bản C.

r) Giảng cho Đại Châu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda) :

NC7: (P8, Đoạn giảm = C91, Châu na vấn kiến kinh) :

Hai bản kinh gần giống nhau.

s) Giảng cho sa di A-i-na-ho-t'i (Aciravata):

NC80: (P125, Dantabhùmi= C198,Điều ngự địa):

Hai bản dịch không có gì khác nhau đáng chú ý.

6. Đức Phật thuyết pháp cho tu sĩ và những người khác :

Có 10 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho Kiều-đàm-di (Ch'u-t'an-mi) : NC96: (P142,Dakkhinà-vibhanga = C180,Cù đàm di kinh);
\
- Giảng cho bà la môn Sinh Văn (Shêng-wên): NC23: (P27, Ví dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ kinh) ;
- Giảng cho Po-li-to (Potaliya) : NC38: (P54,Potaliya= C203, Bổ lợi đa kinh);

- Giảng cho Tiễn Mao (Chien-mao): NC49: (P77,Mahàsakuludàyi = C207, kinh
Tiễn mao);

- Giảng cho vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) : NC56: (P87,Piyajàtika= C216,Ái sinh); NC58: (P89,Dhammacetiya = C213, Pháp trang nghiêm); NC59: (P90,Kannakatthala= C 212, Nhất thiết trí kinh);

- Giảng cho bà la môn Phạm Ma (Fan-mo): NC60: (P91, Brahmàyu = C161, kinh Phạm ma)

- Giảng cho bà la môn Toán số Mục-kiền-liên (Suan-shu-mu-chien-lien) : NC68 : (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên kinh);

- Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu): NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

a) Giảng cho Kiều-đàm-di (C: Ch'u-t'an-mi; P: Gotamì),NC96: Hai bản gần giống nhau.

b) Giảng cho bà la môn Sinh Văn ((C: Shêng-wên; P: Jànussonì),NC23:

Tỳ Lô (Pei-lu), một tín đồ ngoại đạo sau khi nghe đức Thế Tôn giảng trở về gặp bà la môn Sinh Văn đang đi trong một cỗ xe toàn trắng với 500 đệ tử ra khỏi thành Xá Vệ để đến một nơi vắng vẻ và đọc kinh điển. Bản P bỏ đoạn Tỳ Lô đi đến đức Phật và được Ngài thuyết pháp, đề cập trực tiếp bà la môn Jànussonì sáng sớm ngồi trong xe do ngựa trắng kéo, gặp du sĩ Pilotika từ xa đến và nói chuyện. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

c) Giảng cho Bổ Lợi Đà (C: Pu-li-to; P:Potaliya),NC38:

Theo bản C, gia chủ Bổ Lợi Đà vận y phục trắng sạch, đầu quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù, mang giày thế tục đi ngao du. Khi gặp Phật, đầu tiên ông bỏ cây gậy, tháo giày, rồi mở dãi khăn trắng ra. Trong bản P, Potaliya được mô tả là ăn mặc bảnh bao, đi giày cầm dù, nhưng không có những chi tiết khác. Ông không bộc lộ những vẻ cung kính bên ngoài như được thấy trong bản C. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Potaliya được con mắt pháp thanh tịnh, lặp lại ba lần xin quy y Tam bảo và được nhận làm đệ tử tại gia. Bản P không nói Potaliya đắc Pháp nhãn. Ông chỉ bày tỏ sự tán thán như thường lệ và xin quy y Tam bảo, xin được nhận làm đệ tử Phật.

d) Giảng cho Tiễn Mao (C: Chien-mao; P: Sakuludàyì),NC49:

Trong khi bản C nói Phật sau khi ăn xong đi đến vườn chim công, bản P nói Phật vào thành Vương Xá (Ràjagaha) khất thực, nhưng thấy còn quá sớm nên Ngài đi đến vườn chim công. Bản P bỏ chi tiết Sakuludàyi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp vai chừa ra một bên, chắp tay hướng về Phật, nhưng thêm rằng Sakuludàyi lấy một ghế thấp ngồi bên cạnh. Sau khi Phật thuyết pháp, Tiễn Mao ca tụng bài pháp của đức Phật vi diệu, hy hữu, làm ông khoan khoái, như mật ngọt, như nước mưa trên trời rơi xuống thấm khắp những vùng đất cao và thấp. Rồi ông xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Đoạn này không có trong bản P.

e) Giảng cho vua Ba-tư-nặc (C: Po-ssu-ni; P: Pasenadi),NC 56, 58, 59:

Cả hai bản gần giống nhau, chỉ có thêm bớt vài chi tiết nhỏ. Trong NC56, theo kinh C216, Ái sinh, vua Ba-tư-nặc sai bà la môn Na Lị Ương Già (C: Na-li-yang-chia; P: Nàlijangha) đi đến đức Phật, trước hết hỏi thăm sức khỏe của Ngài, rồi hỏi quan điểm của Ngài. Trong kinh P90, Piyajàtika,hoàng hậu Mallikà phái bà la môn Nàlijangha đi đến đức Phật, trước hết đảnh lễ và hỏi thăm sức khỏe, sau xin Ngài giải thích quan điểm của Ngài.

f) Giảng cho Bà la môn Phạm Ma (C: Fan-mo; P: Brahmàyu),NC 60:

Hai kinh gần giống nhau. Những dị biệt sau đây cần chú ý: Về lưỡi dài rộng, theo kinh C161, trùm khắp mặt đức Phật, trong kinh P91, đức Phật đưa lưỡi ra sờ đến hai mang tai, hai lỗ mũi và bao trùm khắp mặt và trán. Trong kinh C, Ưu Đa La (Yu-to-lo) xin phép bà là môn Phạm Ma xuất gia với Sa-môn Cù Đàm (Ch'u-t'an) và bà la môn đồng ý. Và Ưu Đa La thọ đại giới với đức Phật. Những chi tiết này không có trong bản P. Trong bản C, bà la môn Phạm Ma muốn đảnh lễ đức Phật, nhưng chúng đông gia chủ và bà la môn hô lớn lời hoan nghênh và thán phục. Đức Phật biết tâm của hội chúng, bảo Phạm Ma hãy trở về chỗ ngồi. Rồi Ngài thuyết pháp cho ông, làm cho ông hoan hỷ, phấn khởi, hài lòng. Sau khi đức Phật thuyết pháp, Phạm Ma được Pháp nhãn. Rồi ông đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu dưới chân đức Phật, xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Trong bản P, bà la môn thực sự đảnh lễ Phật, sửa thượng y chừa lại một vai, hôn quanh chân Phật, dùng hai tay vuốt khắp chân Phật và cho biết tên của ông, nhưng không bị chúng hội ngăn chận.

g) Giảng cho Toán số Mục-kiền-liên (C: Suan-shu-mu-chien-lien; P: Ganakamoggallàna),NC 68: Hai bản gần giống nhau.

h) Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (C: Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu; P: Subha mànava Todeyyaputta),NC 89: Kinh C170 khởi sự với câu chuyện về con chó, đời trước là cha của Đô Đề (Todeyya), trong khi P135 hoàn toàn loại bỏ chi tiết này.

7. Sự thảo luận giữa các Tỳ-kheo

Có 3 NC thuộc về loại này :
NC20 : (P24, Trạm xe = C9,Thất xa), kể cuộc đàm luận giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Mãn-từ-tử (Man-tz'u-tzu).

NC26: (P32, Đại kinh rừng Sừng boø= C185,Ngưu giác lâm kinh), nói đến một cuộc luận bàn giữa các Tôn giả Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Ly-bà-đa (Li-yueh-to) và A Nan.

NC30: (P43, Mahàvedalla = C211, Đại-câu-thi-la kinh), kể cuộc pháp đàm giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo).

a) Giữa Xá-lợi-tử và Mạn Từ Tử,NC20:

Hai bản gần giống nhau.

b) Giữa Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà, Ly-bà-đa và A Nan,NC26:

Bản C nói đến bảy Tôn giả, nhưng bản P chỉ nói sáu, bỏ Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna). Trong bản C, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói đến vị Tỳ-kheo nào thiện xảo về đàm luận pháp A tỳ đàm (Abhidharma), vị Tỳ-kheo ấy sẽ chói sáng khu rừng Sừng bò. Nhưng trong bản P, câu trả lời này được đặt vào miệng của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna). Trong bản C, câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên nói đến vị Tỳ-kheo nào giỏi về năng lực thần thông.

c) Pháp đàm giữa Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo),NC 30:

Trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la và Đại-câu-thi-la trả lời câu hỏi. Trong bản P, Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi và Xá Lợi Phất trả lời.

8. Những bài pháp do đệ tử Phật nói:

Có 14 NC thuộc về loại này. Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết pháp trong NC4, 24, 46, 63, 97. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết pháp trong NC12, 36. Tôn giả A Nan thuyết bốn bài pháp trong NC37, 57, 69, 86. Tôn giả A-na-luật-đà giảng một bài pháp trong NC82. Tỳ-kheo ni Pháp Lạc nói một bài pháp trong NC31 và Tôn giả Bạc-câu-la (Po-chu-lo) nói một bài pháp trong NC 79.

a) Do Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết:

NC4: (P5, Vô uế = C87,Uế phẩm kinh);
NC24: (P25, Dụ dấu chân voi = C178, Tượng tích dụ kinh);

NC46: (P69, Gulissàni = C26, Cù ni sư kinh);

NC63: (P97, Dhànanjàni = C27, Phạm chí Đà nhiên kinh);

NC97: (P143, Anàthapindikovàda = C28, Giáo hóa bệnh kinh);

Không có gì khác nhau nhiều giữa hai bản trong NC4, NC24, NC46. Nhưng có nhiều khác nhau trong NC63, nói đến sự gặp gỡ giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và bà la môn Đà Nhiên (T'o-jan). Sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-tử mang y cầm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau khi khất thực, ngài đến nhà bà la môn Đà Nhiên, lúc ấy Đà Nhiên vừa ra khỏi nhà đi đến bờ sông để hành hạ dân chúng. Khi thấy Tôn giả Xá-lợi-tử từ xa, ông ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi (?), mặc y phục để lộ một vai, chắp tay chào đón Tôn giả, đưa Tôn giả vào nhà, sửa soạn chỗ và mời Tôn giả ngồi xuống, rồi cúng dường thực phẩm cho Tôn giả trong đồ đựng bằng vàng. Nhưng Tôn giả từ chối. Ba lần bà la môn năn nỉ, và Tôn giả từ chối cả ba lần. Bản P không hẳn vậy, nói bà la môn Dhànanjàni đang ở ngoài thành vắt sữa bò trong một chuồng bò. Bản này bỏ các chi tiết: bà la môn đứng dậy khỏi chỗ ngồi, mặc y chừa một vai, đưa Tôn giả vào nhà, sai sửa soạn chỗ ngồi, dâng thực phẩm trong bát bằng vàng. Bản P chỉ nói rằng khi trông thấy Tôn giả Xá Lợi Phất từ xa, bà la môn Dhànanjàni đi đến mời Tôn giả uống sữa chờ đến khi có thức ăn, nhưng Tôn giả từ chối bảo rằng ngài đã ăn xong, và mời bà la môn cùng đi đến dưới một gốc cây. Phần còn lại hai bản gần giống nhau. Trong NC97, cả hai bản kinh nói đến Cấp Cô Độc (Kei-ku-tu) bị ốm, yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-tử đến giảng pháp cho ông. Tôn giả đến giảng pháp cho Cấp Cô Độc. Nhưng trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử bảo Cấp Cô Độc đừng sợ hãi vì ông ta có đức tin lớn, có giới, đa văn, bố thí, trí tuệ, chánh kiến, mục tiêu chân chính, và do vậy khổ và ưu sẽ chấm dứt, vô thượng an lạc sẽ khởi lên, do điều này người ta có thể đạt đến cõi Nhất lai hay Bất hoàn; và Cấp Cô Độc đã đắc quả Dự lưu. Trong bản P, Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên Cấp Cô Độc (Anàthapindika) đừng bám víu cái gì. Và sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất giảng xong, Cấp Cô Độc đã khóc. Sau khi Tôn giả ra đi, Cấp Cô Độc chết và được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất. Ở đây hai bản khác nhau khá xa. Rồi theo bản C, Cấp Cô Độc được khỏi bệnh, kể lại cho Tôn giả nghe lần đầu tiên ông gặp đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, thấy đựơc bốn chân lý, mua vườn Kỳ Viên (C: Shêng-lin; P: Jetavana) và dâng cúng cho đức Phật. Nhưng bản P nói rằng sau khi Cấp Cô Độc chết và tái sinh lên cõi trời Đâu suất (Tusita), vị thiên Cấp Cô Độc còn trẻ, chói sáng vườn Kỳ Viên với hào quang của mình, đi đến đức Phật, chào Ngài và đọc một bài kệ tán thán Phật, Pháp và Tôn giả Xá Lợi Phất. Rồi vị trời trẻ Cấp Cô Độc biến mất tại chỗ.

b) Những bài kinh do Đại Mục-kiền-liên thuyết (Ta-mu-chien-lien):

NC12: (P15, Tư lượng = C89,Tỳ-kheo thỉnh);
NC36: (P50, Màratajjaniya= C131, Hàng ma kinh):

Hai bản gần giống nhau.

c) Do A Nan thuyết:

NC 37: (P52, Bát thành = C217, Bát thành kinh);
NC 57: (P88, Bahitika = C214,Bệ ha đề);

NC 69: (P108, Gopakamoggàllana = C145, Cù mặc Mục-kiền-liên kinh);

NC 86: (P132, A nan nhất dạ hiền giả = C167, A nan thuyết):

Không có nhiều dị biệt giữa hai bản trong NC 37, 57, 86. Nhưng trong NC69, bản C nói vào lúc ấy quan đại thần Vũ Thế (C: Yu-chih; P: Vassakàra) xứ Ma-kiệt-đà (C: Mo-chieh-t'o; P: Magadha) đang chỉnh đốn thành Vương Xá để chống lại dân Bạt Kỳ (P'o-ch'i). Nhưng trong bản P, vua A Xà Thế (Ajàtasttu) xứ Ma-kiệt-đà chỉnh đốn thành Vương Xá chống lại vua Pajjota. Phần còn lại gần giống nhau.

d) Do A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha) giảng:

NC82: (P127, A na luật = C79 ,Hữu thắng thiên):
Hai bản gần giống nhau.

e) Do Tỳ-kheo ni Pháp Lạc (C: Fa-lo; P: Dhammadinnà) giảng :

NC31: (P44, Tiểu kinh Phương quảng= C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh):
Ở đây bản C nói Tỳ Xá Khư (C: P'i-shê-ch'u; P: Visakhà) là nữ đệ tử danh tiếng của thành Xá Vệ đi đến Tỳ-kheo ni Pháp Lạc tham vấn về Pháp. Theo bản P, Visàkha là chồng cũ của Pháp Lạc. Theo bản C, Tỳ-kheo ni Pháp Lạc đến Phật thuật lại sự thuyết pháp của bà, trong khi bản P nói chính cư sĩ Visàkha đến Phật thuật lại cuộc đàm thoại.

f) Do Bạc-câu-la (C: Po-chu-lo; P: Bakkula) thuyết :

NC79: (P124, Bakkula = C34, Bạc-câu-la kinh):
Ở đây bản P thêm tên của người hỏi Tôn giả Bakkula Acela Kassapa nhưng bỏ chi tiết ông ta là một người ngoại đạo. Sau khi Tôn giả Bakkula thuyết pháp, bản P thêm một đoạn dài, trong đó Acela Kassapa xin Tôn giả Bakkula cho ông xuất gia thọ đại giới. Sau khi thọ giới không lâu Acela Kassapa đắc quả A-la-hán, rồi sau một thời gian Tôn giả Bakkula cầm chìa khóa và thông báo cho các Tỳ-kheo khác biết mình sắp nhập Niết-bàn ngày hôm ấy, và Tôn giả Bakkula nhập Niết-bàn trong khi đang ngồi giữa chúng hội. Những chi tiết này không có trong bản C.


NHẬN XÉT CHUNG

Điểm qua vai trò của các nhân vật trong 98 kinh được so sánh, ta thấy rõ ràng có một nguồn gốc chung cho cả hai bản C và P, từ đó những nhà kết tập chọn những tài liệu và dữ kiện cho bản kinh của họ, nhưng không thiếu những dị biệt về chi tiết, và điều này hoặc do sự chọn lựa của các nhà kết tập hoặc do đặc điểm của các bộ phái mà họ tiêu biểu.
Như về phương diện nhân vật, trong NC15, kinh C 115,Mật hoàn du,ïnói chính Phật dẫn ví dụ về viên mật; trong kinh P18, nói Tôn giả A Nan dẫn. Trong NC 10, kinh C 99,Khổ ấm, kể một số đông tín đồ ngoại đạo đến gặp các Tỳ-kheo trong giảng đường khi họ đang tụ hội sau bữa ăn trưa. Nhưng trong P13, Đại kinh khổ uẩn, các Tỳ-kheo sau khi vào thành Xá Vệ khất thực, thấy còn sớm nên đi đến trú xứ của các du sĩ và cuộc đàm thoại bắt đầu. Trong NC 26, C184 nói Đại Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) trả lời Tỳ-kheo thiện xảo về luận thuyết (Abhidharma) (sẽ làm sáng chói khu rừng), nhưng theo kinh P32, đó là câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna) ; trong khi ở kinh C, Đại Mục-kiền-liên trả lời là Tỳ-kheo thiện xảo về thần thông. Như vậy bản C ở đây trung thực và đáng tin cậy hơn, vì Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna) nổi tiếng là chuyên môn về luận nghị, Mục-kiền-liên nổi tiếng là chuyên môn về thần thông. Chúng ta trích dẫn ở đây một nhận xét của tiến sĩ Anesaki(71): "Trong kinh P, Gosinga(72), chúng ta thấy nói đến sáu đệ tử của đức Phật; trong bản C tương đương có thêm một người nữa là Ca-chiên-diên (Katyàyana) . Trong cuộc đàm luận giữa những Tỳ-kheo ấy, Mục-kiền-liên ở bản P đóng vai trò một đệ tử tinh thông về các nguyên lý của pháp và phân tích pháp. Trong bản C, vai trò này do Ca-chiên-diên đóng, và Mục-kiền-liên (Maudgalyàyana) là một người nổi tiếng về thần thông. Khi so sánh điều này với những tài năng của các đệ tử như được nói trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara) I,14, chúng ta có thể thấy rằng bản C phù hợp với truyền thống chung. Vì như trong kinh Tăng chi I nói, Mục-kiền-liên là người thần thông (iddhimantànam) đệ nhất, Ca-chiên-diên (Kaccàna) là 'người thiện xảo về nói pháp và phân tích ý nghĩa' (sankhittena bhàsitassa vitthàrena attham vibhajantànam). Kinh Tăng-nhất-A-hàm (Ekottara) C cũng nói như vậy. Có thể sự khác nhau này chứng tỏ rằng không phải bản P luôn luôn thuần túy và nguyên chất hơn bản C."

Trong NC31, ta thấy một bất đồng khác nữa. Ở đây bản kinh C 210 nói đến tín nữ Tỳ Xá Khư ở thành Xá Vệ đi đến hỏi pháp Tỳ-kheo ni Pháp Lạc. Nhưng kinh P44 nói Visàkha là một nam cư sĩ, chồng cũ của Dhammadinnà. Trong Từ điển Tên riêng(D.P.P.N)(73)cũng nói Visàkha là chồng của Dhammadinnà. Ông là một thương gia giàu của thành Vương Xá, sau khi chứng quả Bất hoàn (Anàgàmì) , lối hành xử của ông đối với vợ hoàn toàn đổi khác. Khi ông tặng bà tất cả tài sản, trả lại tự do cho bà, bà xin được gia nhập tăng đoàn. Khi bà đắc quả A-la-hán, bà trở về Vương Xá. Visàkha đến thăm bà và hỏi bà nhiều câu hỏi liên hệ đến giáo lý Phật, và bà trả lời tất cả các câu hỏi ấy.(74)Cuộc đàm thoại của họ được ghi lại trong kinh Tiểu phương quảng (Cullavedallasutta). Sau đó Visàkha đến viếng đức Phật, thuật lại cuộc đàm thoại của họ và được nghe đức Phật tán thán Dhammadinnà. Như vậy có thể rằng những nhà kết tập kinh C đã nhầm lẫn tên Visàkha.

Trong NC30, kinh C 211 nói Tôn giả Xá-lợi-tử (Shê-li-tzu) đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo) và ông này trả lời; nhưng theo P 43 thì Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi, Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputta) trả lời. Lại trong NC56, kinh C 16 nói vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) phái một người bà la môn đến hỏi Phật về ý nghĩa giáo lý Ngài, trong khi kinh P 87 nói hoàng hậu Mallikà gởi sứ giả đến. Chúng ta cũng chú ý rằng trong NC53, theo kinh C63, Bệ bà lăng kỳ, vua Hiệp Bệ (Chia-pei) sai mang 500 xe bò đầy gạo trắng và đủ thứ thực phẩm của vua dùng để đến cúng dường Nan Đề Bà La (Nan-t'i-po-lo) . Nhưng Nan Đề Bà La từ chối, nói rằng vua có nhiều trách nhiệm lớn đối với quốc gia, và sự tốn kém của vua đã khá nặng nề nên ông không thể nhận. Nhưng bản P 81 nói vua Kikì sai chở 500 xe lúa, gạo vàng và cà ry đến cho người thợ gốm Ghatìkàra; ở đây người thợ gốm nhận quà và nói vua có nhiều phận sự, chừng ấy quà đã đủ cho anh ta. Như vậy những sự tường thuật mâu thẫn này cho chúng ta thấy hoặc do những nhà kết tập không nhớ kỹ, hoặc vì câu chuyện đã quá xa mờ trong dĩ vãng, nên những nhà kết tập chỉ còn nhớ mang máng, mơ hồ.

Về việc cải đạo của những người thuộc giáo phái khác sau khi nghe Phật thuyết pháp, ta thấy các chi tiết giống nhau giữa hai bản kinh trong các NC sau:

NC64: (P99, kinh Subha = C152, Anh vũ kinh);
NC23: (P27,Tiểu kinh dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ);
NC60: (P91, Brahmàyu = P161,Phạm ma);
NC68: (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên);
NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

Nhưng những chi tiết không giống trong các NC :

NC6: (P7,Ví dụ tấm vải = C93, Thủy tịnh Phạm chí);
NC61: (P93, Assalàyana= C151, Phạm chí A nhiếp hòa);
NC62: (P96, Esukari= C150, Uất sậu ca la);
NC48: (P75,Màgandiya= C153,Man nhàn đề);
NC52: (P80, Vekhanassa = C209, Bệ ma na tu);
NC38: (P54, Potaliya = C203, Bổø lợi đà kinh);
NC49: (P77,Mahàsakulùdayi = C207, Tiễn mao kinh);
NC56: (P87, Ái sinh= C216, Ái sinh kinh);
NC63: (P97,Dhananjàni= C27,Phạm chí Đà nhiên).

Trong NC6, bà la môn Thủy Tịnh (Shui-Ching) trong kinh C93 xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia. Nhưng kinh P 37 thêm rằng bà la môn Sundarika Bhàradvàjaxin đức Phật xuất gia thọ đại giới. Sau khi được phép, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đắc quả A-la-hán. Trong NC 48, theo bản C 153, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Man Nhàn Đề (Hsu-hsien-t'i) đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu. Ông được đức Phật cho xuất gia và đắc quả A-la-hán. Nhưng bản kinh P75 không nói Màgandiyađắc pháp nhãn ngay tại chỗ. Kinh này thêm lời tán thán của Màgandiyanhư thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật xuất gia. Ở đây Phật nói Màgandiya vì thuộc ngoại đạo đáng lẽ cần qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết căn tánh khác nhau của các hạng người nên ngài cho phép Màgandiyaxuất gia. Ở đây bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn.

Chúng ta nhận thấy rằng bản C thích trình bày những thần thông của Phật, trong khi bản P không nhắc tới, như trong NC 27, sau khi Phật thuyết pháp, kinh C 201, Trà đế,còn thêm, lúc ấy ba vạn thế giới rung động. Trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi,đức Thế tôn sau khi đọc lên bài kệ, đã vận thần thông bay ngang hư không và đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo) trong khi kinh P128,Tùy phiền não,không nói. Cũng vậy trong NC54, kinh C132, Lại-tra-hòa-la,nói Tôn giả Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha). trong khi kinh P82 quên chi tiết ấy. Bản C cũng ưa nói đến Tôn giả A Nan đứng sau đức Phật quạt cho Ngài hoặc hầu đức Phật tay cầm phất trần, trong khi bản P hoàn toàn không nhắc đến những chi tiết ấy như ở NC15, NC42, NC67, NC96, NC22. Đôi khi một trong hai bản thêm một chi tiết. Như trong NC35, bản P49,Brahmanimantanika,thêm tên bà la môn là Baka. Trong NC44, kinh P66, Latukìkopana, tên của Tỳ-kheo là Udàyì; trong NC39, kinh P56,Upàli, tên người thợ nhuộm là Rattapàni. Những tên này không có trong bản C. Đôi khi bản P thêm một chi tiết. Như trong NC64, P99, kinh Subha,thêm cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì. Trong NC94, kinh P140, Giới phân biệt,thêm rằng Pukkusàtixin đức Phật xuất gia thọ giới, nhưng đức Phật từ chối vì ông không có y bát. Trong khi đi tìm y bát, ông bị bò húc chết. Đôi khi, ta để ý điều ngược lại là bản C cho nhiều chi tiết hơn. Như trong NC3, C88, Cầu pháp kinh, đức Thế tôn đau lưng muốn nằm nghỉ, gấp tư y Uất đa la tăng (yu-to-lo-sêng) trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (sêng-chia-li) làm thành cái gối và nằm xuống bên hông phải hai chân duỗi ra chồng lên nhau. Nhưng bản P chỉ nói rằng đấng Thiện thệ đứng lên khỏi chỗ ngồi và đi vào tinh xá. Trong NC89, kinh C170, Anh vũ kinh, thêm câu chuyện về con chó của Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu), trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi kinh, thêm câu chuyện về Phạm-ma-đạt-đa (C: Fan-mo-ta-to; P: brahmadatta), về đức Phật làm bạn với voi.

Như vậy những điểm tương đồng mà ta thấy được ở đây chứng tỏ có một nguồn chung các dữ liệu mà hai bản C và P đều theo, những điểm dị biệt biểu lộ đặc tính của mỗi bộ phái hoặc lỗi lầm của những người kết tập. Chúng cũng chứng tỏ rằng vào thời gian kết tập, nhiều dữ kiện quá mờ nhạt lẫn lộn nên đã đưa đến những tường thuật mâu thuẫn trong hai bản kinh C và P.

 


(69)Câu này được tìm thấy trong kinh Hữu học P 53, Sekhasutta, do Tôn giả Aønanda giảng.
(70)Lời giải thích này theo các nhà luận giải Pàli. Nhưng nguyên ngữ Pàli Bhunahu tương đương với từ Sanskrit Bhruna-ha, người giết bào thai, dịch sát từ này.
(71)JRAS, 1901, p. 899.
(72)Treckner 212 f.
(73)ii, p. 898.
(74)MA, I, 514 f; Thig A 15, 19.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567