Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần Ba - 15 mẫu nghiên cứu tỷ giảo giữa các kinh P và C tương đương

26/03/201105:16(Xem: 5785)
Phần Ba - 15 mẫu nghiên cứu tỷ giảo giữa các kinh P và C tương đương

SO SÁNH KINH TRUNG A-HÀM CHỮ HÁN
VÀ KINH TRUNG-BỘ CHỮ PÀLI
Hòa thượng Thích Minh Châu (1961) - Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961), "A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

Phần Ba

15 MẪU NGHIÊN CỨU TỶ GIẢO
GIỮA CÁC KINH P VÀ C TƯƠNG ĐƯƠNG

NC1

C 100 : Tưởng kinh
P 1:KinhCăn bản pháp môn

A. Cốt tủy kinh C

C: Đức Phật kể ra những thái độ khác nhau của các hạng người đối với các pháp, nguyên nhân quyết định những thái độ này, và trình độ giải thoát do những thái độ này đem lại.
P: Gần giống.

B. Nhan đề

C: Tưởng kinh: Bàn về nhận thức, ám chỉ thái độ của những hạng người khác nhau đối với các pháp.
P: Mùlapariyàyasuttam,Căn bản pháp môn: Bàn về các pháp căn bản, ám chỉ phương pháp căn bản để tiếp cận các pháp.

C. Nơi thuyết kinh

C: Xá Vệ, Thắng Lâm, Cấp-cô-độc Viên.
P: Ukkatthà, Subhagavana, dưới gốc một cây Sà la vương.

Nhận xét:Ukkatthà là một thành phố ở Kosala gần dãy núi Tuyết, được quốc vương xứ Kosala phong ấp cho Bà-la-môn Pokkarasàti để thưởng tài năng của ông ta trước đấy. (D.P.P.N.,i,p.319)

Subhagavanalà một khu rừng ở Ukkatthà, được gọi như vậy vì vẻ đẹp của nó. (D.P.P.N.,ii,p. 1230)

Bản C dịch danh từ viharatilà "du hành", trong kinh này cũng như các kinh khác, bản P sử dụng từ này trong ý nghĩa nguyên thủy là trú, ở.

D. Nội dung kinh

I. Các hoàn cảnh đưa đến sự thuyết kinh:
C: Đức Phật nói kinh này không có một dẫn nhập nào cả.

P: Đức Phật gọi các Tỳ-kheo, tuyên bố ý định của Ngài là giảng pháp môn Tất cả pháp, bảo các Tỳ-kheo hãy chú ý lắng nghe, và các Tỳ-kheo vâng đáp đức Thế Tôn. Rồi đức Phật thuyết kinh.

II. Thái độ của các Sa-môn, Bà-la-môn còn vô minh:

C: Có những Sa-môn, Bà-la-môn tưởng tri địa đại là địa đại, rằng địa đại là ngã, thuộc về ngã, ngã thuộc về địa đại. Khi họ có quan điểm rằng địa đại là ngã, thì như vậy họ không biết rõ địa đại. Cũng vậy đối với thủy, hỏa, phong đại, phi nhân, chư thiên, Sanh chủ, Phạm thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, sự thanh tịnh, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đồng nhất, dị biệt, đa dạng, sở kiến, sở văn, sở giác, sở tư niệm, sở đắc, sở quán, niệm, ý tưởng, từ thế giới này đến thế giới khác, từ thế giới khác đến thế giới này, tất cả. Đối với tất cả, họ có tưởng về tất cả, lầm tất cả là ngã, tất cả thuộc về ngã, ngã thuộc về tất cả. Khi họ có quan điểm rằng tất cả là ngã, thì như vậy họ không biết rõ tất cả.

P: Không giống hẳn. Trong khi bản C chỉ nói đến Sa-môn và Bà-la-môn nói chung, bản P lại nói đến phàm phu ngu si, bất kể các bậc thánh và bậc chân nhân, không học, không tu tập pháp các bậc thánh, pháp các bậc chân nhân.

C: Người tưởng tri địa đại là địa đại, địa đại là ngã, địa đại thuộc về ngã, ngã thuộc về địa đại=P: vị ấy tưởng tri địa đại là địa đại, sau khi tưởng tri địa đại là địa đại, vị ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến tự ngã trong địa đại, vị ấy nghĩ đến địa đại ở trong ngã, hay ngã ở trong địa đại. Vị ấy nghĩ địa đại là của tôi. Vị ấy hoan hỷ trong địa đại.

C: Khi vị ấy có quan điểm rằng địa đại là ngã, thì vị ấy không biết rõ địa đại = P: Tại sao? Ta nói vị ấy không liễu tri địa đại.

Trong khi bản C kể đến 29 pháp, bản P chỉ kể 24 pháp theo thứ tự sau: địa, thủy, hỏa, phong, chúng sinh, chư thiên, Sanh chủ, Phạm thiên, Quan âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên, thắng giả, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, sở kiến, sở văn, sở giác, sở tri (cái được thấy, được nghe, được cảm giác, được nhận thức), đồng nhất, sai biệt, tất cả, Niết-bàn... 11 pháp không có trong bản P là: phi nhân, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, thanh tịnh, nhiều, sở đắc, sở quán, niệm, ý tưởng, từ thế giới này đến thế giới kia, từ thế giới kia đến thế giới này. Sáu pháp không có trong C: chúng sinh, Quan âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên, thắng giả, Niết-bàn.

Nhận xét:bản C bỏ danh từ Niết-bàn, được giải thích trong Papancàsudànilà sự hưởng thụ năm dục lạc, đây là lối giải thích của nhà duy vật xem sự hưởng dục ngay trong đời này chính là Niết-bàn.

III. Thái độ của các Sa-môn, Bà-la-môn có trí:

C: Đoạn này chỉ là ngược lại với thái độ các Sa-môn Bà-la-môn ngu si, với những thay đổi thích hợp.

P: Không giống hẳn. Ở đây bản P nói đến một bậc hữu học, đa văn, chưa đạt đến toàn giác, đang còn nỗ lực đạt đến vô thượng an ổn thoát khỏi trói buộc. Vị ấy biết địa đại là địa đại, và không nhận thức nó như phàm phu ngu si. Vị ấy cố không nghĩ đến địa đại là của tôi, không hoan hỷ trong địa đại. Lý do của thái độ này là với vị ấy, bản chất chân thực của đối tượng có thể biết được (parinneyyam tassàti).

Ở đây bản P thêm thái độ của bậc vô học, bậc A-la-hán, người đã phá hủy các lậu hoặc, đã sống đời phạm hạnh, đã làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt đến mục đích, đã tận trừ hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ thắng trí. Vị ấy đã đạt đến sự không nghĩ đến địa đại, không cho địa đại là của tôi, không hoan hỷ trong địa đại. Lý do của thái độ này là vị ấy đã liễu tri địa đại, đã từ bỏ tham, sân, si.

IV. Thái độ của Như lai:

C: Gần giống như trường hợp các Sa-môn, Bà-la-môn có trí, thay chữ Sa-môn, Bà-la-môn bằng Phật.

P: Ở đây bản P nói đến Như lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Vị ấy đã đạt đến sự không tưởng tri địa đại, không cho địa đại là của tôi, không hoan hỷ trong địa đại. Lý do của thái độ này là vị ấy đã hoàn toàn liễu tri. Vị ấy biết rằng hoan hỷ là nguồn gốc của đau khổ; từ hữu, sanh khởi lên, và có già chết đến với hữu tình. Đức Như lai nhờ đoạn tận tất cả khát ái, nhờ không chấp thủ, nhờ đã chấm dứt, đã từ bỏ, hoàn toàn từ bỏ, nên đã đạt đến Vô thượng bồ đề.

Nhận xét:Ở đây bản P đưa ra một định nghĩa rõ ràng về các hạng người khác nhau với những thái độ khác nhau của họ, và lý do họ làm như vậy, trong khi bản C thì hơi quá đơn giản. Bản P nói đến sự phân biệt giữa hai hạng người cuối cùng, giữa Tỳ-kheo là bậc A-la-hán với tất cả đặc tính của quả vị này và Như lai, cũng là một A-la-hán, nhưng còn là Sammàsambuddho,Chánh đẳng giác. Ở đây bản C dịch danh từ Àtman là thần hồn.

E. Kết luận

C: Đức Phật nói như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật, hoan hỷ phụng hành.
P: Đức Phật nói như vậy. Các Tỳ-kheo hoan hỷ về lời dạy của đức Thế Tôn.

Nhận xét:theo truyền thống Tích Lan và bản kinh Tích Lan, các Tỳ-kheo khônghoan hỷ với kinh này. "Na te bhikkhù Bhagavato bhàsitam abhinandunti." Bản in trong kỳ kết tập thứ sáu tại Miến Điện cũng theo truyền thống của Tích Lan.

NC 2

C 10: Lậu tận kinh
P 2: KinhTất cả lậu hoặc

A. Cốt tủy kinh C

Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tri kiến và sự tư duy chân chính đưa đến tận trừ lậu hoặc, và nhấn mạnh những nguy hiểm của tà tư duy nuôi dưỡng và tăng trưởng lậu hoặc. Rồi Ngài nêu lên bảy cách tận trừ lậu hoặc.

B. Nhan đề

C: Lậu tận kinh : Bài kinh nói về sự dập tắt các lậu hoặc, ám chỉ sự chấm dứt lậu hoặc bằng bảy cách.

P: Sabbàsavasuttam: Bài kinh nói về tất cả lậu hoặc, ám chỉ tất cả lậu hoặc được đoạn tận bằng bảy cách.

C. Địa điểm thuyết kinh

C: Ở Câu Lâu Sấu tại phố thị của người Câu Lâu (Kuru) gọi là Chien-mo-sê-t'san.

P: Tại Xá Vệ, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên.

Ghi chú: Kuru là một trong 16 thị trấn lớn. Cư dân ở đây nổi tiếng là có trí tuệ sâu sắc và phần lớn những kinh sâu xa đều được Phật thuyết tại đây. Kammassadammalà một làng của dân Kuru, nơi thỉnh thoảng Phật đến cư trú.

D. Nội dung kinh

I. Hoàn cảnh đưa đến sự thuyết kinh:

C: Phật thuyết kinh này không có dẫn nhập:

P: Phật gọi các Tỳ-kheo, báo cho biết ý định Ngài muốn thuyết kinh Tất cả lậu hoặc, bảo họ hãy chú ý. Các Tỳ-kheo vâng đáp và Phật giảng kinh.

II. Tri kiến đưa đến sự đoạn tận lậu hoặc:

C: Nhờ tri kiến mà lậu hoặc được dập tắt. Làm thế nào nhờ tri kiến mà lậu hoặc được dập tắt chứ không phải không tri kiến, không lý do? Có sự suy xét chân chính, và suy xét sai lầm. Do suy xét sai lầm, những dục lậu chưa sinh phát sinh, lậu hoặc đã sinh tăng trưởng; hữu lậu chưa sinh phát sinh, vô minh lậu chưa sinh cũng phát sinh. Nhờ suy xét đúng, mà dục lậu chưa sinh không sinh, dục lậu đã sinh biến mất; hữu lậu, vô minh lậu chưa sinh không sinh, hữu lậu, vô minh lậu đã sinh biến mất.

P: Gần giống. C: nhờ tri kiến=P: jànato passato. C: suy xét chân chính, suy xét sai lầm= như lý tác ý, phi như lý tác ý. Bản P chỉ nói àsavà(lậu hoặc) nói chung.

III. Thái độ của vô văn phàm phu và thánh đệ tử đa văn:

C: Những kẻ phàm phu ngu si không thể nghe chánh pháp, không thể gặp bậc thực sự đa văn, không biết diệu pháp, không am hiểu diệu pháp, không như thật biết về pháp. Do suy nghĩ sai lầm, những dục lậu chưa sinh phát sinh ... (như trên, cho đến) những lậu hoặc đã sinh biến mất. Vì vị ấy không như thật biết pháp, vị ấy tư duy các pháp không đáng tư duy, vị ấy không tư duy các pháp đáng tư duy. Vì vị ấy tư duy các pháp không đáng tư duy, và không tư duy các pháp đáng tư duy, nên dục lậu chưa sinh phát sinh, lậu hoặc đã sinh tăng trưởng; các hữu lậu, vô minh lậu chưa sinh phát sinh, các lậu hoặc đã sinh tăng trưởng. Thánh đệ tử đa văn có thể nghe chánh pháp, có thể gặp gỡ những người thực sự đa văn (ngược lại với trường hợp vô văn phàm phu).

P: (Bản P để đoạn này trong phần nói về lậu hoặc cần phải đoạn trừ bằng kiến). Ở đây phàm phu vô văn được mô tả là không kể gì đến bậc thánh và bậc chân nhân, vì không am hiểu, không tu tập pháp các bậc thánh và bậc chân nhân. Nó bỏ: "với suy nghĩ sai lầm... những lậu hoặc đã sinh biến mất". Bản P nói rằng phàm phu này không biết pháp nào nên tác ý và pháp nào không nên tác ý. Những pháp không nên tác ý là những pháp mà khi tác ý thì dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu chưa sinh sẽ sinh, những lậu hoặc đã sinh sẽ tăng trưởng. Những pháp đáng tác ý là những pháp nào khi tác ý đến, thì dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu chưa sinh sẽ không sinh, đã sinh sẽ biến mất. Vì phàm phu này tác ý các pháp không đáng tác ý, cho nên các lậu hoặc chưa sinh sinh khởi, các lậu hoặc đã sinh tăng trưởng. Trường hợp bậc thánh đệ tử đa văn thì trái lại.

IV. Bảy cách để đoạn trừ lậu hoặc:

C: Có bảy cách đoạn trừ lậu hoặc, khổ, bực mình, sầu, não. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng tri kiến. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng phòng hộ. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng tránh né. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng sử dụng. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng kham nhẫn. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng trừ diệt. Có những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng suy tư.

P: Gần giống. Thứ tự trong bản P như sau: 1. Tri kiến, 2. Phòng hộ, 3. Sử dụng, 4. Kham nhẫn, 5. Tránh né, 6. Đoạn trừ 7. Tu tập.

Nhận xét:Thứ tự trong P đúng hơn vì nó đặt "sử dụng" gần với kham nhẫn và "tránh né" gần với trừ khử.

Trong phương pháp thứ bảy, bản C dùng danh từ tư duy, P dùng danh từ Bhàvanàcó hai nghĩa, tư duy và thiền định.

V. Lậu hoặc cần đoạn trừ bằng tri kiến:

P: Dassana:

C: Thế nào là lậu hoặc cần đoạn trừ bằng tri kiến? Kẻ vô văn phàm phu không thể nghe chánh pháp... không chân thật biết pháp, vì nó tác ý sai, nó nghĩ: "Ta đã có đời quá khứ; ta không có đời quá khứ; do nguyên nhân gì ta có đời quá khứ, đời quá khứ của ta ra sao? Ta sẽ có đời tương lai; ta sẽ không có đời tương lai? Nó hoài nghi về tự thân, là gì, như thế nào? Các hữu tình này đến đây từ bao giờ và sẽ đi về đâu? Do nguyên nhân nào chúng đã có mặt trong quá khứ? Do nguyên nhân nào chúng sẽ có mặt trong tương lai?" Sau khi làm những tư duy sai lầm như vậy đối với sáu kiến chấp ấy; theo bất cứ quan điểm nào trong đó, kiến chấp khởi lên rằng thật có một cái ngã (soul); sự khởi lên kiến chấp này nảy sinh ra kiến chấp rằng thực sự không có ngã; sự khởi lên kiến chấp này sinh ra kiến chấp rằng ngã thấy ngã; sự khởi lên kiến chấp này sinh ra kiến chấp rằng ngã thấy phi ngã; sự khởi lên kiến chấp này sinh ra kiến chấp phi ngã thấy ngã; sự khởi lên kiến chấp này sinh ra kiến chấp rằng cái ngã này có thể nói, hiểu, hành động, khiến hành động, có thể giảng dạy, khiến giảng dạy; (bản C hơi nhầm lẫn, đáng lẽ là: năng tác, tác khởi, năng giáo, giáo khởi); tái sinh chỗ này chỗ kia, thọ các quả báo thiện ác, chắc chắn nó không từ đâu lại, chắc chắn nó không hiện hữu, chắc chắn nó sẽ không hiện hữu. Đây gọi là tấm màn kiến chấp, kiến tranh luận, kiến trói buộc. Kẻ phàm phu ngu si vì lý do này phải chịu sinh, già, bệnh, chết.

Bậc thánh đệ tử có thể nghe chánh pháp, có thể gặp những người thực sự đa văn; vị ấy như thật biết chánh pháp, như thật biết khổ, biết nguyên nhân của khổ, biết sự chấm dứt của khổ, biết con đường đưa đến sự chấm dứt khổ. Sau khi biết như vậy phù hợp với chân lý, ba kiết sử được đoạn tận. Ba kiết sử thân kiến, giới cấm thủ và nghi khi đã đoạn tận, vị ấy đắc Dự lưu, không còn rơi vào ác pháp và chắc chắn sẽ tiến đến giác ngộ chân chính. Cùng lắm là sau bảy lần tái sinh tại các cõi trời và cõi người, vị ấy sẽ đạt đến chấm dứt khổ. Nếu vị ấy không biết tri kiến chân chính, thì sầu, bi, khổ, ưu sinh khởi. Nếu vị ấy biết tri kiến chân chính, thì sầu, bi, khổ, ưu không sinh khởi. Đây gọi là lậu hoặc đoạn trừ bằng tri kiến.

P: (Bản P để đoạn nói về thái độ phàm phu và thánh đệ tử vào phần này). Gần giống. Về cách suy nghĩ của phàm phu ngu si, về quá khứ và vị lai cũng giống như C. Về hiện tại, C: Vị ấy hoài nghi thân của ta là gì, nó ra sao=P: Hiện tại ta hiện hữu hay không hiện hữu? Ta là gì trong hiện tại? Ta là thế nào? Bản P bỏ: "Do nguyên nhân gì từ trước hữu tình sinh ra? Do nguyên nhân gì tương lai chúng sẽ không sinh?" Sáu kiến chấp khởi lên do tà tư duy cũng gần giống nhau.

Kiến chấp thứ nhất: C: kiến chấp khởi lên rằng thật có một bản ngã=P: kiến chấp khởi lên như thật như chân: "ta có một bản ngã".

Kiến chấp thứ hai:Cũng nhận xét như trên.

Kiến chấp thứ ba: C: kiến chấp khởi lên rằng, ngã thấy ngã=P: bản P dùng danh từ tưởng tri thay cho thấy, và dùng tự ngã thay cho ngã.

Kiến chấp thứ tư và năm: Cũng nhận xét như trên.

Kiến chấp thứ sáu:C: Chính tự ngã này có thể nói, hiểu, hành động, khiến hành động, có thể giảng dạy và khiến giảng dạy; sinh chỗ này chỗ kia, thọ quả báo thiện ác; chắc chắn nó không từ đâu đến, chắc chắn nó không hiện hữu, chắc chắn nó sẽ không hiện hữu= P: Chính tự ngã này là người nói, người kinh nghiệm, người hưởng thụ quả báo các hành vi thiện ác chỗ này chỗ kia. Tự ngã này của tôi trường cửu, chắc chắn, thường hằng, không biến đổi, bất diệt.

C: Đây gọi là màn kiến chấp, kiến trù lâm, kiến trói buộc=P: ditthigatam, ditthigahànam, ditthikantàram, ditthivisùkam, ditthi-vipphanditam, ditthisamyojanam ( đi đến tà kiến, rừng tà kiến, kiến hoang vu, kiến tranh chấp, kiến đấu tranh, kiến kiết sử). Về thái độ của thánh đệ tử đa văn, bản P đưa vào đây toàn thể đoạn ở trong phần ba đã thấy ở trên. Nó cũng nói tri kiến về bốn chân lý phù hợp với chánh tư duy và sự đoạn tận ba kiết sử: thân kiến, nghi và giới cấm thủ (không trùng thứ tự như bản C). Nó bỏ sự chứng đắc Dự lưu đạo và sự diệt tận đau khổ, sầu, khổ, ưu, não.

VI. Lậu hoặc cần đoạn trừ bằng phòng hộ:

P : Samvara:

C: Vị Tỳ-kheo khi thấy sắc pháp, phòng hộ nhãn căn. Với sự suy xét chân chính, vị ấy quán chúng là bất tịnh. Vị ấy không hộ trì nhãn căn khi do suy nghĩ sai lầm, xem chúng là sạch sẽ. Khi không có sự phòng hộ, thì sầu, bi, khổ, ưu sẽ sinh khởi; khi có sự phòng hộ, thì sầu, bi, khổ, ưu không sinh. Cũng vậy với tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi nhận thức các đối tượng. Vị ấy phòng hộ ý căn. Với tư duy chân chính, vị ấy quán chúng là bất tịnh; vị ấy không phòng hộ ý căn nếu do tà tư duy, quán chúng là thanh tịnh. Khi không có sự phòng hộ thì sầu, bi, khổ, ưu phát sinh; khi có sự phòng hộ thì sầu, bi, khổ, ưu không sinh.

P: Không giống hẳn. Ở đây bản P nói, vị Tỳ-kheo như lý tác ý, sống phòng hộ với sự phòng hộ nhãn căn. Nếu vị ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ nhãn căn, thì những lậu hoặc tàn hại và nhiệt não sẽ sinh khởi; nếu vị ấy sống phòng hộ với sự phòng hộ nhãn căn, thì những lậu hoặc tàn hại, nhiệt não sẽ không sinh. Cũng vậy với các căn khác. Phần còn lại không có.

VII. Lậu hoặc cần được diệt trừ bằng tránh né:

P: Parivajjana:

C: Khi vị Tỳ-kheo trông thấy voi dữ, vị ấy nên tránh nó, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, rắn độc, con đường nguy hiểm, hào, hố, hầm phân có đậy nắp, con sông, ao sâu, hố thẳm, người có học nhưng xấu xa, bạn xấu, ngoại đạo xấu xa, láng giềng xấu, chỗ ở xấu (vị ấy nên tránh chúng). Khi sống chung với những du sĩ, Bà-la-môn, nếu những người chưa nghi ngờ sẽ nghi ngờ, thì Tỳ-kheo nên tránh những trú xứ xấu xa. Tại những nơi này, nếu người không nghi ngờ sẽ nghi ngờ thì tất cả những nơi này cần phải được tránh né. Nếu không có sự tránh né, thì sầu, bi, khổ, ưu sẽ sinh khởi. Nếu có sự tránh né, thì sầu, bi, khổ, ưu, sẽ không sinh. Đây gọi là là lậu hoặc được đoạn trừ bằng tránh né.

P: Trong số những thú vật và nơi chốn cần tránh né, bản P bỏ: đường xấu, hố phân có đậy nắp, sông, ao sâu, nhưng thêm: những gốc cây, những bờ có gai, hố rác. Bản C: "Khi sống chung... tất cả những người này cần được tránh né hoàn toàn", bản P nói: "Bất cứ chỗ nào vị ấy ngồi, bất cứ nơi nào vị ấy đi đến, bất cứ người bạn xấu nào vị ấy liên hệ, nếu do làm như vậy mà các vị đồng phạm hạnh có trí sẽ nghi ngờ vị ấy có tính đồi trụy (có tội : pàpakesu thànesu okappeyyum), thì vị Tỳ-kheo như lý tác ý, nên tránh những nơi chốn và những người này." Phần còn lại cũng có nhận xét như ở đoạn trên.

VIII. Lậu hoặc cần được đoạn trừ nhờ thọ dụng:

P: Patisevana:

C: Thế nào là lậu hoặc được đoạn trừ bằng sử dụng? Nếu một Tỳ-kheo sử dụng một y phục không phải vì lợi lộc, vì kiêu mạn, không phải để trang sức, nhưng chỉ để che thân khỏi muỗi mòng, gió, mưa, lạnh, nóng, để che đậy sự hổ thẹn. Khi sử dụng đồ ăn uống, không phải vì lợi lộc, vì kiêu mạn, không phải vì lạc thú mập phì, mà chỉ vì muốn duy trì cơ thể được lâu dài, muốn trừ khử sầu, não, khổ, ưu để duy trì đời sống phạm hạnh, để xua đuổi bịnh cũ và đề phòng bịnh mới, để sống lâu, để bảo dưỡng, không bệnh. Khi vị ấy sử dụng trú xứ, phòng, nhà, giường, nệm, đồ nằm, thì không phải vì lợi lộc, kiêu mạn, trang sức, mà chỉ vì để chấm dứt sự mệt nhọc do ngồi thiền. Khi vị ấy sử dụng dược phẩm trị bệnh, không phải vì lợi lộc, vì kiêu mạn, không vì lạc thú mập phì, mà chỉ vì để diệt trừ ưu não do bệnh gây ra, để duy trì sự sống, để sống được an ổn không bệnh. Nếu không sử dụng, thì sầu, khổ... không sanh khởi, đây gọi là lậu hoặc được đoạn trừ nhờ thọ dụng.

P: Không giống hẳn. Về sự sử dụng y phục, bản P thêm: "như lý tác ý" cho thái độ vị Tỳ-kheo, và thêm sirimsapavào danh sách muỗi mòng. Nó bỏ: không vì lợi lộc, kiêu mạn, trang sức. Về sử dụng đồ ăn uống, C: ăn và uống=P: đồ ăn khất thực. Ở đây bản P nói Tỳ-kheo sử dụng đồ ăn khất thực không để vui đùa, davà,không để say mê,madà, không phải để trang hoàng, không để làm đẹp mình, mà để duy trì sự sống, giữ cho nó khỏi bị hại, để duy trì đời sống phạm hạnh, để phá hủy cảm thọ cũ, đề phòng cảm thọ mới, để sống không lỗi, an ổn và thoải mái.

Về sử dụng trú xứ, bản P chỉ nói sàng tọa. Nó bỏ: "không vì..." và nói để che khỏi lạnh, nóng, ruồi, muỗi, gió, mặt trời, bò sát, để tránh sự khắc nghiệt của thời tiết, để hưởng sự độc cư.

Về sử dụng dược phẩm, bản P nói dược phẩm trị bệnh. Nó bỏ: "không vì...", nhưng nói để diệt trừ các cảm thọ khởi lên gây đau đớn, để được sự an lạc tối đa.

Nhận xét:Từ sirimsapaở vị trí này hơi lạ, vì đáng lẽ nó được đặt gần các từ damsa, makasa. Kinh Uttaradhyayanasùtrakể theo thứ tự: vàta, àtapa, damsa, masaka, sirimsapa.Truyền thống bản P chỉ kể nhu yếu tích cực của y phục, không nói đến những cách sử dụng sai. Trong bản C, danh từ kiêu mạn được dùng để dịch madà, vừa có nghĩa kiêu mạn vừa có nghĩa say mê. Ở đây chữ say mêthích hợp hơn trong việc sử dụng đồ ăn khất thực. Bản P nói "không để trang sức, không để làm đẹp", nghe ra hơi gượng ép. Bản C dễ nghe hơn.

IX. Lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng kham nhẫn:

P: Adhivàsanà:

C: Thế nào là những lậu hoặc được đoạn trừ bằng kham nhẫn? Để tận trừ các ác bất thiện pháp và tu tập các thiện pháp, vị Tỳ-kheo thường xuyên để tâm mình tư duy: tôi sẽ nỗ lực với tất cả tâm hồn, dù cho thân thể, da, thịt, gân, xương, máu, tủy khô cạn, kiệt sức, tôi cũng sẽ không bao giờ từ bỏ sự nỗ lực; chỉ khi tôi có được điều tôi muốn, tôi mới từ bỏ nỗ lực. Vị Tỳ-kheo lại phải chịu đựng đói, khát, lạnh, nóng, muỗi, ruồi, chí, rận, sự bức bách của gió và nắng, những lời ác độc, sự đánh bằng gậy gộc. Vị ấy chịu đựng tất cả. Dù cơ thể bị đau ốm và đau đến khốc liệt, đến nỗi gần như chết và đối với mọi cảm giác khó chịu khác, vị ấy có thể chịu đựng tất cả. Nếu không có sự kham nhẫn, thì sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ phát sinh, nếu có kham nhẫn thì sầu, ưu không sinh, đây gọi là lậu hoặc được đoạn trừ bằng kham nhẫn.

P: Bản P chỉ nói rằng vị Tỳ-kheo nên chân chánh giác sát, chịu đựng lạnh, nóng, đói, khát, ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài bò sát, sự nhục mạ và những lời độc ác. Vị ấy nên chịu đựng những cảm thọ về thân khởi lên đau đớn, nhói đau, khốc liệt, nghiêm trọng, khó chịu, chết điếng người.

Nhận xét:Bản P bỏ: sự nỗ lực ... thân thể máu thịt v.v.. đều khô cạn.

X. Lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng trừ diệt:

P: Vinodana:

C: Thế nào là những lậu hoặc cần được đoạn trừ bằng trừ diệt? Khi các tư tưởng về tham dục khởi lên, vị Tỳ-kheo cần phải trừ diệt, đoạn tận, xua đuổi chúng. Khi những tư tưởng về sân, hại khởi lên, vị ấy cần phải trừ diệt, đoạn tận, xua đuổi chúng. Nếu không có sự trừ diệt, thì sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ sinh khởi, nếu có....... không sinh. Đây gọi là lậu hoặc được đoạn tận bằng trừ diệt.

P: Gần giống. Bản P thêm: "bất thiện pháp" và các ý tưởng dục, sân, hại.

XI. Lậu hoặc cần được đoạn tận nhờ tu tập:

P: Bhàvanà:

C: Thế nào là lậu hoặc được đoạn tận nhờ tu tập? Vị Tỳ-kheo tư duy về chánh niệm giác chi thứ nhất, y cứ độc cư, ly dục, diệt, đưa đến giải thoát. (Cũng vậy) người ấy tư duy về trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, và xả, giác chi thứ bảy, y cứ biệt ly, ly dục, diệt, đưa đến giải thoát. Nếu có tư duy, ........... sẽ không sinh. Đây gọi là lậu hoặc được đoạn tận nhờ tư duy.

P: Gần giống. Bản P thêm: như lý tác ý. Ở đây bảy giác chi y cứ viễn ly (viveka), ly tham (virgàra), diệt, đưa đến từ bỏ (vossaggaparinàmin).

Nhận xét:Bản C nói đến giác chi thứ hai là pháp, chứ không nói trạch pháp.

XII. Sự tận trừ tất cả lậu hoặc:

C: Nếu một Tỳ-kheo thành công trong việc tận trừ tất cả lậu hoặc nhờ tri kiến, nhờ phòng hộ, nhờ tránh né, nhờ sử dụng, nhờ kham nhẫn, nhờ trừ diệt và nhờ tu tập, vị Tỳ-kheo ấy đã tận trừ tất cả lậu hoặc, đã giải thoát khỏi kiết sử, có thể sử dụng chánh trí để chấm dứt khổ đau.

P: Phần đầu cũng giống như C; phần hai như sau: "Vị Tỳ-kheo ấy được nói là đã trú chế ngự với sự chế ngự tất cả những lậu hoặc, đã phá hủy tham ái, tận trừ kiết sử và thực chứng kiêu mạn, chấm dứt khổ đau".

E. Phần kết

C: Đức Phật nói như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

P: Đức Thế Tôn nói như vậy. Các vị Tỳ-kheo hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

NC5

C 105: Nguyện kinh
P6: Kinh Ước nguyện

A. Toát yếu kinh C

Đức Phật kể ra một số ước nguyện (bản C có 13, P có 17). Những ước nguyện này sẽ được viên mãn bởi những Tỳ-kheo tuân thủ những học giới của Giới bản và siêng tu thiền định và tuệ quán.

P: Gần giống.

B. Nhan đề

C:Nguyện kinh,bản kinh nói về những mong muốn, ám chỉ những mong muốn do các Tỳ-kheo lập nên.

P: KinhƯớc nguyện,bài kinh nói về những gì người ta có thể mong cầu, cũng ám chỉ các mong cầu của Tỳ-kheo.

C. Địa điểm thuyết kinh

Hai bản giống nhau, ám chỉ Xá Vệ, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên.

D. Nội dung kinh

I. Hoàn cảnh đưa đến sự thuyết kinh:

C: Lúc bấy giờ có một Tỳ-kheo sống viễn ly độc cư tại một nơi xa vắng yên tịnh. Trong khi ngồi thiền, những ý nghĩ sau đây khởi lên nơi ông: "Đức Thế Tôn an ủi ta, nói chuyện với ta, giảng pháp cho ta, để ta được thọ cụ túc giới mà không xao lãng thiền định, viên mãn sự tu tập tuệ, ở một nơi vắng vẻ không người." Sau khi nghĩ thế, vào buổi chiều, vị Tỳ-kheo đứng dậy từ chỗ ngồi thiền và đi đến đức Phật. Đức Thế Tôn khi thấy vị Tỳ-kheo ấy từ xa đến, đã nhân vị Tỳ-kheo ấy mà dạy các Tỳ-kheo.

P: Không nói đến hoàn cảnh thuyết kinh. Đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo, không có giáo đầu.

II. Các ước nguyện:

Bản C có 13, P có 17. Nội dung các ước nguyện gần giống nhau trong hai bản, nhưng có vài dị biệt trong cách hành văn và về chi tiết. Bản P trước khi kể ra các ước nguyện, đã trích dẫn lời Phật khuyến cáo các Tỳ-kheo hãy tuân giữ các học giới, thực hành Giới bản Biệt giải thoát, sống khéo chế ngự bằng sự chế ngự của Giới bản, tuân giữ uy nghi và hành xứ chính đáng, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ và học tập các học giới. Bản C bỏ đoạn này. Trong bản P, sau mỗi ước nguyện có một đoạn lập lại giống nhau, một thứ điệp khúc nói lên các điều kiện cần có để viên mãn ước nguyện ấy như sau: "Vị ấy phải là một người viên mãn các học giới, nội tâm tịch tịnh, không gián đoạn thiền định, có tuệ quán, thường ưa thích lui tới nơi nhàn tịnh." Trong bản C cũng có một loại điệp khúc cuối mỗi nguyện nhưng nó không tách rời với ước nguyện ấy, và cách hành văn làm cho ta khó thấy được nó là một điều kiện cần phải viên mãn như trong bản P. Điệp khúc ấy như sau: "Hãy tuân giữ toàn bộ các học giới, nhưng không xao lãng thiền định, hãy viên mãn sự tu tập tuệ quán bằng cách ở nơi vắng vẻ."

C1=P1:

C: Tỳ-kheo nên ước nguyện rằng: "Ước gì đức Thế Tôn an ủi ta, nói chuyện với ta, thuyết pháp cho ta"...

P: "Mong sao tôi được đồng phạm hạnh yêu mến, thích, cung kính, tôn trọng."

C2=P4:

C: "Ta có những thân quyến. Mong sao khi họ mạng chung, nhờ ta mà họ được đi đến những nơi tốt lành, cho đến tái sinh lên trời."

P: "Mong sao những thân bằng quyến thuộc của ta lúc chết và tái sinh vào một loài khác, sẽ nhớ đến ta với một tâm hoan hỷ, và nhờ vậy mà họ được kết quả lớn, lợi ích lớn."

Nhận xét:Cô Horner đã dịch đoạn này như sau: "Mong đây sẽ là một quả báo lớn, lợi ích lớn cho những bà con quyến thuộc của ta, những người này với tâm vui vẻ nhớ lại những người đã chết....." nhưng trong Papancasùdanìthì nói các thân quyến khi chết nhớ lại những đức tính của vị Tỳ-kheo và nhờ vậy chết với tâm hoan hỷ.

C3=P3:

C: "Mong sao những người cho tôi y phục, đồ nằm, đồ ăn uống, giường, đệm, dầu, dược liệu, những đồ dùng để sống; mong sao nhờ sự bố thí này, họ được công đức lớn, danh vọng lớn và gặt quả báo lớn."

P: Giống nhau. Nó kể theo thường lệ y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Nó chỉ nói quả báo lớn và lợi ích lớn.

C4=P không có:

C: "Mong ta có thể chịu đựng đói, khát, lạnh, nóng, muỗi, ruồi, nhặng, chí, rận, sức ép của gió và nóng, các lời xấu ác, sự đánh đập bằng roi gậy. Khi thân bị đau bịnh khốc liệt, chết điếng,và đối với tất cả khổ thọ, mong tôi chịu đựng được tất cả."

C5=P5:

C: "Mong ta có thể chịu đựng bất lạc. Nếu bất lạc xảy đến, mong rằng tâm ta cuối cùng sẽ không bị ảnh hưởng."

P: Giống nhau.

C6=P6:

C: "Mong ta có thể chịu đựng sợ hãi khiếp đảm. Nếu sợ hãi khiếp đảm xảy đến, mong rằng tâm ta cuối cùng không bị ảnh hưởng."

P: Giống nhau.

C7=P không có:

C: "Nếu ba ý tưởng ác bất thiện khởi lên nơi tôi, những ý tưởng về dục, sân và hại, mong rằng cuối cùng tôi không bị chúng ảnh hưởng."

C8=P7:

C: "Mong ta ly dục, ly bất thiện pháp, cho đến chứng và trú thiền thứ tư."

P: "Mong ta có thể không khó khăn, không mệt nhọc, chứng được bốn thiền thuộc tăng thượng tâm, khiến ta an trú trong hiện tại lạc."

C9=P9:

C: "Mong ta có thể, nhờ đoạn trừ ba kiết sử, chứng được Dự lưu, không còn rơi vào ác pháp, chắc chắn được giác ngộ, chỉ còn tái sinh nhiều nhất là bảy lần trong thiên giới hay trong cõi người, và sau bảy lần qua lại, ta sẽ chấm dứt khổ đau."

P: Gần giống; C: không rơi vào ác pháp=P: avinipàtadhammo. Bản P bỏ: và sau khi qua lại bảy lần, chấm dứt khổ đau.

Nhận xét:Danh từ avinipàtadhammo, bản C dịch là "pháp" trong khi nó chỉ có nghĩa là "phải bị, phải chịu".

C10=P10:

C: "Sau khi đoạn trừ ba kiết sử, làm mỏng dần tham, sân, si, mong ta có thể chỉ còn đi lại một lần ở cõi trời hay cõi người, và sau khi qua lại một lần, có thể chấm dứt khổ đau."

P: Giống nhau. C: đến cõi trời và cõi người=P: thế giới này.

C11=P11:

C: "Mong ta sau khi đoạn năm hạ phần kiết sử, sẽ được tái sinh trong cõi ấy và từ đấy đạt Niết-bàn, được pháp Bất thối, không còn trở lui đời này."

P: Giống nhau. Bản P thêm: opapàtiko(hóa sanh). C: được pháp Bất thối, không trở lui vào thế giới này=P: anàvattidhammo (từ cõi ấy không còn phải chịu luân chuyển).

C12=P8:

C: "Mong ta chứng được tịch tịnh giải thoát siêu quá sắc giới, đạt đến vô sắc, giống như những người đạt được trong thiền (?) với thân chứng và trú, để tư duy với trí tuệ, để đoạn tận lậu hoặc, để biết rõ lậu hoặc."

P: Bản P bỏ: "giống như những người đạt được trong thiền. " và "để tư duy... lậu hoặc". Bản P dùng danh từ phassitvàtrong khi bản C dịch là chứng đắc, cách dịch này rất đúng vì từ phassitvà ở đây không có nghĩa là sờ chạm như thông thường.

C13=P12, 13,14,15,16,17:

C: "Mong ta có thể đạt đến các thần thông, như thiên nhãn, tha tâm, túc mạng, sinh tử trí, mong tất cả lậu hoặc được dập tắt, giai đoạn không còn lậu hoặc được đạt đến, và bằng tự tri, tự ngộ, ta đạt được ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã viên thành, những gì cần làm đã làm xong, sẽ không còn sinh lại, sự hiểu biết này là đúng thật."

P: Ở đây bản P nói cùng một đề tài nhưng chia làm sáu ước nguyện: nguyện thứ 12 là thần túc thông, 13 là thiên nhĩ thông, 14 là tha tâm thông, 15 là túc mạng thông, 16 là thiên nhãn trí, 17 là lậu tận.

C: sinh tử trí=P: thiên nhãn. Các loại trí này được mô tả chi tiết trong bản P.

P2=C: không có:

P: "Mong ta có được y phục, đồ ăn khất thực, trú xứ và dược phẩm trị bệnh."

Nhận xét:Ước nguyện thứ tư ở đây cũng được tìm thấy trong Lậu tận kinh số 10, bản kinh nói về sự diệt tận lậu hoặc, nhưng phần đầu của Lậu tận kinh nói Tỳ-kheo nỗ lực cho đến thân thể, xương máu... khô kiệt cũng không bỏ, thì ở đây không có. Điều này chứng tỏ rằng đoạn này có thể đã được thêm về sau, như bản kinh Pàli cho thấy rõ.

III. Sự tu tập và chứng đắc của Tỳ-kheo:

C: Khi ấy các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, đã khéo thâu nhận và khéo an trú. Rồi họ đứng lên khỏi chỗ ngồi, cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật, đi nhiễu quanh Ngài ba vòng rồi ra đi. Những Tỳ-kheo sau khi nhận chỉ giáo này của đức Phật, đã sống độc cư viễn ly, và nỗ lực tu tập thiền định với tâm không xao lãng. Do sống viễn ly độc cư, nỗ lực tu tập thiền định với tâm không xao lãng, bằng tự tri tự ngộ, họ đã đạt đến và an trú trong mục đích tối thượng của đời sống phạm hạnh mà các thiện gia nam tử đã hướng đến, sau khi cạo bỏ râu tóc, đắp cà sa, từ bỏ gia đình sống không gia đình để học pháp. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì cần làm đã làm xong, từ đây không còn sanh tử. Tri kiến này chân thật. Các Tôn giả ấy sau khi biết pháp, đã đắc quả A-la-hán.

P: Không có. Ở đây bản P lập lại lời khuyên của đức Phật ở đầu kinh.

E. Phần kết

Như thông thường trong cả hai kinh.

NC6

C93: Thủy tịnh Phạm chí kinh
P7:Kinh ví dụ tấm vải

A. Toát yếu kinh C

Phật kể ra 21 loại cấu uế và so sánh một tâm cấu uế giống như một tấm vải dơ, còn tâm không cấu uế như tấm vải sạch. Rồi Ngài chỉ ra cách diệt trừ các cấu uế và giải thích sự tu tập bốn phạm trú. Sau đó Phật chỉ cho Bà-la-môn Thủy Tịnh thấy rõ sự vô ích của việc tắm sông để rửa tội lỗi, tưởng đấy là nước thánh; và hiển thị rằng chỉ nhờ làm các hành vi công đức mà các ác nghiệp có thể được nhổ tận gốc.

P: Gần giống. Ở đây Phật đưa ví dụ tấm vải ra trước rồi mới kể ra 16 loại cấu uế.

B. Nhan đề

C: Thủy tịnh Phạm chí kinh,bản kinh nói về Bà-la-môn Thủy Tịnh, giảng cho Bà-la-môn này.

P: Kinh Ví dụ tấm vải, nói đến ví dụ mà Phật xử dụng trong bản kinh.

C. Địa điểm thuyết kinh

C: Uruvelà, bên bờ sông Ni Liên, dưới cây Ni câu luật.

P: Xá Vệ, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên.

D. Nội dung kinh

I. Hoàn cảnh đưa đến sự thuyết kinh:

C: Một thời đức Thế Tôn du hành ở Uruvelà bên bờ sông Ni Liên, dưới cây Ni câu luật, nơi Ngài vừa đạt giác ngộ. Lúc bấy giờ một Bà-la-môn tên Thủy Tịnh vào buổi chiều đang đi lang thang; ông đến nơi đức Phật ... đức Thế Tôn nhân Bà-la-môn Thủy Tịnh đã dạy các Tỳ-kheo.

P: Không có hoàn cảnh đặc biệt. Đức Phật chỉ gọi các Tỳ-kheo đến và giảng kinh này.

Nhận xét:bản C nói: "khi đức Phật vừa mới đạt giác ngộ". Ta không biết kinh này được giảng trước khi Ngài đến Ba La Nại, hay sau khi Ngài giảng bài pháp đầu tiên, khi Ngài trở lại Uruvelà để cải hóa ba anh em Ca Diếp.

Thủy Tịnh Bà-la-môn có lẽ nên hiểu là một Bà-la-môn thường thực hành nghi lễ tẩy tội bằng cách tắm trong nước sông thiêng.

II. Kể ra những cấu uế:

C: Có những người mà tâm bị ô nhiễm vì 21 cấu uế. Họ chắc chắn sẽ đi đến những cõi xấu và tái sinh vào địa ngục. 21 cấu uế là những gì? 1. Tà kiến là một cấu uế của tâm, 2. Ham muốn đối với tà pháp, 3. Ác dục, 4. Tà pháp, 5. Tham, 6. Sân, 7. Hôn trầm, biếng nhác, 8. Dao động, hối hận, 9. Nghi ngờ không tin, 10. Ác ý, tâm trói buộc, 11. Bất ngữ kiết tâm uế (?), 12. Hà tiện, 13. Ganh tị, 14. Lừa dối, gian lận, 15. Nịnh hót, 16. Vô tàm, 17. Vô quý, 18. Mạn, 19. Quá mạn, 20. Kiêu căng, 21. Phóng dật là một cấu uế của tâm. Nếu người ta có 21 cấu uế này làm ô nhiễm tâm, chắc chắn họ sẽ đi đến cõi xấu và sinh vào địa ngục.

P: Chỉ kể 16 cấu uế như sau: 1. Tham, 2. Ác dục, sân, 3. Hại, 4. Não hại, 5. Giả dối, hạ giá trị người khác, 6. Khinh bỉ, 7. Ganh tị, 8. Hà tiện, 9. Lừa dối, 10. Gian lận, 11. Ngoan cố, 12. Cấp tháo, 13. Mạn, 14. Quá mạn, 15. Kiêu căng, 16. Phóng dật.

Nhận xét:Nếu so sánh danh sách này với danh sách trong bản kinh C: Cầu pháp kinhvà kinh P: Thừa tự pháp,chúng ta nhận thấy rằng hai danh sách của bản C không giống nhau (số lượng khác, thứ tự khác...) trong khi hai kinh bản P có danh sách giống nhau ngoại trừ ở đây cấu uế đầu tiên là abhijjhàvisamalobho, còn ở kinh kia là lobho. Như vậy người biên tập kinh P dường như có hệ thống hơn, trung thực và nhất quán trong khi kết tập.

III. Ví dụ tấm vải:

1. Vải dơ:

C: Như một tấm vải dơ được đem đến người thợ nhuộm. Thợ nhuộm dùng tro sạch hay đậu dùng để rửa, hay đất để rửa nó cho thật sạch. Mặc dù tấm vải dơ ấy được thợ nhuộm giặt sạch như vậy, tấm vải dơ ấy vẫn còn mang màu dơ uế trước kia.

P: Bản P không nói người thợ nhuộm giặt sạch tấm vải với các vật liệu khác nhau mà chỉ nói thợ nhuộm nhúng tấm vải dơ vào thuốc nhuộm màu xanh, vàng, đỏ, tím. Nhưng tấm vải không ăn màu bởi vì nó đã dơ.

2. Vải sạch:

C: Bản C nói đến trường hợp những người tâm không bị ô nhiễm bởi 21 cấu uế. Nó ngược lại với trường hợp những người tâm bị ô nhiễm vì 21 cấu uế, với những thay đổi thích nghi. Rồi nó kể ra ví dụ một tấm vải sạch). Giống như một tấm vải trắng, sạch, dệt ở Ba La Nại, được đem đến một người thợ nhuộm. Thợ nhuộm ấy sử dụng tro sạch, hay đậu dùng để rửa, hay đất để rửa nó thật sạch. Như vậy tấm vải Ba La Nại trắng sạch ấy đã sạch càng sạch hơn.

P: Cũng những dị biệt như đã thấy trong ví dụ trước.

IV. Sự diệt trừ cấu uế và những lợi ích:

1. Biết rõ cấu uế và diệt trừ chúng:

C: Nếu vị ấy biết tà kiến là một cấu uế của tâm, sau khi biết như vậy, vị ấy diệt trừ tà kiến. (Cũng vậy với 20 cấu uế còn lại).

P: Cũng vậy, chỉ có những dị biệt về các cấu uế như đã nhận xét trước đây.

2. Lòng tin đối với Tam bảo:

P: Cùng với sự diệt trừ cấu uế, phát triển được đức tin Tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Ở đây kể ra tất cả đức tính của Tam bảo theo công thức thông thường.

C: Không có.

3. Lợi ích của đức tin Tam bảo:

P: Với lòng tin Tam bảo, vị Tỳ-kheo có được lợi ích của nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, được hỷ, khinh an, lạc, nhất tâm. (Trí biết mục đích, trí biết pháp, hân hoan, hỷ, khinh an, lạc, định).

C: Không có.

4. Những lợi ích do có được hạnh như vậy, công đức như vậy:

P: Một Tỳ-kheo có được giới như vậy, công đức như vậy, trí như vậy, thì dù có ăn thực phẩm béo bổ cũng sẽ không vì thế mà bị ảnh hưởng xấu, giống như một tấm vải dơ bỏ vào nước sạch sẽ sạch, như vàng bỏ vào lò nấu sẽ thành thuần tịnh.

C: Không có.

5. Tu tập phạm trú:

C: Vị ấy an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, bốn phương trung gian, trên, dưới, cùng khắp, tất cả, với tâm câu hữu với từ không có trói buộc, không hận, không sân, không tranh chấp, vô cùng rộng lớn, quảng đại, vô lượng, biến mãn khắp thế gian, vị ấy khéo tu tập và khéo an trú. Cũng vậy với tâm bi, hỷ và xả... (như trên).

P: Gần giống C: bốn phương trung gian=P: bề ngang; C: không trói buộc, không thù hận, không ghét, không tranh chấp=P: không hận, không sân; C: vô cùng rộng lớn, quảng đại vô lượng=P: vipulena, mahaggatena appamànena (gần giống, chỉ bỏ chữ "vô cùng"); C: vị ấy khéo tu tập=P: không có.

6. Sự đắc quả A-la-hán:

P: Bản Pàli còn thêm sự chứng đắc quả A-la-hán với sự hiểu rõ quả A-la-hán, hiểu rõ về idam(quả A-la-hán), hìnam(hạ liệt, các cấu uế), và panìtam(thù thắng,tức các phương tiện để từ bỏ cấu uế). Một tri kiến như vậy đưa đến sự diệt trừ ba lậu hoặc, sự phá hủy sinh, sự lập thành phạm hạnh, sự viên mãn bổn phận và sự hủy bỏ tái sinh.

C: Không có.

Nhận xét:Đoạn này không có trong bản C chỉ gồm một câu kết thúc đoạn này và mở ra đoạn kế tiếp. Câu ấy như sau: "Đây gọi là rửa sạch nội tâm chứ không phải ngoại thể".Bản P viết : "Đây gọi là một Tỳ-kheo đã tắm rửa với sự tắm rửa nội tâm". Trong đoạn này, lòng tin Tam bảomà C không có, có thể là một đoạn chen thêm về sau trong bản P.

V. Bà-la-môn Thủy Tịnh xen vào và sự quy y của ông:

1. Bà-la-môn Thủy Tịnh xen vào:

C: Lúc bấy giờ Bà-la-môn thưa đức Thế Tôn: "Thưa Cồ Đàm, xin Ngài hãy đi tắm ở sông Đa Thủy." Đức Thế Tôn hỏi: "Đi tắm sông Đa Thủy có được cái gì?". Bà-la-môn trả lời: "Thưa Cồ Đàm, sông Đa Thủy ấy được nhiều người xem là có tính chất làm sạch, tịnh hóa, giải thoát, và đem lại công đức. Nếu người nào tắm trong sông Đa Thủy, sông ấy sẽ tịnh hóa và tẩy sạch tất cả xấu ác."

P: Ở đây Bà-la-môn có tên là Sundarikabhàradvàja. Khả năng được gán cho sông Đa Thủy như sau: là một phương tiện để giải thoát, để có công đức, và tẩy trừ tội lỗi. Chỉ đến đây bản P mới đề cập sự hiện diện của Bà-la-môn, trong khi bản C ngay từ đầu bản kinh đã nói đến Bà-la-môn ấy.

2. Phật trả lời:

(Xem Chương Bảy, Kệ tụng).

(Văn xuôi tiếp tục như sau): "Bạch Thế Tôn, con đã hiểu, bạch Thiện thệ, con đã hiểu, nay con xin quy y Phật, Pháp và Tăng, mong đức Thế Tôn nhận con làm một cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng."

P: Không giống hẳn. Ở đây Bà-la-môn Sundarikabhàradvàjasau khi nghe Phật giảng, thốt lên lời ca tụng như thường lệ, rồi công bố xin quy y Tam bảo và xin được xuất gia làm Tỳ-kheo và được thọ đại giới. Khi Phật cho ông tất cả điều này, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đắc quả A-la-hán.

Nhận xét:Ở đây tính vừa phải trong sự chuyển hóa của Bà-la-môn trong bản C rất có ý nghĩa. Có lẽ điều này gần với sự thật, khi nó kể lại hình thức quy y đơn giản dưới thời đức Phật. Chúng ta cũng nhận thấy rằng theo bản C, sự cố này xảy ra khi đức Phật vừa mới đạt giác ngộ; bởi thế sự dè dặt trong bản C là có lý.

E. Phần kết

Kinh P không có phần kết, chấm dứt với Bà-la-môn Sundarikabhàradvàjađắc quả A-la-hán, trong khi bản C thì có phần kết như thường lệ.

CHƯƠNG III : VAI TRÒ CÁC NHÂN VẬT TRONG KINH
- NHỮNG CÁCH THUYẾT PHÁP

Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu so sánh 98 kinh, đề cập vai trò của các nhân vật khác nhau trong những kinh này cũng như những cách thuyết pháp. Ở đây chúng ta chỉ giới hạn việc nghiên cứu vào thái độ, oai nghi cử chỉ của những nhân vật trong kinh, còn giáo lý trong đó sẽ được đề cập rộng rãi trong những chương kế tiếp.
Các kinh có thể phân loại thành tám cách thuyết:
1- Phật thuyết pháp không có lý do nào rõ rệt;
2- Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến của đệ tử hay người khác;
3- Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn;
4- Phật thuyết pháp để đối đáp với những tông phái phi Phật giáo;
5- Phật thuyết pháp cho những Tỳ-kheo đệ tử;
6- Phật thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ của Ngài hoặc cho những người khác;
7- Những đệ tử của Phật tụ họp để bàn luận Phật pháp;
8- Một trong những đệ tử của Phật giảng toàn thể kinh.

1. Đức Phật thuyết pháp không có lý do rõ rệt:

Đôi khi đức Phật gọi các Tỳ-kheo đến rồi giảng pháp không có lý do rõ rệt cũng không do một cơ hội đặc biệt nào. Ở đây những người nghe phần lớn là Tỳ-kheo, tên của họ không được kể ra. Trong số 98 kinh NC, có 22 kinh được xếp vào loại này: NC 1, 2, 8, 9, 13, 14, 16, 17, 21, 28, 29, 32, 33, 34, 70, 71, 73, 75, 84, 85, 91, 93.

2. Đức Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến nơi những đệ tử hoặc người khác:

Đôi khi một vài đệ tử Phật có tà kiến. Những Tỳ-kheo bạn cố sửa đổi nhưng không thành công, bởi vậy vấn đề được đưa đến trước đức Phật và Ngài triệu tập những người có lỗi để quở trách và nêu lên những lỗi lầm của họ. NC số 19, 27, 35, 47 thuộc về loại này.
Trong NC 27, C201, kinh Trà đế,nói đức Phật hỏi các Tỳ-kheo trước, rồi quở trách Tỳ-kheo Trà Đế (Ch'a-ti), và vị này hối hận. Trong P38, Ái tận đại kinh,Tỳ-kheo Sàti hối hận trước, rồi các Tỳ-kheo khác đáp câu hỏi của Phật. Bản C thêm: "Đức Phật thuyết kinh này xong, ba vạn thế giới chấn động ba lần."

Trong NC 35, một vị Phạm thiên trên cõi trời có tà kiến rằng cõi Phạm thiên là trường cửu. P49 thêm tên của vị Phạm thiên ấy là Baka. Trong C78, Phạm thiên thỉnh Phật, Phật biến mất khỏi Xá Vệ, Shêng-lin, Kei-ku-tu để đi đến cõi Phạm thiên. Trong P49, đức Thế tôn biến mất từ rừng Subhaga tại Ukkatthïà và hiện ra trong cõi Phạm thiên. Bản C nói khi đức Phật nhận ra Ác ma (Màra), thì Ác ma bị thua và biến mất tại chỗ, nhưng bản P ghi rằng Phật nêu lên cho Ác ma thấy rằng có thể Phạm thiên (Brahmà) và quyến thuộc của ông ta ở trong tầm tay của Ác ma, nhưng Phật thì không. Sự đấu phép thần thông của Phật và Ác ma cũng không giống nhau. Trong bản C, Phạm thiên dùng tất cả năng lực thần thông để cố ẩn nấp chỗ này chỗ kia nhưng đức Thế tôn đều thấy được ông ta, bởi thế ông không thể trốn mà phải trở lại trong Phạm thiên giới. Trong bản P, Phạm thiên Baka không thể biến mất trước mặt đức Phật. Trong bản C, Phật phóng hào quang chiếu khắp các Phạm thiên giới, và ẩn trong đó, làm cho Phạm thiên và quyến thuộc chỉ có thể nghe Ngài nói mà không thể trông thấy Ngài. Trong bản P, khi đức Phật biến mất, Ngài làm cho Phạm thiên, tùy tùng (Brahmaparisà) và quyến thuộc (Brahmapàrisajja) không trông thấy Ngài mà chỉ nghe Ngài nói bài kệ:

"Bị vướng vào hữu, ta đi tìm phi hữu.
Vì đã thấy nguy hiểm của hữu,
Ta không thích thú đối với hữu,
Và không dục hỷ trong đó."

Phạm thiên, tùy tùng và quyến thuộc của Phạm thiên sửng sốt kinh ngạc.

3. Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn:

Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn lời Phật trong NC số 3, 95; Tôn giả Ca-chiên-diên (C:Chia-chan-yen; P: Mahàkaccàna) trong NC 15, 87, 92.
a) Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn:

Trong NC 3, C88, Cầu Pháp kinh,nói có nhiều đại đệ tử cư trú gần am tranh của Phật, như Tôn giả Xá-lợi-tử, Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Lệ Việt (Li-yueh), A Nan, nhưng P3, Thừa tự Pháp,bỏ mục này. Trong bản C, đức Thế tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-tử hãy giảng rộng lời Ngài dạy vì đức Phật đau lưng cần nghỉ ngơi chút đỉnh. Đoạn Ngài gấp tư y Uất đa la tăng (C: Yu-to-lo-sêng; P: Uttarà-sanga) mà trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (C: Sêng-chia-li; P: Sanghàti) làm thành một cái gối và nằm xuống hông bên phải, hai ống chân xếp chồng lên nhau, thiền định về quang tướng với chánh niệm tỉnh giác và luôn luôn nghỉ đến lúc thức dậy (69). Nhưng bản P chỉ nói rằng bậc Thiện thệ (Sugata) từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Trong bản C, Thượng tọa Xá-lợi-tử yêu cầu các Tỳ-kheo giải thích lời dạy vắn tắt của Phật, và hai Tỳ-kheo cố trả lời nhưng không thỏa đáng. Trong bản P, không có lời vắn tắt của Phật và sự trả lời của các Tỳ-kheo, mặc dù Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đặt câu hỏi ấy. Sau khi Tôn giả Xá-lợi-tử giải thích xong, đức Thế tôn đã bớt đau lưng, cảm thấy dễ chịu, bèn ngồi dậy khoanh chân kiết già và ca ngợi Tôn giả Xá-lợi-tử. Những chi tiết này không có trong bản P.

Trong NC số 95, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử đọc một bài kệ tóm tắt bài giảng của Ngài, còn bản P bỏ bài kệ nhưng lập lại lời công bố của sự chuyển Pháp luân tại Ba La Nại, Chư thiên đọa xứ, vườn Nai, lúc mở đầu kinh.

b) Tôn giả Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) khai diễn:

Trong NC 15, đức Phật gặp một người gậy cầm tay tên Sakya muốn hỏi mục đích của giáo lý Ngài. Sự trả lời của đức Phật không làm ông ta thỏa mãn, ông ta không chấp thuận cũng không bác bỏ, đã cất cao đầu và bỏ đi. Trong bản P, bỏ câu "không chấp thuận không bác bỏ", nhưng thêm rằng "ông ta thụt lưỡi, nhíu mày tạo nên ba đường nhăn và tựa mình trên cây gậy". Trong bản C, chính đức Phật đưa ra ví dụ viên mật trong khi bản C lại nói là Tôn giả A Nan. Bản P bỏ chỗ nói Tôn giả A Nan đứng sau lưng đức Phật tay cầm phất trần. Bản P cũng bỏ lời đức Phật khích lệ các Tỳ-kheo ở cuối kinh.

Trong NC 87, Tôn giả San-mi-t'i(Samiddhi) đi đến suối nóng để tắm, khi tắm xong, ông ta gặp một vị tiên có dung sắc hoan hỷ đến đảnh lễ ngài và hỏi ngài có biết bài kệ Nhất dạ hiền giả (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta). Vị Tỳ-kheo nói không biết, vị tiên bảo rằng đức Thế tôn có biết bài kệ rồi khuyên Tỳ-kheo nên đi đến xin Thế Tôn giải thích. Rồi vị tiên đảnh lễ vị Tỳ-kheo, đi quanh ông ba vòng rồi biến mất. Bản Pali thêm rằng vị tiên chiếu sáng cả Tapodà với hào quang rực rở của mình nhưng bỏ qua chyện hỏi vị tỷ kheo về câu kệ và lời khuyên của vị tiên đi đến Thế Tôn. Bàn Pali chỉ đề cập rằng vị tiên khuyên vị tỷ-kheo nên học, tinh thông và ghi nhớ câu kệ đó ở trong lòng. Rồi vị tiên biến mất mà không có đảnh lễ và đi quanh vị tỷ-kheo ba vòng. Bản C nói tên của vị trời này là Chêng-tien, một vị binh tướng trong cõi trời 33, nhưng bản P bỏ chi tiết ấy.

4. Đức Phật thuyết pháp để đối phó các tông phái ngoại đạo :

Trong NC 39 và NC 65, đức Phật bác bỏ quan điểm của Ni Kiền Tử (Jainas); trong NC 6 và NC 61, 62, 64, Ngài bác bỏ lý thuyết và thực hành của những người bà la môn; và trong NC 10, 48, 50, 51, 52, Ngài đối phó với những du sĩ (paribbàjakas).
a) Đối phó với Ni Kiền Tử :

Trong NC 39, Ch'ang-k'u-hsing (Dìghatapassi), Ni Kiền Tử bện tóc có một cuộc đàm luận với Phật, trong đó ông ta trình bày lý thuyết của Ni Kiền Tử (Ch'in-tzu) về hình phạt và vai trò chính yếu của thân phạt trong bất cứ hành vi tội lỗi nào. Nhưng đức Phật trình bày lý thuyết của Ngài về nghiệp và vai trò chính yếu của ý nghiệp trong bất cứ tà hạnh nào. Ni Kiền Tử bện tóc thuật lại cuộc đàm thoại ấy cho thầy của mình (Ch'in-tzu) trước mặt Ưu Ba Ly (Yu-p'o-li). Trong khi ở bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) lặp lại lời ca tụng của Ni Kiền Tử (Nàtaputta) tán dương Bện tóc (Dìgha-tapassi) và tỏ ý sẵn sàng đến đối chất với đức Phật, bản C thêm rằng Ưu ba ly cùng đi với 500 cư sĩ trong hội chúng. Ông ta chắp tay hướng về Ni Kiền Tử và hỏi Bện tóc có phải ông ta đã thực sự hạ Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) ba lần trong vấn đề này. Khi Bện tóc trả lời phải, Ưu Ba Ly nói : vậy thì ông ta cũng có thể đánh bại Sa-môn Cồ Đàm trong vấn đề này và kéo ông ta xuống. Khi ấy Ưu Ba Ly đến thách thức đức Phật, trước sự chấp thuận của vị thầy Ni Kiền Tử và trước sự sợ hãi, bất đồng của Bện tóc. Đức Phật với bốn ví dụ đã làm cho Ưu Ba Ly đổi ý và theo quan điểm của Ngài. Trong ví dụ thứ tư, khi đức Phật hỏi ai đã khiến cho những nơi thanh tịnh này trở thành thanh tịnh, theo bản C, Ưu Ba Ly im lặng một lát, và khi đức Phật hỏi lại một lần nữa, ông ta đã trả lời rằng, không phải ông muốn giữ im lặng, mà chính ông đang nghĩ đến một điều. Ông nghĩ rằng Ni Kiền Tử (Ni-chien) thật điên rồ, ngu si và đã lừa bịp ông ta trong một thời gian dài. Trong bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) trả lời ngay rằng những khu rừng này Kandaka, Kàlinga, Mejjha Màtanga trở thành rừng là do những ý tưởng sân hận của những vị trông coi những khu rừng đó. Ở cuối bài kinh, bản C thêm rằng Ưu Ba Ly đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu, còn Ni Kiền Tử hộc máu tươi, phải đi đến Po-ho (Pàvà) và bệnh chết ở đấy. Bản P bỏ chi tiết về cái chết của Ni Kiền Tử và chỉ nói ông ta hộc ra máu tươi.

b) Đối phó với cách tu và quan điểm của các bà la môn :

Trong NC 6, đức Phật bác bỏ tập tục tắm nước thiêng của những người bà la môn, được xem là để rửa sạch tội lỗi. Kinh C93,Thủy tịnh Phạm chí,nhắc đến bà la môn Thủy Tịnh (Shui-ching) ngay ở đầu kinh, trong khi P7, Ví dụ tấm vải,chỉ nói đến sự hiện diện của bà la môn Sundarika-bhàradvàja vào cuối bản kinh. Trong bản C, vị bà la môn ấy xin quy y Tam bảo và xin Phật nhận ông làm đệ tử. Nhưng trong bản P, Sundarika Bhàradvàja xin đức Phật cho ông được xuất gia và thọ đại giới. Khi lời yêu cầu của ông được chấp thuận, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đã đắc quả A-la-hán.

Trong NC 61, kinh C151, Phạm chí A nhiếp hòa,nói rằng một số đông bà la môn tại Chu-sa-lo (Kosala) tụ tập trong giảng đường và đang bàn bạc lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) về sự thanh tịnh của bốn giai cấp, trong khi họ tuyên bố rằng chỉ có giai cấp bà la môn là cao nhất và thanh tịnh nhất. Họ chọn thanh niên bà la môn tên A Nhiếp Hòa (A-shê-ho-lo-yen-to) đến chất vấn đức Phật. Nhưng kinh P93, Assalàyana,nói rằng 500 bà la môn thuộc nhiều vùng khác nhau đến Xá Vệ vì một vài công việc, và họ chỉ nhắc đến lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Có thêm rằng thanh niên Assalàyanamới 16 tuổi, đầu tóc cạo. Trong bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa nhận lời bằng cách im lặng, trong khi ở bản P, Assalàyana nói rằng quả thật Sa-môn Gotama nói phù hợp với pháp (dhamma), và thật khó mà tranh luận với người nào nói đúng pháp, và anh ta cũng không thể tranh luận với Sa-môn Gotama. Tuy thế anh ta cũng sẽ ra đi như được yêu cầu. Sau khi nghe những luận cứ của đức Phật, theo bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa muốn đảnh lễ Phật nhưng hội chúng la lớn tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục. Đức Phật biết tâm họ nên bảo thanh niên hãy trở về chỗ ngồi, dạy rằng chỉ cần tâm anh ta vui mừng là đủ. Rồi đức Phật giảng pháp làm cho anh ta hoan hỷ, thích thú, phấn chấn. Bản P chỉ nói rằng Assalàyana thốt lên rằng thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, rồi xin đức Phật nhận mình làm đệ tử từ nay cho đến trọn đời.

Trong NC 64, kinh P 99, Subha,có thêm một cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì, bà la môn hỏi Subha từ đâu đến và hỏi về trí tuệ của Sa-môn Gotama. Sự trả lời và những lời ca tụng của Subha đã khiến bà la môn xuống khỏi chiếc xe bạch mã, trật vai áo, chắp tay hướng về đức Thế tôn và bảo rằng thật là lợi ích lớn, thật là tốt cho vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) xứ Kosala vì có Như lai (Tathàgata) sống trong vương quốc của nhà vua. Bản C bỏ cuộc gặp gỡ này.

c) Đối phó với các ngoại đạo khác :

Trong NC 10, theo kinh C 99, Khổ ấm, các Tỳ-kheo sau khi ngọ trai xong đã tụ họp tại giảng đường vì một vài công việc. Tại đây có một số lớn tín đồ ngoại đạo đến chất vấn họ. Trong kinh P13, Đại khổ uẩn, thì các Tỳ-kheo khi vào thành Xá Vệ (Sàvatthi) khất thực, thấy hãy còn sớm nên đến trú xứ của các du sĩ (paribbàjakas), và cuộc đàm luận đã xảy ra.

Trong NC48, Hsu-hsien-t'i(du sĩ Màgandiya) trông thấy đệm cỏ của Phật ngồi trong nhà bà la môn P'o-lo-p'o (Bhàradvàjagotta) thì rất khó chịu và lên án đức Phật là một người phá hoại (Huai-pai-ti: )(70) . Bà la môn Bà La Bà (P'o-lo-p'o) cảnh cáo du sĩ Hsu-hsien-t'ođừng có nói xấu đức Phật, nhưng du sĩ nói rằng ông cũng sẽ nói như vậy ngay trước mặt Sa-môn Cồ Đàm. Trong kinh C 153,Man nhàn đề, đức Phật lúc ấy đang ngồi thiền trong một ngôi rừng xa; với thiên nhĩ, Ngài nghe được lời ấy nên đi đến nhà Bà la môn Bà-la-bà kia trải tọa cụ ngồi kiết già. Khi bà la môn ra chào, đức Phật hỏi có phải thật ông ta có đàm thoại với du sĩ về đệm cỏ của Ngài không. Bà la môn nói ông muốn báo cho Phật biết nhưng Phật đã biết trước rồi. Ngay lúc ấy du sĩ đến, và cuộc đàm luận xảy ra. Bản P bỏ tất cả chi tiết Phật mang theo tọa cụ và trải ngồi, đẹp đẽ và rực rỡ như trăng sao; nhưng thêm rằng du sĩ Bhàradvàjagotta bị dao động lông tóc dựng ngược khi nghe nói đức Phật đã biết được tư tưởng của mình. Trong bản C, sau khi đức Phật giảng pháp, du sĩ đạt được Pháp nhãn ly trần vô cấu. Rồi ông ta xin Phật cho phép xuất gia học đạo và thọ giới Tỳ-kheo. Rồi đức Phật truyền giới cho ông ta, nói rằng: "Lành thay, Tỷ kheo, hãy sống đời sống phạm hạnh." Sau khi xuất gia làm tỷ-kheo, Hsu-hsien-t'i đắc quả A-la-hán. Bản P bỏ chi tiết du sĩ Màgandiya được Pháp nhãn; nhưng thêm sự tán thán của Màgandiya như thường lệ và xin quy y Tam bảo của ông ta. Ở đây cũng vậy, Màgandiya xin đức Phật cho ông ta thọ giới Tỳ-kheo. Phật bảo những người thuộc giáo phái khác cần trải qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết rõ sự khác nhau giữa những con người, và Ngài đã cho phép Màgandiyaxuất gia làm Tỳ-kheo. Bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn, và kết luận rằng Trưởng lão Màgandiya trở thành một vị A-la-hán nữa.

Trong NC số 52, Bệ Ma Na Tu (C: Pei-mo-na-hsiu; P: Vekhanassa) nói với đức Phật về dung sắc "vanna" tối thượng. (Danh từ Pàli vanna,dịch là dung sắc, được sử dụng ở đây với hai nghĩa, màu sắc và giai cấp xã hội, nhưng danh từ dung sắc trong Hoa ngữ thì rõ ràng không có hai nghĩa như thế). Nhưng đức Phật nêu lên sự trống rỗng của một quan điểm như vậy. Bản C thêm một đoạn trong đó Bệ Ma Na Tu tỏ thái độ hối hận im lặng hổ thẹn cúi đầu. Khi Bệ Ma Na Tu ca tụng sự giải thích của Phật, Phật ngăn ông lại, bảo rằng vì thuộc vào một quan điểm khác, ông ta không thể hiểu được lời giảng dạy của Ngài, Bệ Ma Na Tu phẫn nộ mạ lỵ đức Phật. Kinh Pali Vekhanassacũng tương tự nhưng bỏ chi tiết Phật ngăn lại. Rồi Phật dùng ba ví dụ (bản P chỉ có một) làm sáng tỏ giáo lý của Ngài và cuối cùng cảm hóa được Bệ Ma Na Tu. Ở đây bản C nói Bệ Ma Na Tu đắc Pháp nhãn vô cấu và xin Phật xuất gia. Sau khi xuất gia, ông nỗ lực tinh tiến và đắc quả A-la-hán. Trong bản P, Vekhanassa tán thán sự giảng dạy của Phật như thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia.

5. Phật thuyết pháp cho đệ tử:

Có 28 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho một Tỳ-kheo, NC 5;
- Cho một số Tỳ-kheo, NC 22,74;
- Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula), NC 40;
- Cho Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta), NC 41,42;
- Cho A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anurudha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya), Kim Tỳ La (C: Chin-p'i-lo; P: Kimbila), NC 25,45,83;
- Cho Ma-ha-nam (Mahànàma), NC 11;
- Cho Mou-li-p'o-ch'un-na(Moliyaphagguna), NC 18;
- Cho Bạt-đà-hòa-lợi (C: Po-t'o-ho-li; P: Bhaddàli), NC 43;
- Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì), NC 44;
- Cho A Nan, NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98;
- Cho A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chouna; P: Cunda), NC 66;
- Cho A Nan và nhiều Tỳ-kheo, NC 77;
- Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla), NC 54;
- Cho Fou-mi(Bhùmija), NC 81;
- Cho Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya), NC 88;
- Cho San-mi-t'i (Samiddhi), NC 90;
- Cho Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti), NC 94;
- Cho Đại Chu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda), NC 7;
- Cho chú tiểu A-i-na-ho-t'i(Aciravata), NC 80.

a) Cho một vị Tỳ-kheo:

Trong NC 5, (P6,kinh Ước nguyện = C 105,kinh Nguyện) có một Tỳ-kheo trong lúc ngồi nơi vắng vẻ, đã tư duy về lợi ích lớn của Phật đối với mình, đã rời chỗ ngồi đứng lên đi đến nơi Phật. Đức Thế tôn sau khi trông thấy Tỳ-kheo này, đã nhân vì ông mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo. Bản P bỏ hoàn cảnh đặc biệt này. Phật thuyết pháp không có một dẫn nhập nào cả.

b) Cho một số Tỳ-kheo:

Trong NC 22 (P26, Thánh cầu = C204,La ma) , Phật đang ở Lộc Mẫu giảng đường (Lu-tzu-mu). Vào buổi chiều, Ngài rời khỏi tòa ngồi đứng lên, từ trên lầu đi xuống và bảo Trưởng lão A Nan cùng đi tắm ở sông A-i-lo-p'o-t'i (Aciravati). Rồi Trưởng lão A-nan cầm chìa khóa đi đến các Tỳ-kheo đang ở trong những chòi của họ và bảo họ đi đến nhà bà la môn La Ma (C: Lo-mo; P: Rammaka). Khi ấy đức Phật và Trưởng lão A Nan xuống sông tắm. Sau khi tắm xong, Phật lên khỏi nước, lau khô thân thể và mặc y. Bản P khởi đầu với đức Phật ở tại Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Rồi đức Phật đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Nhiều Tỳ-kheo đi đến Tôn giả A Nan, thưa rằng họ muốn được trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, vì đã lâu họ không có được cơ hội ấy. Tôn giả A Nan bảo họ đi đến nhà bà la môn Rammaka. Khi Phật khất thực về và dùng bữa xong, Ngài cùng Trưởng lão A Nan đi đến Pubbàràma ở vườn của Lộc Mẫu (Migaàramàtu) để nghỉ ban ngày. Vào buổi chiều Phật ra khỏi độc cư thiền tịnh rồi cùng với Trưởng lão A Nan đi đến Pubbakotthaka để ngâm chân tay. Sau khi tắm rửa, Phật ra khỏi nước, đứng trên bờ với một tấm y (cìvara) độc nhất để phơi tay chân. Rồi theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Phật đi đến nhà Lo-mo (Rammaka) để thuyết pháp.

c) Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula) :

Trong NC 40, C14, La vân kinh, khi đêm đã tàn, vào sáng sớm Phật đi vào thành Vương Xá (Wang-shê) khất thực. Sau khi ăn xong, Ngài đi đến rừng Suối nóng, nơi có Tôn giả La Vân. Tôn giả La Vân trông thấy Phật từ xa đến, đi ra đón Ngài, cầm lấy y bát, trải tọa cụ và lấy nước rửa chân. Đức Phật rửa chân xong, ngồi trên chỗ ngồi của La Vân đã soạn sẵn. Trong P61, Ambalatthikàràhulovàda,đức Phật vào buổi chiều ra khỏi độc cư thiền tịnh, đi đến Ambalatthikà, nơi Tôn giả Ràhula ở. Tôn giả Ràhula, khi thấy đức Phật từ xa đến, đã sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân nhưng không đi ra đón Ngài và đỡ lấy y bát. Đức Phật ngồi trên chỗ đã soạn và rửa chân. Để quở trách Tôn giả La Vân, đức Phật đã chỉ một ít nước còn trong chậu, rồi đổ nó đi, lật úp cái chậu và lật ngửa trở lại, và cứ mỗi lần như thế Ngài răn dạy Tôn giả. Bản P thêm một thái độ thứ năm của đức Phật là chỉ ra sự trống rỗng trong cái chậu lật ngửa và tuyên bố rằng cũng trống rỗng như thế là hạnh Sa-môn của người cố ý nói dối mà không biết hổ thẹn.

d) Cho Tôn giả Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta) : NC 41, NC 42:

Trong NC 42 (P64,Mahàmàlunkya, Đại kinh Màlunkya = C205, Ngũ hạ phần kết), đức Phật quở trách Man-đồng-tử về sự hiểu sai của ông đối với năm kiết sử trói buộc con người vào đọa xứ và Man-đồng-tử tỏ thái độ hối hận. Khi ấy Tôn giả A Nan đang đứng sau đức Phật và quạt cho Ngài, đã yêu cầu đức Phật giải thích năm kiết sử, và đức Phật đã chấp thuận lời yêu cầu của Tôn giả A Nan. Trong bản P, đức Phật không công khai quở trách Màlunkyaputta. Cũng không có thái độ hối hận của Màlukyaputta, không có chi tiết về Tôn giả A Nan đứng sau lưng Phật và quạt cho Ngài.

e) Cho Tôn giả A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya) và Kim Tỳ La (C:Chin-p'i-lo; P: Kimbila): NC 25, 45, 83:

Không có nhiều khác biệt giữa hai bản trong NC 25 (P31, Tiểu kinh rừng Sừng bò=C 185, Ngưu giác sa la lâm kinh) và NC 45 (P68, Nalakapàna = C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh).

Trong NC 83, theo bản C 72,Trường thọ vương bản khởi kinh,muốn giảng hòa các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di (C: Chu-shê-mi; P: Kosambì), Phật đã kể câu chuyện dài về sự tha thứ của vua Phạm chí (C:Fan-mo-ta-to; P: Brahmadatta) cho vua Trường thọ (C: Ch'ang-shou; P: Dìghìti), nhưng câu chuyện này không có ảnh hưởng gì các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di. Khi ấy đức Thế tôn đọc lên một bài kệ cho thấy rõ sự vô vọng, ngu ngốc của gây gỗ và xúc phạm nhau. Kinh P128 không giống. Kinh này cũng nói các Tỳ-kheo ở Kosambì (Câu Xá Di) tranh chấp nhau, đã thương nhau với binh khí miệng lưỡi, nhưng thêm rằng một Tỳ-kheo đến tường thuật sự việc với đức Thế tôn và Ngài đã đến khuyên bảo họ đừng gây nhau. Ba lần đức Phật khuyên bảo, và cả ba lần đều có một Tỳ-kheo yên cầu Ngài đừng can thiệp vì họ sẽ chịu trách nhiệm về cuộc gây gổ này. Ở đây bản P bỏ câu chuyện về vua Phạm chí. Theo bản C, đức Thế tôn, sau khi đọc bài kệ đã vận thần thông bay lên không để đi đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo). Tại đấy có một Tỳ-kheo tên Bà Cửu (C: P'o-chiu; P: Bhagu) đêm ngày chuyên tâm thiền định và Phật đã giảng pháp cho ông. Sau đó Ngài vào rừng Hộ Tự (Hu-szu) ngồi kiết già dưới một gốc cây, tại đó Ngài gặp một con voi chúa cũng đi tìm sự cô tịch để thoát ly những huyên náo của đàn voi. Bản P chỉ nói đức Phật gặp Tỳ-kheo Bhagu, không nói gặp con voi; cũng không có chi tiết đức Phật bay trên không. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

f) Cho Tôn giả Ma-ha-nam (C: Mo-ho-nan; P Mahànàma) :

NC 11: (P14, Tiểu kinh khổ uẩn = C100, Khổ ấm kinh):

Hai bản gần giống nhau.

g) Cho Moliya (C: Mou-li-p'o-ch'un-na; P: Moliyaphagguna):

NC 18: (P21, Ví dụ cái cưa = C193, Mâu lê phá quần na):

Hai bản gần giống nhau.

h) Cho Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi (C: P'o-t'o-ho-li; P: Bhaddàli) :

NC 43: (P 65, Bhaddàli= C 194, Bạt-đà-hòa-lợi) :

Hai bản gần giống nhau.

i) Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì) :

NC 44: (P 66 Ví dụ con chim cáy = C192, Ca lâu ô đà di):

Không có gì khác nhau lắm giữa hai bản kinh. Trong khi bản C nói về một Tỳ-kheo nào đó đi khất thực về đêm, bản P nói rõ chính là Ưu-đà-di.

j) Cho Tôn giả A Nan:

NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98:

Trong NC 53, (P81,Ghatikara= C63,Bệ bà lăng kỳ), NC 67 ( P106, Bất động lợi ích = C75, Tịnh bất động đạo kinh), hai bản gần giống nhau. Trong NC 55, kinh C67,Đại thiên nại lâm, dịch từ Ta-t'iencó nghĩa là "Mahàdeva: Đại-thiên" trong khi P83, kinh Makhàdeva Makhàdeva.

Trong NC 72, (P115,Bahudhàtuka= C181,Đa giới kinh), Tôn giả A Nan trong lúc ngồi thiền đã có được tri kiến rằng tất cả sợ hãi, rối ren, tai nạn, sầu ưu đều do vô minh, không do trí tuệ. Tôn giả trình bày ý tưởng ấy với đức Phật và Ngài đồng ý, đưa ra một định nghĩa về một Tỳ-kheo ngu si và một Tỳ-kheo có trí tuệ. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả A Nan ngồi thiền, thuật ý tưởng của mình cho đức Phật và sự chấp thuận của đức Phật. Ở đây đức Phật gọi các Tỳ-kheo và dạy rằng mọi sợ hãi, rắc rối, tai nạn đến với người ngu, không phải với người trí. Rồi Ngài khuyên các Tỳ-kheo hãy tu tập để trở thành có trí tuệ nhờ trạch pháp. Ở đây bản P thêm Trưởng lão A Nan hỏi đức Phật đến mức nào thì đủ để gọi là một Tỳ-kheo có trí nhờ trạch pháp.

Trong NC 78, (P123, Acchariyabbhutadhamma= C32, Vị tằng hữu pháp), Tôn giả A Nan sau khi ra khỏi thiền định vào buổi chiều đi đến đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên và kể ra những đức tính kỳ diệu của đức Phật. Trong bản P, một số đông Tỳ-kheo sau khi khất thực về ăn xong, tụ họp trong giảng đường và ca tụng đức Như lai (Tathàgata) thật kỳ diệu, có thần thông, biết được chư Phật về trước. Tôn giả A Nan xác nhận lời các Tỳ-kheo nói chư Như lai có nhiều đức tính kỳ diệu. Câu chuyện này được Phật cắt ngang lúc Ngài vừa ra khỏi độc cư thiền tịnh. Ngài hỏi các Tỳ-kheo đang đàm luận về điều gì, họ trình lại với Phật, khi ấy Phật bảo Tôn giả A Nan kể lại những đức tính kỳ diệu của đức Thế tôn.

Trong NC 98, ( P148, Chachakka = C86, kinh Thuyết xứ ), Tôn giả A Nan vào buổi chiều ra khỏi thiền định, đưa các Tỳ-kheo trẻ cùng đi đến đảnh lễ Phật và hỏi đức Thế tôn làm thế nào để dạy dỗ, khích lệ các Tỳ-kheo trẻ. Rồi Đức Phật giảng nhiều pháp môn cho những tỷ kheo trẻ. Bản P hoàn toàn không có chi tiết Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo trẻ, chỉ nói đức Phật cho gọi các Tỳ-kheo rồi giảng pháp.

k) Cho Tôn giả A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chou-na; P: Cunda) :

NC 66: ( P104, kinh Làng Soma= C196,Châu na kinh).

l) Cho Tôn giả A Nan và nhiều Tỳ-kheo:

NC 77: (P122, Mahàsunnatà= C191, Đại không kinh):

Cả hai bản dịch gần giống nhau trong NC 66, 77.

m) Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla) :

NC 54: (P82, Ratthapàla= C132, Lại-tra-hòa-la kinh):

Câu chuyện Lại-tra-hòa-la không giống nhau trong hai bản. Lại-tra-hòa-la nghe đức Phật thuyết pháp, xin xuất gia, đức Phật từ chối vì chưa có phép cha mẹ, cha mẹ không bằng lòng cho xuất gia, Lại-tra-hòa-la tuyệt thực để gây áp lực đối với cha mẹ, cha mẹ nhượng bộ, Lại-tra-hòa-la xuất gia thọ giới và đắc quả A-la-hán, tất cả những chi tiết này đều giống nhau trong hai bản. Khi ấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la vào sáng sớm cầm y bát đi vào làng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) để khất thực, nghĩ đến đức Thế tôn khen ngơi hạnh tuần tự khất thực nên ông đi từng nhà và đến nhà cha, lúc ấy người cha đang tỉa râu tóc, khi trông thấy Tôn giả ông nói: "Bọn Sa-môn trọc đầu này chuyên làm việc hắc ám, không có con, không người kế tự, những kẻ phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con trai yêu quý, nhưng chúng đã đem đi mất và cạo trọc đầu nó, đừng cho Sa-môn này cái gì để ăn cả." Thế là Lại-tra-hòa-la không nhận được một sự bố thí nào từ nhà cha mình, ngoại trừ lời chưởi rủa. Khi ấy một người tớ gái đem ra một rỗ đầy thức ăn thối để đổ vào đống rác. Lại-tra-hòa-la trông thấy cô ta bèn yêu cầu đổ thức ăn ấy vào bát của mình. Khi người tớ gái đem đồ ăn đổ vào bát khất thực, cô nhận ra ngài nhờ giọng nói và chân tay. Cô đi vào báo cho người cha, được tin ông hết sức vui mừng. Tay phải cầm áo, tay trái vuốt râu tóc, ông vội vàng đi đến chỗ Lại-tra-hòa-la đang ngồi tựa vào một bức tường để ăn thức ăn đã thối. Người cha hỏi con trai sao có thể ăn được thức ăn thối ấy khi con ông vốn có thân thể mềm mại và đã quen với mỹ vị cao lương. Ông cũng hỏi con trai sao không đi vào nhà cha mẹ mình. Lại-tra-hòa-la trả lời ông có vào nhà cha mẹ, nhưng không nhận được gì ở đấy, ngoại trừ lời nguyền rủa. Người cha xin lỗi con trai, kính cẩn đưa ông vào nhà, trải chỗ và mời ngồi. Sau đó ông báo tin cho mẹ Lại-tra-hòa-la và bảo bà dọn cơm cho con. Bà vui vẻ đi làm thức ăn. Rồi bà chất một đống lớn những đồng tiền ra giữa sân, lớn đến nỗi một người đứng bên này không trông thấy người đứng bên kia. Rồi bà đi đến Lại-tra-hòa-la mà bảo đống tiền này là của mẹ dành cho ông, còn tiền của cha dành cho ông thì vô số, không thể đếm hàng trăm, hàng ngàn. Tất cả tiền này dành cho ông nếu ông hoàn tục. Lại-tra-hòa-la khuyên mẹ hãy đem tiền ấy đổ xuống sông vì chính do tiền này mà người ta trải qua đau khổ, tuyệt vọng. Khi ấy bà mẹ biết không thể đem tiền mà dụ ông hoàn tục. Rồi bà bảo những người vợ trước kia của ông mặc đồ đẹp và trang sức các chuỗi đeo cổ, đi đến nơi ông, ôm chân ông mà nói: "Hỡi người chồng tệ bạc, có những tiên nữ nào đẹp hơn chúng tôi để cho ông vì họ mà đi tu?" Những bà vợ cũ của Lại-tra-hòa-la theo lời chỉ dẫn của mẹ chồng. Nhưng Lại-tra-hòa-la gọi họ bằng chị và bảo ông xuất gia không phải vì tiên nữ nào hết, chỉ vì để được Phật pháp, và bây giờ mục đích của ông đã thành tựu. Những bà vợ đứng lên khóc lóc bảo rằng họ không phải chị nhưng Lại-tra-hòa-la lại gọi họ bằng chị. Khi ấy Lại-tra-hòa-la yêu cầu cha mẹ dọn đồ ăn ra vì đã đến giờ, chớ có phiền nhiễu ông nữa. Khi ấy cha mẹ ông đứng lên, đưa nước cho ông rửa tay và tự tay mình bồi tiếp những thức ăn mỹ vị. Sau khi ăn xong, Tôn giả Lại-tra-hòa-la giảng pháp cho cha mẹ, làm họ vui mừng hoan hỷ phấn chấn. Rồi ngài đứng lên đọc một bài kệ. Bản P hơi khác. Khi Ratthapàla đi đến Thullakotthita, bản P thêm rằng ông ở lại trong vườn nai của vua Kuru. Trong khi đi khất thực, Ratthapàla đi từng nhà, nhưng bản P bỏ chi tiết ông nghĩ đến đức Phật thường khen ngợi sự tuần tự khất thực. Khi Ratthapàla vào nhà cha mẹ, người cha đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa. Trong bản C, người cha mắng các Tỳ-kheo là bọn chuyên làm việc đen tối, không con cái, không kế tự, phá hoại gia đình mình. Bản P chỉ nói ông ta bảo đứa con trai yêu quý độc nhất đã bỏ nhà đi tu vì những Sa-môn trọc đầu này, và thế là Trưởng lão Ratthapàla tại nhà cha mẹ đã không nhận được của bố thí cũng không nhận được lời từ chối mà nhận được lời nguyền rủa. Ở đây thức ăn người nữ tỳ đem đổ là đồ ăn thừa của ngày hôm trước. Trong khi bản C nói người tớ gái đi vào báo thẳng với người cha, bản P nói nàng báo tin trước cho người mẹ và bà này kể lại với chồng. Bản P thêm rằng bà mẹ của Ratthapàla khi được tin ông trở về đã nói với người tớ gái rằng nếu tin này là đúng thì cô ta sẽ thoát vòng nô lệ. Bản P không nói đến thái độ của người cha vui mừng trước tin tức ấy. Khi người cha của Ratthapàla trông thấy con trai mình tựa lưng vào bức tường để ăn đồ ăn còn thừa ngày trước, ông đã hỏi : "Có thật là con đang ăn đồ thừa đấy không? Con hãy nên đi vào nhà của con." Và Ratthapàla đã trả lời rằng ông không có nhà vì đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình. Ông đã đi đến nhà gia chủ nhưng không nhận được bố thí hay sự từ chối mà nhận được sự nguyền rủa. Khi ấy người cha mời ông vào nhà nhưng Ratthapàla từ chối, nói rằng đã ăn xong. Khi ấy người cha mời ông đến để ăn bữa trưa ngày hôm sau, và ông đã im lặng nhận lời. Trong bản C, chính bà mẹ đã chất tiền thành từng đống và bảo các bà vợ cũ của ông trang sức. Trong bản P, người cha làm những việc ấy. Trong bản C, người mẹ đem tiền ra dụ rồi đến các bà vợ; nhưng trong bản P, người cha sử dụng cả hai phương pháp cùng một lúc. Trước hết ông chất một đống lớn tiền vàng và che khuất nó sau một bình phong. Rồi ông bảo các bà vợ trước của Ratthapàlatrang sức đẹp đẽ. Khi thức ăn đã sẵn sàng, ông cho mời Tôn giả và khi Ratthapàla ngồi xuống, ông mở cho thấy đống tiền vàng và bảo Ratthapàlarằng một đống của mẹ, một đống của cha, một đống của ông nội. Chàng có thể thừa hưởng của cải và thực hành những việc phước. Bởi thế ông yêu cầu con trai hãy từ bỏ đời sống phạm hạnh, trở về đời sống thế tục, hưởng thụ của cải và hành thiện. Sự trả lời của Ratthapàla, vai trò các bà vợ cũ cũng gần như trong bản C, ngoại trừ trong bản P, các bà vợ té xỉu xuống đất khi nghe Ratthapàla gọi họ bằng chị. Bản P bỏ chi tiết Ratthapàla giảng pháp cho cha mẹ. Theo bản C, Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) ngang qua hư không, đi vào rừng ngồi trên tọa cụ. Lúc ấy vua Câu Lao Bà (Chu-lao-p'o) ngồi với đình thần trong cung, đang ca tụng Lại-tra-hòa-la và tỏ ý muốn gặp Tôn giả. Rồi vua ra lệnh cho quan săn bắn sửa soạn rừng Thâu Lô Tra để đi săn. Khi viên quan đi vào rừng, trông thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la bèn trở về tâu vua, vua đi gặp Tôn giả. Khi Tôn giả thấy vua đến, ngài mời vua ngồi. Vua trả lời, mặc dù nơi này là sở hữu của vua, vua vẫn muốn được Tôn giả mời ngồi, và Tôn giả Lại-tra-hòa-la mời vua ngồi xuống. Vua hỏi phải chăng Tôn giả đi tu vì thiếu tiền, nếu vậy vua sẵn sàng cung cấp tất cả tiền bạc cần thiết để Lại-tra-hòa-la hoàn tục hưởng dục lạc, bố thí và làm các việc phước. Khi ấy Tôn giả bảo vua đã hiến cho mình những vật bất tịnh, không phải là tịnh pháp. Khi vua hỏi thế nào là hiến tịnh pháp, Tôn giả bảo vua nên nói xứ sở và thần dân của vua được hạnh phúc, không sợ hãi, không xáo trộn, không lo lắng, không bị làm nô lệ. Khi ấy vua nói muốn hiến cho Tôn giả tịnh pháp, không phải vật bất tịnh. Bản P không nói Ratthapàla bay trở về ngang qua hư không. Tôn giả chỉ trở về vườn Nai của vua Kuru, ngồi dưới một cây để nghỉ ban ngày. Bản P không nói vua Chu-lao-p'ongồi với đình thần trong cung, khen ngợi Tôn giả Ratthapàla và ngỏ ý muốn gặp ngài, mà chỉ nói vua sai người săn nai đi sửa soạn khu đất trong vườn Nai để vua đi ngắm cảnh. Người săn nai đến trông thấy Tôn giả đang ngồi dưới cây, về tâu vua, và vua sai thắng xe để đi gặp Tôn giả. Khi vua gặp Tôn giả, vua chào và mời Tôn giả ngồi trên tấm thảm lót lưng voi, nhưng Tôn giả từ chối và mời vua hãy ngồi lên đấy vì ngài đã có tọa cụ riêng. Ở đây bản P bỏ đoạn vua dụ Tôn giả từ bỏ đời sống phạm hạnh, như được tìm thấy trong bản C. Rồi vua hỏi những lý do đã khiến Ratthapàla sống đời phạm hạnh, và Tôn giả giải thích cho vua những lý do đã khiến ngài trở thành tu sĩ.

n) Giảng cho Tôn giả Phù Di (C: Fou-mi; P: Bhumija):

NC81: ( P126, Bhùmija= C173, kinh Phù Di ):

Tôn giả Phù Di ở trong thiền thất vô sự. Một buổi sáng, ông sửa soạn đi vào thành Vương Xá khất thực. Rồi ông hoãn việc khất thực mà đi đến nhà vương tử Kỳ Bà Tiên Na (Ch'i-p'o-hsien-na). Ở đấy, Tôn giả được vương tử chào đón một cách kính cẩn, mời ngồi và xin phép được hỏi Tôn giả. Sau khi được cho phép, vương tử đặt những câu hỏi và Tôn giả trả lời. Rồi vương tử mời Tôn giả ăn trưa, tự tay mang nước đến và phục vụ ngài với những thực phẩm hảo hạng. Sau khi ăn xong, vương tử ngồi xuống trên một chỗ ngồi thấp để lắng nghe thuyết pháp. Tôn giả thuyết pháp làm cho vương tử hoan hỷ, thỏa mãn, phấn chấn tinh thần bằng nhiều cách thuyết pháp. Khi bài pháp đã xong, Tôn giả đi đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ Ngài và kể lại cuộc đàm thoại với vương tử. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả sửa soạn đi khất thực, hoãn việc khất thực, sự chào đón tôn kính của vương tử và xin phép đặt câu hỏi. Bản P chỉ nói Bhùmija vào buổi sáng đắp y cầm bát đi đến trú xứ vương tử Jayasenavà ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi vương tử đến chào ngài và hỏi những câu hỏi. Trong khi kinh C nói dông dài về chuyện vương tử mời dùng cơm, phục vụ Tôn giả với những đồ ăn thượng hạng, Tôn giả thuyết pháp cho vương tử; kinh P chỉ nói vương tử cúng dường Tôn giả cơm nấu với sữa. Sau khi kể lại cho đức Phật nghe cuộc đàm thoại này, bản P nói Tôn giả hỏi đức Phật, có phải khi được hỏi và trả lời như thế là ông đã nói đúng những gì Thế tôn đã dạy, không xuyên tạc lời Thế tôn. Và đức Phật hỏi Tôn giả vì sao không nói cho vương tử nghe về bốn ví dụ.

o) Giảng cho Tôn giả Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya):

NC88: (P134, Lomasakangiiya, Nhất dạ hiền giả = C166, Thích trung thiền thất tôn) :

Có một việc khác nhau quan trọng cần chú ý giữa hai bản dịch. Bản C nói đức Phật giảng bài kệ về Bạt địa la đế (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta) tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc, ở vườn Ca Lan Đà (Chia-lan-to), nhưng bản P nói đức Phật giảng bài kệ này tại cõi trời 33, giữa thiên chúng, ở gốc cây Pàricchattaka, trên Pandukambalasilà.

p) Giảng cho Tôn giả San-mi-t'i (Samiddhi):

NC 90: (P136, Đại nghiệp phân biệt = C171, Phân biệt đại nghiệp kinh):

Trong bản C, chính Tôn giả A Nan có tà kiến của Samiddhi và bị Phật quở. Nhưng trong bản P Tôn giả Ưu-đà-di (Udàyì) có tà kiến như Samiddhi và bị đức Phật quở trách.

q) Giảng cho Tôn giả Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti):

NC94: (P140, Giới phân biệt = C162,Phân biệt lục giới kinh):

Theo bản C, sau khi đức Phật giảng xong, Tôn giả Pukkusàtiđắc Pháp nhãn. Rồi ông thú nhận lỗi lầm đã gọi Phật bằng bạn và Phật nhận sự sám hối của ông. Ở đây bản P hoàn toàn khác. Tôn giả Pukkusàti cũng sám hối, và sau khi sám hối, còn xin đức Phật xuất gia làm Tỳ-kheo, nhưng đức Phật từ chối vì Tôn giả không có y bát sẵn sàng. Trong lúc đi tìm y bát, Tôn giả bị bò húc chết. Những Tỳ-kheo đưa tin ấy đến Phật và bạch hỏi về cảnh giới tương lai của Pukkusàti. Đức Phật trả lời Pukkusàti đã đoạn trừ năm kiết sử, đã hóa sinh và đạt Niết-bàn (Nibbàna) ngay ở đấy, không còn trở lui đời này. Tất cả những chi tiết này không có trong bản C.

r) Giảng cho Đại Châu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda) :

NC7: (P8, Đoạn giảm = C91, Châu na vấn kiến kinh) :

Hai bản kinh gần giống nhau.

s) Giảng cho sa di A-i-na-ho-t'i (Aciravata):

NC80: (P125, Dantabhùmi= C198,Điều ngự địa):

Hai bản dịch không có gì khác nhau đáng chú ý.

6. Đức Phật thuyết pháp cho tu sĩ và những người khác :

Có 10 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho Kiều-đàm-di (Ch'u-t'an-mi) : NC96: (P142,Dakkhinà-vibhanga = C180,Cù đàm di kinh);
\
- Giảng cho bà la môn Sinh Văn (Shêng-wên): NC23: (P27, Ví dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ kinh) ;
- Giảng cho Po-li-to (Potaliya) : NC38: (P54,Potaliya= C203, Bổ lợi đa kinh);

- Giảng cho Tiễn Mao (Chien-mao): NC49: (P77,Mahàsakuludàyi = C207, kinh
Tiễn mao);

- Giảng cho vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) : NC56: (P87,Piyajàtika= C216,Ái sinh); NC58: (P89,Dhammacetiya = C213, Pháp trang nghiêm); NC59: (P90,Kannakatthala= C 212, Nhất thiết trí kinh);

- Giảng cho bà la môn Phạm Ma (Fan-mo): NC60: (P91, Brahmàyu = C161, kinh Phạm ma)

- Giảng cho bà la môn Toán số Mục-kiền-liên (Suan-shu-mu-chien-lien) : NC68 : (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên kinh);

- Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu): NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

a) Giảng cho Kiều-đàm-di (C: Ch'u-t'an-mi; P: Gotamì),NC96: Hai bản gần giống nhau.

b) Giảng cho bà la môn Sinh Văn ((C: Shêng-wên; P: Jànussonì),NC23:

Tỳ Lô (Pei-lu), một tín đồ ngoại đạo sau khi nghe đức Thế Tôn giảng trở về gặp bà la môn Sinh Văn đang đi trong một cỗ xe toàn trắng với 500 đệ tử ra khỏi thành Xá Vệ để đến một nơi vắng vẻ và đọc kinh điển. Bản P bỏ đoạn Tỳ Lô đi đến đức Phật và được Ngài thuyết pháp, đề cập trực tiếp bà la môn Jànussonì sáng sớm ngồi trong xe do ngựa trắng kéo, gặp du sĩ Pilotika từ xa đến và nói chuyện. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

c) Giảng cho Bổ Lợi Đà (C: Pu-li-to; P:Potaliya),NC38:

Theo bản C, gia chủ Bổ Lợi Đà vận y phục trắng sạch, đầu quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù, mang giày thế tục đi ngao du. Khi gặp Phật, đầu tiên ông bỏ cây gậy, tháo giày, rồi mở dãi khăn trắng ra. Trong bản P, Potaliya được mô tả là ăn mặc bảnh bao, đi giày cầm dù, nhưng không có những chi tiết khác. Ông không bộc lộ những vẻ cung kính bên ngoài như được thấy trong bản C. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Potaliya được con mắt pháp thanh tịnh, lặp lại ba lần xin quy y Tam bảo và được nhận làm đệ tử tại gia. Bản P không nói Potaliya đắc Pháp nhãn. Ông chỉ bày tỏ sự tán thán như thường lệ và xin quy y Tam bảo, xin được nhận làm đệ tử Phật.

d) Giảng cho Tiễn Mao (C: Chien-mao; P: Sakuludàyì),NC49:

Trong khi bản C nói Phật sau khi ăn xong đi đến vườn chim công, bản P nói Phật vào thành Vương Xá (Ràjagaha) khất thực, nhưng thấy còn quá sớm nên Ngài đi đến vườn chim công. Bản P bỏ chi tiết Sakuludàyi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp vai chừa ra một bên, chắp tay hướng về Phật, nhưng thêm rằng Sakuludàyi lấy một ghế thấp ngồi bên cạnh. Sau khi Phật thuyết pháp, Tiễn Mao ca tụng bài pháp của đức Phật vi diệu, hy hữu, làm ông khoan khoái, như mật ngọt, như nước mưa trên trời rơi xuống thấm khắp những vùng đất cao và thấp. Rồi ông xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Đoạn này không có trong bản P.

e) Giảng cho vua Ba-tư-nặc (C: Po-ssu-ni; P: Pasenadi),NC 56, 58, 59:

Cả hai bản gần giống nhau, chỉ có thêm bớt vài chi tiết nhỏ. Trong NC56, theo kinh C216, Ái sinh, vua Ba-tư-nặc sai bà la môn Na Lị Ương Già (C: Na-li-yang-chia; P: Nàlijangha) đi đến đức Phật, trước hết hỏi thăm sức khỏe của Ngài, rồi hỏi quan điểm của Ngài. Trong kinh P90, Piyajàtika,hoàng hậu Mallikà phái bà la môn Nàlijangha đi đến đức Phật, trước hết đảnh lễ và hỏi thăm sức khỏe, sau xin Ngài giải thích quan điểm của Ngài.

f) Giảng cho Bà la môn Phạm Ma (C: Fan-mo; P: Brahmàyu),NC 60:

Hai kinh gần giống nhau. Những dị biệt sau đây cần chú ý: Về lưỡi dài rộng, theo kinh C161, trùm khắp mặt đức Phật, trong kinh P91, đức Phật đưa lưỡi ra sờ đến hai mang tai, hai lỗ mũi và bao trùm khắp mặt và trán. Trong kinh C, Ưu Đa La (Yu-to-lo) xin phép bà là môn Phạm Ma xuất gia với Sa-môn Cù Đàm (Ch'u-t'an) và bà la môn đồng ý. Và Ưu Đa La thọ đại giới với đức Phật. Những chi tiết này không có trong bản P. Trong bản C, bà la môn Phạm Ma muốn đảnh lễ đức Phật, nhưng chúng đông gia chủ và bà la môn hô lớn lời hoan nghênh và thán phục. Đức Phật biết tâm của hội chúng, bảo Phạm Ma hãy trở về chỗ ngồi. Rồi Ngài thuyết pháp cho ông, làm cho ông hoan hỷ, phấn khởi, hài lòng. Sau khi đức Phật thuyết pháp, Phạm Ma được Pháp nhãn. Rồi ông đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu dưới chân đức Phật, xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Trong bản P, bà la môn thực sự đảnh lễ Phật, sửa thượng y chừa lại một vai, hôn quanh chân Phật, dùng hai tay vuốt khắp chân Phật và cho biết tên của ông, nhưng không bị chúng hội ngăn chận.

g) Giảng cho Toán số Mục-kiền-liên (C: Suan-shu-mu-chien-lien; P: Ganakamoggallàna),NC 68: Hai bản gần giống nhau.

h) Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (C: Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu; P: Subha mànava Todeyyaputta),NC 89: Kinh C170 khởi sự với câu chuyện về con chó, đời trước là cha của Đô Đề (Todeyya), trong khi P135 hoàn toàn loại bỏ chi tiết này.

7. Sự thảo luận giữa các Tỳ-kheo

Có 3 NC thuộc về loại này :
NC20 : (P24, Trạm xe = C9,Thất xa), kể cuộc đàm luận giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Mãn-từ-tử (Man-tz'u-tzu).

NC26: (P32, Đại kinh rừng Sừng boø= C185,Ngưu giác lâm kinh), nói đến một cuộc luận bàn giữa các Tôn giả Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Ly-bà-đa (Li-yueh-to) và A Nan.

NC30: (P43, Mahàvedalla = C211, Đại-câu-thi-la kinh), kể cuộc pháp đàm giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo).

a) Giữa Xá-lợi-tử và Mạn Từ Tử,NC20:

Hai bản gần giống nhau.

b) Giữa Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà, Ly-bà-đa và A Nan,NC26:

Bản C nói đến bảy Tôn giả, nhưng bản P chỉ nói sáu, bỏ Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna). Trong bản C, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói đến vị Tỳ-kheo nào thiện xảo về đàm luận pháp A tỳ đàm (Abhidharma), vị Tỳ-kheo ấy sẽ chói sáng khu rừng Sừng bò. Nhưng trong bản P, câu trả lời này được đặt vào miệng của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna). Trong bản C, câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên nói đến vị Tỳ-kheo nào giỏi về năng lực thần thông.

c) Pháp đàm giữa Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo),NC 30:

Trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la và Đại-câu-thi-la trả lời câu hỏi. Trong bản P, Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi và Xá Lợi Phất trả lời.

8. Những bài pháp do đệ tử Phật nói:

Có 14 NC thuộc về loại này. Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết pháp trong NC4, 24, 46, 63, 97. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết pháp trong NC12, 36. Tôn giả A Nan thuyết bốn bài pháp trong NC37, 57, 69, 86. Tôn giả A-na-luật-đà giảng một bài pháp trong NC82. Tỳ-kheo ni Pháp Lạc nói một bài pháp trong NC31 và Tôn giả Bạc-câu-la (Po-chu-lo) nói một bài pháp trong NC 79.

a) Do Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết:

NC4: (P5, Vô uế = C87,Uế phẩm kinh);
NC24: (P25, Dụ dấu chân voi = C178, Tượng tích dụ kinh);

NC46: (P69, Gulissàni = C26, Cù ni sư kinh);

NC63: (P97, Dhànanjàni = C27, Phạm chí Đà nhiên kinh);

NC97: (P143, Anàthapindikovàda = C28, Giáo hóa bệnh kinh);

Không có gì khác nhau nhiều giữa hai bản trong NC4, NC24, NC46. Nhưng có nhiều khác nhau trong NC63, nói đến sự gặp gỡ giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và bà la môn Đà Nhiên (T'o-jan). Sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-tử mang y cầm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau khi khất thực, ngài đến nhà bà la môn Đà Nhiên, lúc ấy Đà Nhiên vừa ra khỏi nhà đi đến bờ sông để hành hạ dân chúng. Khi thấy Tôn giả Xá-lợi-tử từ xa, ông ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi (?), mặc y phục để lộ một vai, chắp tay chào đón Tôn giả, đưa Tôn giả vào nhà, sửa soạn chỗ và mời Tôn giả ngồi xuống, rồi cúng dường thực phẩm cho Tôn giả trong đồ đựng bằng vàng. Nhưng Tôn giả từ chối. Ba lần bà la môn năn nỉ, và Tôn giả từ chối cả ba lần. Bản P không hẳn vậy, nói bà la môn Dhànanjàni đang ở ngoài thành vắt sữa bò trong một chuồng bò. Bản này bỏ các chi tiết: bà la môn đứng dậy khỏi chỗ ngồi, mặc y chừa một vai, đưa Tôn giả vào nhà, sai sửa soạn chỗ ngồi, dâng thực phẩm trong bát bằng vàng. Bản P chỉ nói rằng khi trông thấy Tôn giả Xá Lợi Phất từ xa, bà la môn Dhànanjàni đi đến mời Tôn giả uống sữa chờ đến khi có thức ăn, nhưng Tôn giả từ chối bảo rằng ngài đã ăn xong, và mời bà la môn cùng đi đến dưới một gốc cây. Phần còn lại hai bản gần giống nhau. Trong NC97, cả hai bản kinh nói đến Cấp Cô Độc (Kei-ku-tu) bị ốm, yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-tử đến giảng pháp cho ông. Tôn giả đến giảng pháp cho Cấp Cô Độc. Nhưng trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử bảo Cấp Cô Độc đừng sợ hãi vì ông ta có đức tin lớn, có giới, đa văn, bố thí, trí tuệ, chánh kiến, mục tiêu chân chính, và do vậy khổ và ưu sẽ chấm dứt, vô thượng an lạc sẽ khởi lên, do điều này người ta có thể đạt đến cõi Nhất lai hay Bất hoàn; và Cấp Cô Độc đã đắc quả Dự lưu. Trong bản P, Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên Cấp Cô Độc (Anàthapindika) đừng bám víu cái gì. Và sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất giảng xong, Cấp Cô Độc đã khóc. Sau khi Tôn giả ra đi, Cấp Cô Độc chết và được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất. Ở đây hai bản khác nhau khá xa. Rồi theo bản C, Cấp Cô Độc được khỏi bệnh, kể lại cho Tôn giả nghe lần đầu tiên ông gặp đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, thấy đựơc bốn chân lý, mua vườn Kỳ Viên (C: Shêng-lin; P: Jetavana) và dâng cúng cho đức Phật. Nhưng bản P nói rằng sau khi Cấp Cô Độc chết và tái sinh lên cõi trời Đâu suất (Tusita), vị thiên Cấp Cô Độc còn trẻ, chói sáng vườn Kỳ Viên với hào quang của mình, đi đến đức Phật, chào Ngài và đọc một bài kệ tán thán Phật, Pháp và Tôn giả Xá Lợi Phất. Rồi vị trời trẻ Cấp Cô Độc biến mất tại chỗ.

b) Những bài kinh do Đại Mục-kiền-liên thuyết (Ta-mu-chien-lien):

NC12: (P15, Tư lượng = C89,Tỳ-kheo thỉnh);
NC36: (P50, Màratajjaniya= C131, Hàng ma kinh):

Hai bản gần giống nhau.

c) Do A Nan thuyết:

NC 37: (P52, Bát thành = C217, Bát thành kinh);
NC 57: (P88, Bahitika = C214,Bệ ha đề);

NC 69: (P108, Gopakamoggàllana = C145, Cù mặc Mục-kiền-liên kinh);

NC 86: (P132, A nan nhất dạ hiền giả = C167, A nan thuyết):

Không có nhiều dị biệt giữa hai bản trong NC 37, 57, 86. Nhưng trong NC69, bản C nói vào lúc ấy quan đại thần Vũ Thế (C: Yu-chih; P: Vassakàra) xứ Ma-kiệt-đà (C: Mo-chieh-t'o; P: Magadha) đang chỉnh đốn thành Vương Xá để chống lại dân Bạt Kỳ (P'o-ch'i). Nhưng trong bản P, vua A Xà Thế (Ajàtasttu) xứ Ma-kiệt-đà chỉnh đốn thành Vương Xá chống lại vua Pajjota. Phần còn lại gần giống nhau.

d) Do A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha) giảng:

NC82: (P127, A na luật = C79 ,Hữu thắng thiên):
Hai bản gần giống nhau.

e) Do Tỳ-kheo ni Pháp Lạc (C: Fa-lo; P: Dhammadinnà) giảng :

NC31: (P44, Tiểu kinh Phương quảng= C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh):
Ở đây bản C nói Tỳ Xá Khư (C: P'i-shê-ch'u; P: Visakhà) là nữ đệ tử danh tiếng của thành Xá Vệ đi đến Tỳ-kheo ni Pháp Lạc tham vấn về Pháp. Theo bản P, Visàkha là chồng cũ của Pháp Lạc. Theo bản C, Tỳ-kheo ni Pháp Lạc đến Phật thuật lại sự thuyết pháp của bà, trong khi bản P nói chính cư sĩ Visàkha đến Phật thuật lại cuộc đàm thoại.

f) Do Bạc-câu-la (C: Po-chu-lo; P: Bakkula) thuyết :

NC79: (P124, Bakkula = C34, Bạc-câu-la kinh):
Ở đây bản P thêm tên của người hỏi Tôn giả Bakkula Acela Kassapa nhưng bỏ chi tiết ông ta là một người ngoại đạo. Sau khi Tôn giả Bakkula thuyết pháp, bản P thêm một đoạn dài, trong đó Acela Kassapa xin Tôn giả Bakkula cho ông xuất gia thọ đại giới. Sau khi thọ giới không lâu Acela Kassapa đắc quả A-la-hán, rồi sau một thời gian Tôn giả Bakkula cầm chìa khóa và thông báo cho các Tỳ-kheo khác biết mình sắp nhập Niết-bàn ngày hôm ấy, và Tôn giả Bakkula nhập Niết-bàn trong khi đang ngồi giữa chúng hội. Những chi tiết này không có trong bản C.


NHẬN XÉT CHUNG

Điểm qua vai trò của các nhân vật trong 98 kinh được so sánh, ta thấy rõ ràng có một nguồn gốc chung cho cả hai bản C và P, từ đó những nhà kết tập chọn những tài liệu và dữ kiện cho bản kinh của họ, nhưng không thiếu những dị biệt về chi tiết, và điều này hoặc do sự chọn lựa của các nhà kết tập hoặc do đặc điểm của các bộ phái mà họ tiêu biểu.
Như về phương diện nhân vật, trong NC15, kinh C 115,Mật hoàn du,ïnói chính Phật dẫn ví dụ về viên mật; trong kinh P18, nói Tôn giả A Nan dẫn. Trong NC 10, kinh C 99,Khổ ấm, kể một số đông tín đồ ngoại đạo đến gặp các Tỳ-kheo trong giảng đường khi họ đang tụ hội sau bữa ăn trưa. Nhưng trong P13, Đại kinh khổ uẩn, các Tỳ-kheo sau khi vào thành Xá Vệ khất thực, thấy còn sớm nên đi đến trú xứ của các du sĩ và cuộc đàm thoại bắt đầu. Trong NC 26, C184 nói Đại Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) trả lời Tỳ-kheo thiện xảo về luận thuyết (Abhidharma) (sẽ làm sáng chói khu rừng), nhưng theo kinh P32, đó là câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna) ; trong khi ở kinh C, Đại Mục-kiền-liên trả lời là Tỳ-kheo thiện xảo về thần thông. Như vậy bản C ở đây trung thực và đáng tin cậy hơn, vì Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna) nổi tiếng là chuyên môn về luận nghị, Mục-kiền-liên nổi tiếng là chuyên môn về thần thông. Chúng ta trích dẫn ở đây một nhận xét của tiến sĩ Anesaki(71): "Trong kinh P, Gosinga(72), chúng ta thấy nói đến sáu đệ tử của đức Phật; trong bản C tương đương có thêm một người nữa là Ca-chiên-diên (Katyàyana) . Trong cuộc đàm luận giữa những Tỳ-kheo ấy, Mục-kiền-liên ở bản P đóng vai trò một đệ tử tinh thông về các nguyên lý của pháp và phân tích pháp. Trong bản C, vai trò này do Ca-chiên-diên đóng, và Mục-kiền-liên (Maudgalyàyana) là một người nổi tiếng về thần thông. Khi so sánh điều này với những tài năng của các đệ tử như được nói trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara) I,14, chúng ta có thể thấy rằng bản C phù hợp với truyền thống chung. Vì như trong kinh Tăng chi I nói, Mục-kiền-liên là người thần thông (iddhimantànam) đệ nhất, Ca-chiên-diên (Kaccàna) là 'người thiện xảo về nói pháp và phân tích ý nghĩa' (sankhittena bhàsitassa vitthàrena attham vibhajantànam). Kinh Tăng-nhất-A-hàm (Ekottara) C cũng nói như vậy. Có thể sự khác nhau này chứng tỏ rằng không phải bản P luôn luôn thuần túy và nguyên chất hơn bản C."

Trong NC31, ta thấy một bất đồng khác nữa. Ở đây bản kinh C 210 nói đến tín nữ Tỳ Xá Khư ở thành Xá Vệ đi đến hỏi pháp Tỳ-kheo ni Pháp Lạc. Nhưng kinh P44 nói Visàkha là một nam cư sĩ, chồng cũ của Dhammadinnà. Trong Từ điển Tên riêng(D.P.P.N)(73)cũng nói Visàkha là chồng của Dhammadinnà. Ông là một thương gia giàu của thành Vương Xá, sau khi chứng quả Bất hoàn (Anàgàmì) , lối hành xử của ông đối với vợ hoàn toàn đổi khác. Khi ông tặng bà tất cả tài sản, trả lại tự do cho bà, bà xin được gia nhập tăng đoàn. Khi bà đắc quả A-la-hán, bà trở về Vương Xá. Visàkha đến thăm bà và hỏi bà nhiều câu hỏi liên hệ đến giáo lý Phật, và bà trả lời tất cả các câu hỏi ấy.(74)Cuộc đàm thoại của họ được ghi lại trong kinh Tiểu phương quảng (Cullavedallasutta). Sau đó Visàkha đến viếng đức Phật, thuật lại cuộc đàm thoại của họ và được nghe đức Phật tán thán Dhammadinnà. Như vậy có thể rằng những nhà kết tập kinh C đã nhầm lẫn tên Visàkha.

Trong NC30, kinh C 211 nói Tôn giả Xá-lợi-tử (Shê-li-tzu) đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo) và ông này trả lời; nhưng theo P 43 thì Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi, Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputta) trả lời. Lại trong NC56, kinh C 16 nói vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) phái một người bà la môn đến hỏi Phật về ý nghĩa giáo lý Ngài, trong khi kinh P 87 nói hoàng hậu Mallikà gởi sứ giả đến. Chúng ta cũng chú ý rằng trong NC53, theo kinh C63, Bệ bà lăng kỳ, vua Hiệp Bệ (Chia-pei) sai mang 500 xe bò đầy gạo trắng và đủ thứ thực phẩm của vua dùng để đến cúng dường Nan Đề Bà La (Nan-t'i-po-lo) . Nhưng Nan Đề Bà La từ chối, nói rằng vua có nhiều trách nhiệm lớn đối với quốc gia, và sự tốn kém của vua đã khá nặng nề nên ông không thể nhận. Nhưng bản P 81 nói vua Kikì sai chở 500 xe lúa, gạo vàng và cà ry đến cho người thợ gốm Ghatìkàra; ở đây người thợ gốm nhận quà và nói vua có nhiều phận sự, chừng ấy quà đã đủ cho anh ta. Như vậy những sự tường thuật mâu thẫn này cho chúng ta thấy hoặc do những nhà kết tập không nhớ kỹ, hoặc vì câu chuyện đã quá xa mờ trong dĩ vãng, nên những nhà kết tập chỉ còn nhớ mang máng, mơ hồ.

Về việc cải đạo của những người thuộc giáo phái khác sau khi nghe Phật thuyết pháp, ta thấy các chi tiết giống nhau giữa hai bản kinh trong các NC sau:

NC64: (P99, kinh Subha = C152, Anh vũ kinh);
NC23: (P27,Tiểu kinh dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ);
NC60: (P91, Brahmàyu = P161,Phạm ma);
NC68: (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên);
NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

Nhưng những chi tiết không giống trong các NC :

NC6: (P7,Ví dụ tấm vải = C93, Thủy tịnh Phạm chí);
NC61: (P93, Assalàyana= C151, Phạm chí A nhiếp hòa);
NC62: (P96, Esukari= C150, Uất sậu ca la);
NC48: (P75,Màgandiya= C153,Man nhàn đề);
NC52: (P80, Vekhanassa = C209, Bệ ma na tu);
NC38: (P54, Potaliya = C203, Bổø lợi đà kinh);
NC49: (P77,Mahàsakulùdayi = C207, Tiễn mao kinh);
NC56: (P87, Ái sinh= C216, Ái sinh kinh);
NC63: (P97,Dhananjàni= C27,Phạm chí Đà nhiên).

Trong NC6, bà la môn Thủy Tịnh (Shui-Ching) trong kinh C93 xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia. Nhưng kinh P 37 thêm rằng bà la môn Sundarika Bhàradvàjaxin đức Phật xuất gia thọ đại giới. Sau khi được phép, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đắc quả A-la-hán. Trong NC 48, theo bản C 153, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Man Nhàn Đề (Hsu-hsien-t'i) đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu. Ông được đức Phật cho xuất gia và đắc quả A-la-hán. Nhưng bản kinh P75 không nói Màgandiyađắc pháp nhãn ngay tại chỗ. Kinh này thêm lời tán thán của Màgandiyanhư thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật xuất gia. Ở đây Phật nói Màgandiya vì thuộc ngoại đạo đáng lẽ cần qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết căn tánh khác nhau của các hạng người nên ngài cho phép Màgandiyaxuất gia. Ở đây bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn.

Chúng ta nhận thấy rằng bản C thích trình bày những thần thông của Phật, trong khi bản P không nhắc tới, như trong NC 27, sau khi Phật thuyết pháp, kinh C 201, Trà đế,còn thêm, lúc ấy ba vạn thế giới rung động. Trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi,đức Thế tôn sau khi đọc lên bài kệ, đã vận thần thông bay ngang hư không và đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo) trong khi kinh P128,Tùy phiền não,không nói. Cũng vậy trong NC54, kinh C132, Lại-tra-hòa-la,nói Tôn giả Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha). trong khi kinh P82 quên chi tiết ấy. Bản C cũng ưa nói đến Tôn giả A Nan đứng sau đức Phật quạt cho Ngài hoặc hầu đức Phật tay cầm phất trần, trong khi bản P hoàn toàn không nhắc đến những chi tiết ấy như ở NC15, NC42, NC67, NC96, NC22. Đôi khi một trong hai bản thêm một chi tiết. Như trong NC35, bản P49,Brahmanimantanika,thêm tên bà la môn là Baka. Trong NC44, kinh P66, Latukìkopana, tên của Tỳ-kheo là Udàyì; trong NC39, kinh P56,Upàli, tên người thợ nhuộm là Rattapàni. Những tên này không có trong bản C. Đôi khi bản P thêm một chi tiết. Như trong NC64, P99, kinh Subha,thêm cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì. Trong NC94, kinh P140, Giới phân biệt,thêm rằng Pukkusàtixin đức Phật xuất gia thọ giới, nhưng đức Phật từ chối vì ông không có y bát. Trong khi đi tìm y bát, ông bị bò húc chết. Đôi khi, ta để ý điều ngược lại là bản C cho nhiều chi tiết hơn. Như trong NC3, C88, Cầu pháp kinh, đức Thế tôn đau lưng muốn nằm nghỉ, gấp tư y Uất đa la tăng (yu-to-lo-sêng) trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (sêng-chia-li) làm thành cái gối và nằm xuống bên hông phải hai chân duỗi ra chồng lên nhau. Nhưng bản P chỉ nói rằng đấng Thiện thệ đứng lên khỏi chỗ ngồi và đi vào tinh xá. Trong NC89, kinh C170, Anh vũ kinh, thêm câu chuyện về con chó của Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu), trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi kinh, thêm câu chuyện về Phạm-ma-đạt-đa (C: Fan-mo-ta-to; P: brahmadatta), về đức Phật làm bạn với voi.

Như vậy những điểm tương đồng mà ta thấy được ở đây chứng tỏ có một nguồn chung các dữ liệu mà hai bản C và P đều theo, những điểm dị biệt biểu lộ đặc tính của mỗi bộ phái hoặc lỗi lầm của những người kết tập. Chúng cũng chứng tỏ rằng vào thời gian kết tập, nhiều dữ kiện quá mờ nhạt lẫn lộn nên đã đưa đến những tường thuật mâu thuẫn trong hai bản kinh C và P.

 


(69)Câu này được tìm thấy trong kinh Hữu học P 53, Sekhasutta, do Tôn giả Aønanda giảng.
(70)Lời giải thích này theo các nhà luận giải Pàli. Nhưng nguyên ngữ Pàli Bhunahu tương đương với từ Sanskrit Bhruna-ha, người giết bào thai, dịch sát từ này.
(71)JRAS, 1901, p. 899.
(72)Treckner 212 f.
(73)ii, p. 898.
(74)MA, I, 514 f; Thig A 15, 19.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567