Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương V: Đức Phật

26/03/201105:16(Xem: 6441)
Chương V: Đức Phật

SO SÁNH KINH TRUNG A-HÀM CHỮ HÁN
VÀ KINH TRUNG-BỘ CHỮ PÀLI
Hòa thượng Thích Minh Châu (1961) - Thích Nữ Trí Hải dịch Việt (1998)
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961), "A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama and the Pali Majjhima Nikaya", Ph.D. Thesis, Bihar University, India

Phần Hai

NHỮNG ĐIỂM GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA
BẢN HÁN TẠNG VÀ BẢN PÀLI

CHƯƠNG V: ĐỨC PHẬT

1. Tường thuật về đời đức Phật:

Trong NC22, đức Phật có tự thuật cuộc đời của mình cho Tôn giả A Nan:

a) Xuất gia:

C204: (vii, 74a,12-13): "Khi ta chưa đạt giác ngộ tối thượng và hoàn toàn, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta phải bị bệnh, tại sao ta lại điên rồ đi tìm cái cũng bệnh; ta bị già, chết, sầu, ưu, não, ô nhiễm, tại sao ta điên rồ đi tìm cái cũng già, chết, sầu, ưu, não, ô nhiễm? Sao ta không đi tìm cái không bệnh, sự an ổn tối thượng, Niết-bàn, đi tìm cái không già, không chết, không sầu, không não, không ô nhiễm, cái an ổn tối thượng, Niết-bàn?' "
P26: Gần giống. C: Khi ta chưa đạt đến giác ngộ hoàn toàn và tối thượng = P: Trước khi ta giác ngộ, khi ta chưa thành Phật, đang còn là Bồ-tát. Ở đây bản C bỏ danh từ Bồ-tát. C: phải bị già, chết, sầu, ưu, não, ô nhiễm = P: phải bị sinh, già, bệnh, chết, ô nhiễm.

C: (74a, 13-15): "Ta vào lúc ấy, trong tuổi thanh xuân là một thanh niên hoàn toàn trẻ trung, tóc xanh, khỏe mạnh, 29 tuổi, hưởng lạc thú, sống sung túc, mặc dù lúc ấy cha mẹ ta than khóc và thân quyến ta không vui lòng, không sung sướng, ta vẫn cạo râu tóc để đắp cà sa, vì lòng tin đã từ bỏ gia đình, sống không gia đình để học pháp."

P: (163, 27-31): Gần giống. Bản P bỏ: trong sự trong sáng của tuổi trẻ, 29 tuổi, hưởng lạc thú, sống sung túc, thân quyến không vui vẻ và hạnh phúc, vì lòng tin học pháp. Nó thêm: ngược lại ước muốn của cha và mẹ.

b) Học đạo với hai bậc hiền nhân: Học với Àlàra Kàlàma

C:(74a, 15-20): "Ta tuân giữ sự trong sạch của thân, lời và ý. Sau khi hoàn toàn thanh tịnh thân, ta muốn đi tìm cái vô bịnh... vô thượng an ổn, Niết-bàn. Rồi ta đến Àlàra Kàlàma và hỏi: 'Àlàla, tôi muốn sống đời phạm hạnh dưới giáo pháp của Ngài, có thể được hay không?'
Àlàra đáp: 'Thưa Ngài đối với tôi, không có gì là không thể. Nếu Ngài muốn tu tập, xin hãy làm.' Rồi ta hỏi: 'Àlàra, thế nào là pháp mà Ngài đã biết, đã thấy và đã chứng?' Àlàra trả lời : 'Thưa Ngài, tôi đã vượt qua tất cả cảnh giới của thức, chứng và trú vô sở hữu. Đấy là pháp mà tôi đã biết, đã thấy và đã chứng.' Ta lại nghĩ: 'Không chỉ một mình Àlàra mới có đức tin như vậy, ta cũng có đức tin như vậy. Không chỉ một mình Àlàra có tin tấn như vậy, mà ta cũng có tinh tấn ấy. Không chỉ một mình Àlàra có tuệ như vậy, ta cũng có tuệ ấy. Àlàra đã biết đã thấy và đã chứng pháp này bằng tự mình.' Vì ta muốn chứng pháp ấy, ta độc cư ở một nơi yên tịnh, vắng vẻ, xa xôi, tâm ta không xao lãng mà tỉnh giác, nỗ lực thiền định. Cứ thế, nhờ độc cư tại một nơi yên tịnh, vắng vẻ, tâm ta không xao lãng mà tỉnh giác, nỗ lực thiền định, chẳng bao lâu ta chứng được pháp ấy. Sau khi ta chứng được pháp ấy, ta đến Àlàra và hỏi: 'Àlàra, có phải pháp mà Ngài đã biết, đã thấy và đã chứng là vượt trên tất cả cảnh giới của thức, đạt đến vô sở hữu xứ và an trú trong đó?' Àlàra trả lời: 'Thưa Tôn giả, chính pháp ấy tôi đã biết, đã thấy và đã chứng....' Àlàra lại nói với ta: 'Thưa Tôn giả, pháp mà tôi đã chứng Ngài cũng đã chứng. Pháp mà Ngài đã chứng, pháp ấy tôi cũng đã chứng. Thưa Tôn giả, Ngài đến đây, ta cùng lãnh đạo đoàn nhóm này.' Địa vị của Àlàra là bậc thầy, ta cũng ngang hàng với ông, được sự cúng dường, tôn kính, hạnh phúc tối thượng. Khi ấy ta lại nghĩ: 'Pháp này không đưa đến trí tuệ, giác ngộ, Niết-bàn. Bây giờ ta nên từ bỏ pháp ấy để đi tìm cái không bệnh ... sự an ổn tối thượng, Niết-bàn.' Rồi ta từ bỏ pháp ấy và đi tìm cái không bệnh, vô thượng an ổn, Niết-bàn."

P: (163, 31-37; 164; 165, 1-14): Cũng gần giống. C: Ta an tịnh thân hành: ... Niết-bàn = P : Như vậy sau khi xuất gia, người đi tìm cái gì có công đức, đi tìm con đường vô thượng an ổn. C: Không gì là bất khả đối với tôi; nếu ngài muốn tu tập thì hãy tu = P: Xin Tôn giả hãy an trú trong đó; pháp này một người có trí tuệ chẳng bao lâu tự mình chứng đắc, chứng ngộ, sẽ chứng đạt và an trú trong đó. Bản P thêm một đoạn đức Phật kể lại làm thế nào Ngài đã nắm vững pháp mà Àlàra Kàlàma đã khai thị, trên phương diện môi mép, như giải thích và tụng đọc. Như những người khác, ngài đã biết lý thuyết về trí tuệ, lý thuyết của các bậc trưởng lão. C: Ta lại nghĩ: "Pháp này không đưa đến yểm ly, ly dục, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn; mà chỉ đưa đến sự chứng đắc vô sở hữu." Phần còn lại cũng gần giống nhau.

c) Học với Uddaka Ràmaputta:

C:(74b,5-15)=P(165, 15-37; 166,1-34): Đoạn này cũng gần như đoạn trước trong cả hai bản C và P, thay bằng tên Uddaka Ràmaputta và thay vô sở hữu xứ bằng phi tưởng phi phi tưởng xứ.

d) Giác ngộ:

C:(74b, 15-20): "Rồi ta từ bỏ pháp ấy để đi tìm cái không bệnh......Niết-bàn. Ta đi đến phía nam ngọn núi Hsiang ting, đến làng những người Bà-la-môn Yu-pei-lo tên gọi Ssuna. Ở giữa làng có một nơi khả ái, có rừng xanh và con sông Ni Liên nước trong trẻo chảy tràn bờ. Khi ta thấy mặt đất này ta nghĩ: 'Đất này thật khả ái, khả lạc, với rừng xanh và con sông trong trẻo chảy tràn bờ. Nếu có thiện gia nam tử nào muốn học pháp, vị ấy thật nên học pháp tại đây. Ta cũng muốn học pháp, vậy nay ta nên học pháp tại nơi này'. Rồi ta lấy một ít cỏ, đi đến cây Bồ đề, trải ra, rồi trải tọa cụ ngồi kiết già, lập lời nguyện không rời khỏi chỗ nếu chưa đạt đến sự tận trừ lậu hoặc. Ta đi tìm cái không bệnh, tìm sự an ổn tối thượng Niết-bàn... và ta đạt đến cái không già, không chết, không sầu, bi, khổ, không lỗi lầm, sự an ổn tối thượng, Niết-bàn. Trí sanh, minh sanh, định đạo phẩm pháp(chữ nho); sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm xong, không còn hữu. Chân thật là tri kiến ta."
P: (166,35-37): Không giống hẳn. Bản P bỏ phía nam núi Hương, nhưng thêm Ma Kiệt Đà. Ở đây bản C đã lầm chữ Gayaø với chữ Gaja. C: Yu-Pei-lo, một làng Bà-la-môn tên gọi Ssuna= P:Uruvelà Senànigamo. Ở đây địa điểm này được mô tả là một nơi khả ái, một khu rừng êm ả, dòng sông chảy trong, dễ đến, khả ái, có những khu làng vây quanh, thích hợp để khất thực. Bản P bỏ: (*) Ta lấy một ít cỏ đi đến cây Bồ đề... cho đến sự diệt trừ lậu hoặc.

(*) được tìm thấy trong Nidanakatha thuộc Bản sanh truyện).

C: Định đạo phẩm pháp=P: Akuppà me vimutti(giải thoát bất động). Phần còn lại cũng giống nhau.

e) Do dự không muốn giảng pháp:

P: (167,168,169): Đoạn kinh dài này không có trong bản C (trong đó đức Phật sau khi thành đạo đã ngần ngại không giảng pháp vì hữu tình bị chìm đắm trong dục lạc và vô minh; chỉ sau khi Phạm vương cầu thỉnh, đức Phật mới quyết định chuyển bánh xe pháp).

f) Quyết định giảng pháp:

C:(74b,20): "Khi ta mới đạt Vô thượng bồ đề, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta sẽ giảng pháp cho ai trước tiên?' Rồi ta lại nghĩ: 'Ta nên giảng pháp trước tiên cho Àlàra.' Lúc ấy một vị thiên đứng trên hư không nói với ta rằng: 'Hỡi bậc đại tiên, Ngài nên biết rằng Àlàra đã chết bảy ngày trước đây.' Ta cũng biết rằng Àlàra đã chết bảy hôm trước. Rồi ta lại nghĩ: 'Thật là một mất mát lớn cho Àlàra đã không nghe được pháp này. Nếu nghe được pháp này, ông sẽ nhanh chóng hiểu và thâm nhập.' Khi ta mới đạt Vô thượng bồ đề, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta nên giảng pháp cho ai đầu tiên?' Rồi ta lại nghĩ: 'Ta nên trước hết giảng cho Uất Đầu Lam Phất'. Rồi một vị thiên đứng trên hư không bảo ta: 'Hỡi bậc đại tiên, Ngài nên biết rằng Uất Đầu Lam đã chết 14 ngày.' Ta cũng biết Uất Đầu Lam đã chết 14 ngày.Rồi ta nghĩ: 'Thực là mất mát lớn cho Uất Đầu Lam đã không nghe được pháp này. Nếu nghe được, ông ta sẽ nhanh chóng hiểu và thâm nhập.' Khi ta vừa đạt giác ngộ, tư tưởng này khởi lên nơi ta: 'Ta nên giảng pháp cho ai đầu tiên?' Rồi ta lại nghĩ: 'Ngày xưa năm vị Tỳ-kheo đã phục vụ ta rất chu đáo, đã giúp đỡ ta rất nhiều. Khi ta còn thực hành khổ hạnh, những vị này hầu hạ ta. Bây giờ ta nên giảng pháp trước tiên cho năm vị này.' Rồi ta lại nghĩ: 'Ở đâu những vị này hiện giờ đang sống.' Rồi với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy năm vị Tỳ-kheo đang ở Ba La Nại, chỗ ở của chư thiên tại vườn Nai. Ta ở dưới cây bồ đề cho đến thỏa thích, rồi sửa soạn y bát để đi đến Ba La Nại, đến thị trấn Ca Thi."
P: (169;170): Gần giống. Bản P bỏ: Khi ta mới đạt vô thượng bồ đề........ Ta sẽ giảng pháp này cho ai đầu tiên. Nhưng thêm : Ai sẽ hiểu pháp này một cách nhanh chóng. Và nó cũng thêm một vài chi tiết về Àlàra: "Ông ấy đa văn, có kinh nghiệm, thông minh, ít lỗi". C: Hỡi bậc đại tiên=P: thưa Tôn giả. C: Uất Đầu Lam đã chết hai tuần trước=P: Ông đã chết hôm qua (abhidosa).

g) Gặp Yuto (P: Upako):

C:(75a, 8-16)=P(170,33-37,171, 1-17):
Vào lúc ấy một tín đồ của ngoại đạo tên Yuto thấy ta từ xa đến, đã nói với ta: "Thưa Cồ Đàm, các căn của Ngài thật thanh tịnh, màu da của Ngài sáng sủa, gương mặt của Ngài tỏa ra ánh sáng. Thưa Cồ đàm, ai là thầy của Ngài? Ngài học pháp với ai? Ngài tin vào pháp gì?" Khi ấy ta trả lời choYuto với những bài kệ này: Trong bản C chỉ có 4 bài kệ đức Phật trả lời cho Yuto. Trong bản P có đến năm bài kệ, tương đương với bản C như sau: C1=P1, C2=P2 và P3, C3=P5, C4=P4.

C1=P1:

Bản C:

Ta là tối thượng, bậc chiến thắng tất cả.
Không thủ trước bất cứ pháp gì;
Tất cả tham ái đã được đoạn tận, đã giải thoát.
Ta tự ngộ, còn ai có thể là thầy ta?

P:

Ta là đấng chiến thắng, nhất thiết trí;
ta không bị nhiễm trước tất cả pháp.
Tất cả đã được ta từ bỏ, giải thoát, với sự đoạn tận tham ái.
Ta là người tự ngộ. Ta còn phải theo ai?

C2=P2 và P3:

C: Ta là đấng vô sanh, không ai vượt hơn ta, ta tự chứng vô thượng bồ đề, Như lai là bậc thầy của trời và người, ta là đấng Nhất thiết trí. Ta có năng lực, có uy lực.

P: Đối với ta không có thầy, không thể tìm thấy người ngang hàng với ta, trong thế giới này với chư thiên, không ai có thể sánh bằng ta. Ta là đấng tối thắng trên thế gian; là bậc thầy tối thượng. Một mình, ta chứng đắc toàn giác. Ta mát mẻ và an tịnh.

C3=P5:

C: Ta là đấng chiến thắng tất cả hữu. Điều này có nghĩa rằng tất cả lậu hoặc ta đã đoạn tận. Ta đã phá hủy tất cả các pháp bất thiện. Này Yuto, chính vì thế ta là đấng chiến thắng.

P: Những người giống như ta là những đấng chiến thắng, đã đạt đến sự đoạn tận lậu hoặc. Ta đã chinh phục tất cả các bất thiện pháp. Bởi thế này Upaka, ta là một đấng chiến thắng.

C4=P4:

C : Ta đi đến thành Ba La Nại để gióng lên tiếng trống cam lồ toàn hảo, để quay bánh xe pháp chưa từng quay trên thế gian này.

P: Ta đi đến đô thị Kàsì để quay bánh xe pháp, đánh trống bất tử trong thế gian bị mù lòa.

Khi ấy Yuto nói: "Hiền giả, mong được là như vậy." Nói xong anh ta bỏ đi qua một ngỏ rẽ.

h) Cảm hóa năm Tỳ-kheo:

C:(75a, 14-20; 74b, 1-5): "Khi ấy ta tự mình đi đến trú xứ của chư thiên ở trong vườn Nai. Vào lúc ấy năm Tỳ-kheo khi trông thấy ta từ xa, đã làm quyết định như sau:
'Chư hiền nên biết, Sa-môn Cù Đàm đang đi đến, người này đầy dục vọng, đầy khao khát, ăn uống xa xỉ, ưa thích cơm chiên và gia vị, mật, dùng dầu mè để thoa chà thân thể. Nay ông ta lại đến. Chư hiền hãy ngồi yên đừng đứng dậy chào hỏi, cũng không đảnh lễ ông ta. Một chỗ ngồi được soạn riêng cho ông ta, nhưng đừng mời ông ta ngồi xuống. Khi ông ta đi đến thì nên nói: 'Nếu muốn ngồi thì cứ ngồi.' Khi ta đến trú xứ của năm Tỳ-kheo, năm vị Tỳ-kheo không thể chịu nổi uy lực của công đức ta. Họ đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Người thì cầm lấy bát của ta, người trải tọa cụ, người thì bưng nước cho ta rửa chân. Khi ấy ta nghĩ: 'Tại sao những người ngu này không giữ vững ý định của mình mà lại làm trái với những gì trước đây chúng đã quyết định?' Khi ấy năm Tỳ-kheo gọi ta bằng tộc tánh và danh từ "Tôn giả". Ta bảo họ: 'Hỡi năm Tỳ-kheo, ta là Như lai đã hoàn toàn giải thoát và giác ngộ. Các ngươi không nên gọi ta bằng tộc tánh và bằng danh từ Tôn giả. Tại sao? Vì ta đã đi tìm cái không bệnh... tri kiến của ta chân thật.' Họ nói với ta: 'Thưa Cồ Đàm, trước đây Ngài đã sống một cuộc đời như vậy, đã tu hành phạm hạnh như vậy, trải qua khổ hạnh như vậy mà Ngài đã không thể đạt được những pháp thù thắng thuộc thế gian thấp kém hơn tri kiến bậc thánh. Thế thì làm sao bây giờ Ngài có thể đạt được, khi Ngài đầy những dục vọng khao khát; ăn đồ ăn thức uống sang trọng, thức ăn gạo thơm và cơm chiên với đồ gia vị, mật, dầu mỡ, dầu mè để thoa chà thân thể.' Khi ấy ta trả lời : 'Hỡi năm Tỳ-kheo, ngày xưa, các ông có thấy ta có được các căn thanh tịnh, chói sáng như ta hiện giờ hay không?' Năm Tỳ-kheo lại đáp: 'Trước đây chúng tôi không thấy Ngài có các căn thanh tịnh, chói sáng. Nhưng thưa Cồ Đàm, bây giờ các căn của Ngài thật thanh tịnh, làn da Ngài chói sáng, và gương mặt Ngài đầy ánh sáng.' "

P:(171, 172, 173): Gần giống. C: đầy dục vọng, đầy khao khát.... thoa chà thân thể = P: vị ấy sống trong sự thừa thãi, đã từ bỏ nỗ lực tinh cần, đã trở về với đời sống sung mãn. Bản P bỏ: Khi ấy ta nghĩ, tại sao những người ngu này không giữ vững ý định của họ, mà làm trái lại những gì trước đấy họ đã quyết định.

Câu trả lời của đức Phật hơi khác: "Này các Tỳ-kheo, đừng gọi Như lai bằng tên, hay bằng Tôn giả. Hỡi các Tỳ-kheo, Như lai là đấng đã hoàn toàn chân chánh giác ngộ. Hãy nghe kỹ, cái bất tử đã được tìm thấy. Ta sẽ giáo giới, giảng pháp, nếu các ông thực hành phù hợp với những gì ta khuyến cáo thì không bao lâu các ông sẽ thấy được, chứng đạt được ngay hiện tại và an trú trong mục đích tối thượng của đời sống phạm hạnh, vì mục đích ấy mà những thiện gia nam tử đã chân chánh từ bỏ gia đình sống không gia đình."

C: Thế thì làm sao nay ngài có thể đạt được khi bây giờ ngài sống đầy đủ sung túc... thoa chà thân thể? =P: Bây giờ Ngài sống trong sự sung túc, đã từ bỏ nỗ lực tinh cần, đã trở về với đời sống sung túc, thì làm sao Ngài đạt được pháp tối thượng, tri kiến chân chính đặc biệt của bậc thánh?

C: Khi ấy ta trả lời: "Hỡi năm Tỳ-kheo, ngày xưa các ông có thấy ta có được căn thanh tịnh, đầy ánh sáng"=P: không giống. Trước hết Ngài phủ nhận đã sống một đời sung mãn, đã từ bỏ nỗ lực như năm vị Tỳ-kheo cáo buộc. Rồi Ngài dạy rằng Ngài là Như lai, đã hoàn toàn giác ngộ... vì mục đích ấy mà những thiện gia nam tử đã chân chánh từ bỏ gia đình sống không gia đình. Năm vị Tỳ-kheo lập lại lời cáo buộc của họ ba lần. Rồi Ngài hỏi năm vị Tỳ-kheo họ có nghe Ngài nói như vậy trước kia không. Khi họ trả lời không, Ngài lập lại một lần nữa lời nói trước, và cuối cùng thuyết phục được các Tỳ-kheo.

i) Phật thuyết pháp cho năm Tỳ-kheo:

C:(75b, 5-10) : "Này hỡi năm Tỳ-kheo, các người nên biết: Có hai cực đoan mà những người tu hành không nên theo, một là đam mê dục lạc thấp kém, tầm thường, như người thế tục thường làm; hai là ép xác khổ hạnh, tự hành khổ, điều mà các bậc hiền thánh không làm, điều không có ý nghĩa (lợi lạc). Này năm Tỳ-kheo, có con đường trung đạo tránh xa hai cực đoan này, con đường này sẽ đem lại tri kiến, trí tuệ, sự tập trung, sự làm chủ hoàn toàn, đưa đến tri kiến, giác ngộ, Niết-bàn. Con đường này gọi là Thánh đạo, từ chánh kiến cho đến chánh định. Đây gọi là Thánh đạo tám ngành. Bây giờ ta muốn tuần tự giảng dạy năm Tỳ-kheo. Ta dạy hai Tỳ-kheo, ba vị kia đi khất thực về đủ ăn cho cả sáu người. Rồi ta giảng dạy cho ba Tỳ-kheo, hai vị kia đi khất thực, đủ ăn cho cả sáu. Như vậy ta đã giáo giới chúng, cải hóa chúng, đi tìm cái bất tử... Họ đã đạt đến tri kiến chân thực."
P:(173, 2-20): Không có sự bắt đầu của việc chuyển pháp luân trong bản P. Phần còn lại cũng giống nhau.

2. Những đặc tướng của đức Phật:

Trong NC78, bản C kể ra 24 đức tính kỳ diệu của đức Phật, nhưng bản P chỉ kể 19. Các đức tính tương đương trong hai bản như sau: C2=P1; C3=P3; C4=P4 và P5; C8=P19; C10=P16; C11=P15; C12=P18; C14=P17. Bản P bỏ: C1, C5, C6, C7, C9, C13, C15, C16, C17, C18, C19, C20, C21, C22, C23, C24. Bản C bỏ: P2, P6, P7, P8, P9, P10, P11, P12, P13, P14.
C1=P không có:

C32: Tôi (Tôn giả A Nan) nghe vào thời Phật Ca Diếp, Thế Tôn đã phát nguyện thành Phật và khởi sự tu phạm hạnh. Điều này tôi chấp nhận là một trong những đức tính kỳ diệu của Thế Tôn.

C2=P1:

C: (43b,9): Tôi nghe rằng vào thời đức Phật Ca Diếp, đức Thế Tôn sau khi đã phát nguyện thành Phật và tu phạm hạnh, đã sinh vào cõi trời Đâu Suất. Điều này tôi chấp nhận là một đức tính kỳ diệu của Thế Tôn.

P123: Tôn giả A Nan nói rằng, ngài đã nghe và đã được biết trực tiếp từ nơi đức Thế Tôn rằng Bồ-tát sinh trong cõi trời Đâu Suất, chánh niệm và hoàn toàn tỉnh giác. Điều này ngài xem là một đức tính kỳ diệu của Thế Tôn.

Nhận xét:

Bản P bỏ không nói đến Phật Ca Diếp. Các truyền thống thường nói rằng Phật phát nguyện với đức Phật Nhiên Đăng. Ở đây bản C bỏ danh từ Bồ-tát.

C3=P3:

C:(44a, 2-6): Những lời của Tôn giả A Nan giống nhau trong tất cả những đức tính kỳ diệu, chỉ khác về đề mục. Ở đây có nói đến sự vui mừng của chư thiên vì sau khi đức Phật sinh vào cõi trờiĐâu Suất, thì có ba việc thù thắng hơn trước khi Ngài sinh: thọ mạng của chư thiên, dung sắc của chư thiên, tiếng tăm của chư thiên.

P:(119): Chỉ nói Bồ-tát ở trong cung trời Đâu Suất cho đến hết thọ mạng.

C4=P4 và P5:

C: (44a, 6-11): Khi đức Thế Tôn từ cung trời Đâu Suất đi vào mẫu thai thì toàn thể trời đất rung chuyển và một luồng ánh sáng chói lọi chiếu khắp thế gian, đến tận những góc u tối. Những nơi mà mặt trời mặt trăng mặc dù có đại oai thần lực cũng không chiếu tới, thì ánh sáng này chiếu đến được. Chúng sinh ở những nơi ấy nhờ ánh sáng này mà biết được rằng đã có những chúng sinh kỳ diệu được tái sinh tại đấy.

P: (119): Gần giống. Trong P4, Bồ-tát chánh niệm tỉnh giác, từ cung trời Đâu Suất đi xuống nhập mẫu thai. Trong P5, nói đến sự xuất hiện của ánh sáng quang vinh này. Ở đây bản P thêm rằng, ánh sáng chói lọi này vượt hơn cả quy luật của chư thiên. C: khắp thế giới = P: xuất hiện trong thế giới với chư thiên, ma, phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, trời, người. Bản P thêm rằng, 10,000 thế giới hệ rung chuyển.

C5=P không có:

C:(44a, 11-12): Đức Thế Tôn ở trong mẫu thai nằm nghiêng bên hông phải.

C6=P không có:

C:(44a, 12): Ở trong mẫu thai, đức Thế Tôn có thân hình duỗi ra.

C:7=P không có:

C:(44a, 12-14): Trong mẫu thai, đức Thế Tôn không bị dính máu mủ và các chất dơ dáy.

C8=P19:

C: (44a, 14-18): Khi đức Thế Tôn ra khỏi mẫu thai, thì có sự chấn động và ánh sáng chói chang (như trong C4).

P: (123): Như số 4 trên, cũng những khác biệt như vậy.

C9=P không có:

C: (44a, 18-19): Đức Thế Tôn ra khỏi mẫu thai với thân thể duỗi ra.

C10=P16:

C: (44a, 19-20): Khi ra khỏi mẫu thai, Ngài không bị dính máu mủ và những chất dơ.

P: (122): Gần giống. Bản P thêm ẩn dụ một viên ngọc minh châu đặt trên hàng Ba La Nại. Cả hai đều trong sáng, không vấy bẩn.

C11=P15:

C:(44a, 20): Khi đức Thế Tôn sinh ra, có bốn vị thiên vương, tay cầm vải mềm đứng trước mặt người mẹ, làm cho bà vui mừng với lời rằng hài nhi thật tuyệt diệu, có đại oai thần lực, có sức mạnh và công đức lớn.

P122 : Gần giống, thêm rằng: Bồ-tát không chạm đất. Bỏ: Với vải mềm trong tay. Trong khi bản C nói bốn vị thiên vương đứng trước mặt bà mẹ, bản P nói bốn vị thiên đặt Bồ-tát trước mặt bà mẹ. C: Một đứa trẻ kỳ diệu có đại oai thần lực ...= P: Hài nhi mà bà sinh ra đầy oai lực.

C12=P18:

C: (44b,2-4): Khi đức Thế Tôn vừa mới sinh, Ngài đã đi bảy bước, dạn dĩ, vô úy, và đi khắp bốn phương.

P: (123): Với nhiều chi tiết hơn. Trong khi Ngài đi bảy bước, một chiếc lọng trắng được trao cho Ngài, và Ngài tuyên bố với giọng nói của một ngưu vương rằng Ngài là chúa tể tối thượng trong tất cả thế gian. Đây là đời sống cuối cùng của Ngài, không còn hữu nào khác. Bản P thêm: đứng trên hai chân vững vàng, mặt hướng về phương bắc.

C13=P không có:

C: (44b,4-5): Khi đức Thế Tôn được sinh ra, có một cái hồ lớn hiện ra trước mặt bà mẹ với nước tràn bờ để cho bà có thể dùng để tắm rửa.

C14=P17:

C: (44b,5-6): Khi đức Thế Tôn vừa sinh ra, trời mưa xuống hai dòng nước, một ấm một lạnh, để tắm rửa thân thể đức Thế Tôn.

P: (123): Gần giống. Nó thêm rằng nước ấy dùng để tắm rửa cho cả bà mẹ.

C15=P không có:

C: (44b,6-9): Khi đức Thế Tôn vừa sinh ra, chư thiên trên trời trỗi thiên nhạc và rải trên đức Thế Tôn những hoa sen xanh của cõi trời, sen hồng, sen đỏ, sen trắng, những hoa mạn đà la và bột trầm hương.

C16=P không có:

C: (44b,9-14): Một ngày kia vua Bạch Tịnh đang ngắm cảnh cày bừa và đức Thế Tôn được đặt dưới gốc cây Diêm phù; đức Thế Tôn nhập sơ thiền ly dục ly bất thiện pháp, với tầm với tứ, với hỷ lạc do ly dục sanh. Về chiều, bóng cây Diêm phù vẫn bất động trên lưng đức Thế Tôn, che nắng cho Ngài. Khi đức vua đi tìm con đã chứng kiến phép lạ này của cây Diêm phù và thốt lên lời tán thán.

C17= P không có:

C: (44b,14-19): Một ngày kia tại Tỳ Xá Ly, đức Thế Tôn sau khi khất thực ăn xong, để tọa cụ lên vai đi vào rừng, đến cây Tà la trải tọa cụ ngồi thiền, về chiều bóng của tất cả các cây khác đã di chuyển, nhưng bóng cây Ta la vẫn bất động trên thân Thế Tôn, che cho người. Một Ngài dòng họ Thích Ca tên là Mahayana đi vào rừng, chứng kiến phép lạ ấy của cây Tà la. Thật kỳ diệu thay.

C18=P không có:

C: (44b,19-20): Một thời đức Thế Tôn ở tại Tỳ Xá Ly trong khu rừng lớn. Vào lúc ấy các Tỳ-kheo đặt bát khất thực của họ ra giữa trời. Một con khỉ đi đến lấy bình bát của Thế Tôn đi mất. Các Tỳ-kheo muốn ngăn khỉ lại vì sợ bát bị bể, nhưng đức Thế Tôn bảo họ đừng lo. Con khỉ cầm bát, từ từ leo lên một cây cao, chứa một bát đầy mật, rồi từ từ leo xuống dâng bát mật ấy cho đức Thế Tôn, nhưng Ngài từ chối. Rồi con khỉ lấy một cây gậy bắt hết những con sâu trong mật, và dâng đức Thế Tôn nhưng Ngài cũng từ chối. Khi ấy con khỉ đổ thêm nước vào trong mật và dâng đức Thế Tôn, bấy giờ Ngài mới nhận của cúng dường.

C19=P không có:

P: (45a,14-7): Một thời tại Tỳ Xá Ly trên bờ sông Di Hầu, đức Thế Tôn đang phơi khô chiếc tọa cụ và giũ sạch nó trên sân thượng của một tòa lầu. Vào lúc ấy, có một đám mây bất thường kéo đến bao phủ bầu trời sắp đổ xuống một trận mưa lớn. Nhưng đám mây thấy đức Thế Tôn đang đập phơi chiếc tọa cụ của Ngài, nó dừng lại và đợi đức Thế Tôn làm xong. Khi ấy đám mây mới đổ mưa xuống tràn đầy những bậc cấp bên dưới.

C20=P không có:

C: (45a,17-10): Một thời đức Thế Tôn ở Po-chi, trong rừng suối nước nóng, ngồi dưới gốc một cây Sa la vương. Vào lúc ấy đang xế chiều, bóng của tất cả cây khác đều di chuyển, nhưng bóng cây Sa la vương không di chuyển khỏi chỗ ngồi của đức Thế Tôn. Người chủ vườn Lama chứng kiến phép lạ này nên thốt lên những lời tán thán việc hiếm có.

C21=P không có:

C:(45a,11-17) : Một thời đức Thế Tôn ở lại nhà của A-fu-sheng. Sau khi đi khất thực về ăn xong và thu dọn y bát, Ngài trải tọa cụ ngồi thiền trong nhà A-fu-sheng. Lúc ấy có một tiếng sét lớn và một trận mưa đá đổ xuống giết chết hai người trong bốn người đang cày ruộng. Trong lễ hỏa táng, mọi người kêu khóc lớn tiếng. Buổi chiều khi đức Thế Tôn ra khỏi thiền định, đi kinh hành lui tới ngoài trời, có một người trông thấy Ngài đang kinh hành lui tới liền đến đảnh lễ và theo sau Ngài. Đức Thế Tôn hỏi anh ta nguyên nhân tiếng ồn và huyên náo lớn. Người ấy thuật lại câu chuyện cho đức Thế Tôn và hết sức ngạc nhiên về sự thiền định sâu xa của Ngài đã không nghe thấy cũng không bị dao động bởi tất cả sự ồn ào, dao động ấy.

C22=P không có:

C: (45a,17-19): Một thời đức Thế Tôn đang ở Uruvelà, bên bờ sông Ni Liên, dưới gốc cây Ni câu loại, nơi Ngài vừa đạt giác ngộ. Vào lúc ấy có một trận mưa lớn kéo dài bảy ngày, làm mọi sự đều ngập chìm trong nước. Nhưng khi đức Thế Tôn đi ra khoảng trống để kinh hành, đất trồi lên cho Ngài đi lui tới.

C23=P không có:

C: (45a,19-20): Ma vương đã đi theo đức Thế Tôn suốt sáu năm, chờ một dịp thuận tiện để làm hại Ngài nhưng không thể được, đã kiệt sức và bỏ đi.

C24=P không có:

C: (45b,1): Đức Thế Tôn trong bảy ngày thực tập chánh niệm về thân không gián đoạn (niệm thân hành không gián đoạn).

Ngược lại có đến mười trường hợp, bản Pàli có nhưng bản Hoa ngữ không có:

P2: (119): Bồ-tát ở trong cung trời Đâu Suất, chánh niệm tỉnh giác.

P6: (120): Khi Bồ-tát đi vào mẫu thai, có bốn vị thiên vương xuống canh gác ở bốn hướng để đề phòng người và phi nhân nhiễu hại Bồ-tát và mẹ của Ngài.

P7: (120): Khi đức Bồ-tát đi vào mẫu thai, mẹ Ngài tự nhiên trở nên thánh thiện, không phạm vào năm giới cấm từ sát hại cho đến uống rượu.

P8: (121): Khi Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ Ngài hưởng thụ năm dục; bà được vây quanh bằng năm thứ dục lạc.

P10: (121): Khi Bồ-tát ở trong thai mẹ, mẹ Ngài không bị ốm đau, sống thoải mái, không bị nhọc mệt. Bà thấy trong bụng mình vị Bồ-tát có đầy đủ tay chân, có các căn toàn hảo. Như một viên minh châu khéo giũa thành bảy mặt, được xâu bằng một sợi chỉ xanh hay vàng, đỏ, trắng, cam, xuyên qua viên ngọc ấy. Một người có mắt sáng, cầm trong tay viên ngọc và xem xét, thì sẽ thấy rõ ràng viên ngọc với sợi chỉ mỏng.

P11: (122): Mẹ Bồ-tát chết bảy ngày sau khi Ngài ra đời, và bà được tái sanh lên cõi trời Đâu Suất.

P12: (122): Những phụ nữ khác mang thai chín hoặc mười tháng trước khi sinh nở, nhưng mẹ của Bồ-tát thì luôn luôn mang thai đến mười tháng.

P13: (122): Các phụ nữ khác khi lâm bồn ngồi hoặc nằm, nhưng mẹ Bồ-tát sinh nở trong lúc đứng.

P14: (122): Khi Bồ-tát ra khỏi mẫu thai, thì chư thiên đón nhận Ngài trước hết rồi mới đến loài người.

Một đức tính kỳ diệu khác:

C: (45b,1-3): Rồi đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan: Ông nên xem đây cũng là một điều kỳ diệu nữa về đức Như lai. Đức Như lai biết các cảm thọ khi chúng khởi lên, khi chúng tồn tại, khi chúng chấm dứt, Ngài luôn luôn biết chúng. Cũng thế với các tư tưởng và nhận thức. Khi ấy Tôn giả A Nan chấp nhận điều này là một đức tính kỳ diệu khác của đức Như lai.

P:(124): Gần giống; bản P bỏ: "Ngài luôn luôn biết chúng". Bản P đặt "tưởng" (sannà)trước "tầm" (vitakka).

Nhận xét:Chúng ta để ý rằng từ ngữ Bồ-tát không được nhắc đến trong bản C. Còn bản P thì dùng từ ngữ này để chỉ đức Phật khi chưa giác ngộ. Như vậy chúng ta có thể phỏng đoán rằng danh từ Bồ-tát đã được Thượng tọa bộ đưa vào để phản đối cách giải thích danh từ này của các nhà Đại thừa. Chúng ta cũng nhận thấy rằng các truyền thống về sự tích đời đức Phật và những đức tính kỳ diệu của Ngài không giống nhau trong hai bản, mỗi bản dường như xuất xứ từ một nguồn khác nhau về phương diện cuộc đời đức Phật và những đức tính kỳ diệu của Ngài.

3. 10 danh hiệu Phật:

Trong NC27, 10 danh hiệu của đức Phật được nói đến. Một nghiên cứu tỷ giảo hai bản dịch cho thấy những tương đồng và dị biệt sau:
C201:(vii,69a,1-2)=P38: (i,267,13-16):

C: Như lai=P: Tathàgàta.

C: Vô sở trước= P: A-la-hán, Araham.

C: Đẳng chánh giác (giác ngộ toàn vẹn và chân chính) = P:Sammàsambuddho.

C: Minh hạnh túc (đủ trí tuệ và giới hạnh)= P: Vijjàcaranasampanno.

C: Thiện thệ (khéo vượt qua)=P: Sugato.

C: Thế gian giải (người hiểu biết thế gian) = P: Lokavidù.

C: Vô thượng sĩ (người không ai sánh bằng)=P:Anuttaro.

C: Đạo pháp ngự (người điều phục con đường và pháp)= P: Purisadammasàrathi, người điều phục những người đáng điều phục.

C: Thiên nhân sư (thầy của người và trời)= P: Satthàdevamanussànam, bậc thầy của trời người.

C: Phật, chúng hộ (người che chở tất cả)= P: Buddho, Bhagavà, Phật Thế Tôn.

Trong Phật học đại tự điển, 10 danh hiệu Phật được kể như sau: Như lai, A-la-hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Nếu so danh sách này với danh sách bản P, ta không thấy gì khác nhau ngoại trừ danh hiệu cuối cùng. Bản S viết Phật, Thế Tôn thay thế cho bản P: Phật, Bạt- già-phạm (Bhagavà). Như vậy ta có thể nói rằng trong đoạn này, bản C với danh từ Đạo pháp ngự thay cho Điều ngự trượng phucủa bản P là không đúng lắm vì đã lầm damyavới Dhamma: Pháp.

4. 32 đại nhân tướng:

Trong NC60, 32 tướng đại nhân được đề cập đầy đủ và ta thấy có những đồng dị sau đây:
C 161=P91:

Những đặc tướng tương đương trong hai bản như sau:

C1=P2; C2=P4; C3=P8; C4=P7; C5=P3; C6=P14; C7=P 6; C8=P5; C9= P12; C10=P13; C11=P không có; C12=P10; C13=P19 C14=P15; C15=P9; C16=P11; C17=P16; C18=P17; C19=P22; C20=P20; C21=P18; C22=P23; C23=P25; C24=P26; C25=P24; C26=P21; C27=P28; C28=P27; C29= P30; C30=P29; C31=P32; C32=P31. C 11 không có trong bản P, P1 không có trong bản C.

C1=P2: C: lòng bàn chân xuất hiện một bánh xe ngàn căm đầy đủ chi tiết=P thêm: có viền và trục đủ mọi vẻ.

C2=P4: C: bàn chân, ngón tay dài và có đầu nhọn=P: ngón tay dài.

C3=P8: C: bàn chân tròn và thẳng=P: những ống chân giống như chân sơn dương, nghĩa là rất thẳng.

C4=P7: C: gót chân và mắt cá phần sau tròn đầy, bằng phẳng cả hai phía=P:ussankhapàdo(mắt cá nhô ra).

C5=P3: C: hai mắt cá chân là dung? = P: àyatapanhi, có gót chân nhô ra.

C6=P14: C: lông xoăn lên=P thêm: lông xoăn lên có màu xanh, cuộn thành những vòng tròn về phía phải.

C7=P6: C: ngón tay ngón chân có màng lưới như con ngỗng chúa=P: jàlahatthapàda, tay chân có màng lưới.

Nhận xét:Cô Horner chọn cách giải thích của Ngài Buddhaghosa rằng chân tay cách đều nhau. Nhưng nghĩa trong bản C rất rõ.

C8=P5: C: bàn chân bàn tay tuyệt hảo, mềm mại như hoa Đâu la= P: tay chân mềm mại. (Tùla, theo Phật học Đại từ điển, là một loại bông vải rất mềm).

C9=C12: C: da láng, mịn, nước và bụi không thể dính=P: da bóng, mịn màng, nên bụi và nước không thể bám vào thân.

C10=P13: C: những sợi lông tách rời, mỗi lông mọc từ một lỗ chân lông. Màu lông hơi xanh và xoăn về phía phải như hình con sò=P: những sợi lông tách rời, mỗi lông mọc từ một lỗ chân lông.

C11=P không có: C: bắp đùi của Ngài đầy đặn như con nai chúa.

C12=P không có: C: cái bị che kín giống như con ngựa, như một con ngựa chúa giống tốt=P: cái gì được che kín bằng áo quần thì được bao bằng một cái bọc (tướng mã âm tàng).

C14=P15: C: thân không cong quẹo=P: một thân thể thẳng tắp như thân chư thiên.

C15=P9: C: thân thể không con quẹo, khi đứng thẳng bàn tay có thể sờ đầu gối=P: đứng thẳng không cúi xuống, Ngài có thể dùng hai lòng bàn tay xoa và sờ hai gối.

C16=P11: C: thân thể của Ngài có màu vàng chói như màu vàng ròng hơi đỏ=P: có màu vàng ròng.

C17=P16: C: bảy chỗ đầy đặn là hai bàn tay, hai bàn chân, hai vai và cái cổ=P: sattussaddo bảy chỗ có bề mặt lồi.

C18=P17: C: phần trên thân đầy đặn như một con sư tử=P: sìhapubbaddhakàyo (như bản C).

C19=P22: C: quai hàm như sư tử=P:sìhahanu (như bản C).

C20=P20. C: lưng của Ngài bằng và thẳng=P: samavattakkhandho, có vai tròn.

C21=P18: C: phần trên của hai vai tiếp giáp với cổ một cách đầy đặn=P: citantaramso (lỗ hổng ở vai được lấp đầy).

C22=P23: C: Ngài có 40 cái răng=P: cũng vậy.

C23=P25: C: giữa các răng không có khe hở=P: avivaradanto(như C)

C24=26: C: răng trắng=P: susukkadàtho, răng bóng loáng.

C25=P24: C: răng đầy đủ=P: samadanto,răng đều đặn.

C26=P21: C: có vị giác toàn hảo=P: rasaggasaggì(như C).

C27=P28: C: phạm âm của Ngài du dương như tiếng chim ca lăng tần già= P:brahmassaro karavìkabhànì(như C).

C28=P27: C: lưỡi rộng và dài, từ trong miệng thè ra có thể trùm phủ cả mặt=P: pahùtajìvho,lưỡi dài.

C29=P30: C: tuyến nước mắt đầy như nơi con ngưu vương = P: gopakhumo,lông mi của Ngài giống như lông mi của bò cái.

C30=P29: C: mắt Ngài có màu xanh biếc =P: abhniiølanetto(như C).

C31=P32: C: đỉnh đầu nhô ra, cân đối và tròn tóc xoay về trái như vỏ sò=P: unhìsasiso, đầu hình như có giải khăn bịt.

C32=P31: C: giữa hai lông mày có một sợi lông trắng mọc xoay về bên phải =P:unnà bhamukantare jàtà odàtà mudutùlasannibhà,giữa hai lông mày có một sợi lông trắng mịn như bông vải.

P1=C không có: Ngài có chân bước bằng phẳng.

5. Uy nghi của đức Phật:

Trong NC60, uy nghi của đức Phật được mô tả. Bản C tả đức Phật đắp y, phủ đầy mình bằng tấm y khi ra khỏi phòng, khi ra khỏi vườn, khi đi đường đến làng mạc, khi vào làng, trên đường làng, vào nhà, sửa soạn ngồi lên giường, khi ngồi, rửa tay, nhận thực phẩm, ăn, rửa tay, thuyết tùy hỷ pháp, đứng lên khỏi chỗ, đi ra khỏi nhà, trên đường ra khỏi làng, vào vườn và vào nhà. Bản P khởi đầu bằng sự đi vào nhà, quay về phía chỗ ngồi, rồi ngồi xuống, lấy nước rửa bát, nhận thức ăn, ngồi, lấy nước rửa bát, giáo giới, đi ra, mặc áo, ngồi thiền, thuyết pháp.
C161 = P91:

a) Mặc y:

C: Sa-môn Cồ Đàm mặc y một cách thích đáng, không cao không thấp, y không dính sát vào thân, gió không thể thổi bay cái y khỏi thân thể.
P: Cũng vậy. Sau câu y không dính sát vào thân, bản P thêm: tấm y không bị kéo xa khỏi thân Ngài. Bản P thêm: bụi và đất không dính vào thân của Sa-môn Cồ Đàm. Về câu: gió không thể thổi cái y khỏi thân, cô Horner chọn cách đọc của bản Thái Lan làkayasmin(nơi thân)thay vì kayamhà, nhưng bản C chứng tỏ đã chọn chữkayamhà (khỏi thân).

b) Bao phủ bằng tấm y:

C: Cũng như mặc y. Nó thêm: Sa-môn Cồ Đàm khi mặc tấm y mới, theo thánh cách, cắt nó bằng dao và nhuộm màu sẫm. Ngài mặc y không vì tiền, vì kiêu căng, không để tự trang sức; mà chỉ để bảo vệ thân thể khỏi bị muỗi đốt, ruồi, gió, ánh nắng mặt trời, và vì tàm quý mà Ngài che thân.
P: không có.

c) Ra khỏi phòng:

C: Khi Ngài ra khỏi phòng, thân Ngài không cúi về phía trước hay phía sau. Khi muốn đi, trước hết Ngài đặt chân phải xuống, giở chân lên đúng pháp, đặt chân xuống đúng pháp, không lẫn lộn, không mất trật tự. Trong khi bước đi, hai mắt cá không chạm vào nhau. Do công hạnh đời trước, bụi và đất không bám vào Ngài.
P bỏ: Khi Ngài ra khỏi phòng, thân Ngài không cong lên phía trên hay cúi xuống phía dưới.

C: Giở lên đúng pháp, đặt xuống đúng pháp, không lẫn lộn, không mất trật tự= P: Ngài không đặt bàn chân quá xa, cũng không đặt bàn chân quá gần, không đi quá nhanh, hoặc quá chậm. Nó thêm: trong khi bước đi Ngài không gõ hai đầu gối vào nhau, bắp vế Ngài không đưa lên đưa xuống, hoặc đưa vào đưa ra, Ngài chỉ di động phần dưới của thân thể, chứ không di động toàn thân.

d) Ra khỏi vườn và đến làng, vào làng:

C: Khi ra khỏi vườn, Ngài không cong thân lên hay cúi thân xuống. Khi Ngài đi đến làng, Ngài cũng xoay mình về phía mặt để quan sát chung quanh như một con voi chúa nhìn quanh, vô úy, giản dị, vì Ngài là đức Như lai chánh đẳng giác. Khi đi vào làng, Ngài không ngước lên hay cúi xuống. Khi đang đi trên những đường làng, Ngài không cúi xuống, ngước lên mà nhìn thẳng vừa tầm để không bị chướng ngại cho tri kiến. Do công hạnh đời trước, các căn của Sa-môn Cồ Đàm luôn luôn tự chủ.
P bỏ: Phật ra khỏi vườn và đi vào làng. Nó nói: Khi đức Gotama nhìn quanh, Ngài nhìn với toàn thân, không nhìn lên nhìn xuống, không đi mà không để ý nhìn trước một tầm cày, hơn thế nữa, tri kiến của Ngài không bị chướng ngại.

e) Vào nhà và ngồi trên chỗ ngồi:

C: Trong khi vào nhà, Ngài không ưỡn thân hay cúi xuống, Ngài xoay thân về phía phải và ngồi trên chỗ ngồi của mình. Ngài không ngồi với toàn thể sức nặng của thân thể, Ngài không ngồi với hai tay chống nạnh. Trong khi ngồi Ngài không có vẻ buồn thảm bất an, cũng không có vẻ sung sướng.
P: Khi vào nhà, Ngài không ưỡn thân, cong xuống, xoay qua xoay về. Ngài xoay về phía chỗ ngồi không quá xa hay quá gần. Ngài ngồi xuống chỗ, không đưa tay níu lấy chỗ ngồi. Ngài không ném toàn thân xuống ghế. Ngài không ngồi với tay chân bất an, không vắt chân chữ ngũ, chồng hai mắt cá. Ngài không ngồi với hai tay chống cằm. Trong khi ngồi trong nhà, Ngài luôn luôn có thái độ vô úy, không dao động, hướng về độc cư.

f) Nhận nước để rửa tay chân và nhận đồ ăn:

C : Trong khi nhận nước rửa, Ngài không đưa bát quá cao, quá thấp, không nhận quá nhiều, hay quá ít. Khi nhận thức ăn, Ngài không nhận từ cao, thấp, quá nhiều, hay quá ít; Ngài nhận thức ăn và cơm ngang nhau. Ngài vo tròn thức ăn thành từng viên đều đặn, đúng pháp và từ từ bỏ vào miệng. Ngài không há miệng sẵn để chờ thức ăn vào. Ngài nhai thức ăn ba lần trước khi nuốt xuống. Không có cơm hay thức ăn nào chưa được nhai kỹ. Khi còn có thức ăn trong miệng, Ngài nuốt xuống trước khi bỏ vào một viên khác. Do ba việc mà Sa-môn Cồ Đàm dùng tịnh thực, hy vọng thưởng thức vị nhưng không hy vọng thưởng thức lòng tham vị, ăn không vì tài sản của cải, không để kiêu căng, không để tự trang sức, trang hoàng; mà chỉ để duy trì thân thể khỏi bệnh, để ngăn bệnh cũ, không để khởi lên bệnh mới, để có sức khỏe và an lạc.
P: Trong khi nhận nước vào bát, Ngài không xoay bát lên xuống, xoay vào xoay ra; Ngài nhận nước không quá ít, không quá nhiều. Ngài không rửa bát ồn ào, xoay tròn cái bát, Ngài không đặt bát trên nền để rửa tay. Tay và bát được rửa đồnglúc, Ngài không đổ nước rửa bát quá xa hay quá gần, Ngài không vung vãi nước. Trong khi nhận cơm, Ngài không xoay bát lên xuống vào ra. Ngài nhận cơm không quá nhiều không quá ít. Ngài ăn cà ri có chừng mực. Ngài không quên ăn cơm và thức ăn đồng một lúc với mỗi miếng ăn. Ngài đảo qua lại hai ba lần đồ ăn trong miệng trước khi nuốt xuống. Không có một hạt cơm nào chưa nhai đã nuốt. Không có một hạt cơm nào còn trong miệng đã nuốt một miếng cơm khác. Ngài ăn cháo, thưởng thức vị nhưng không có lòng tham vị. Sa-môn Gotama ăn với tám đức tính, không để vui đùa, không để đam mê, không để trang sức, không để tự làm đẹp, mà chỉ vừa đủ để duy trì cơ thể, để nó tiếp tục, thoát khỏi nguy hiểm, và để hỗ trợ đời sống phạm hạnh, nghĩ đến diệt trừ cảm thọ cũ, ngăn sự khởi lên những cảm thọ mới, và như vậy sống không lỗi lầm, trú trong an lạc.

g) Nhận nước rửa tay, rửa bát, thuyết pháp:

C: Trong khi nhận nước rửa tay, rửa bát, Ngài không nhận nó quá cao, quá thấp, quá nhiều, quá ít. Tay và bát được rửa và lau khô đồng lúc. Sau khi rửa và lau khô bát, Ngài đặt bát một bên, không quá xa, không quá gần, không nhìn thường xuyên vào cái bát, cũng không quá săn sóc cái bát. Ngài không chê thức ăn, không khen ngợi thức ăn mà giữ im lặng, rồi Ngài thuyết pháp cho các gia chủ, làm cho họ hoan hỷ, khích lệ họ, khiến họ hài lòng, sử dụng nhiều cách để thuyết pháp. Rồi Ngài ra đi.
P: Gần giống như đoạn P ở trước. Nó thêm: Ngài đặt bát xuống không quá xa không quá gần. Không phải là không quan tâm gì đến cái bát, nhưng cũng không quá lo cho cái bát, Ngài ngồi im lặng một lúc, nhưng không để thời gian qua đi mà không ban lời giáo giới. Khi Ngài thuyết tùy hỷ pháp, Ngài không chê thực phẩm, không hy vọng được bữa ăn khác, nhưng làm cho hội chúng hoan hỷ, khích lệ làm chúng hài lòng với một câu chuyện về pháp, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi.

h) Ra khỏi nhà đi trên đường đến làng và vào làng:

C: Khi ra khỏi nhà, Ngài không ưỡn thân lên hay cong xuống. Không ngước lên mà nhìn thẳng, đúng pháp, để tri kiến không bị chướng ngại. Do thiện hành đời trước, các căn của Sa-môn Cồ Đàm luôn luôn tịch tịnh. Khi ra khỏi làng, Ngài không ưỡn thân lên hay cong xuống. Khi vào làng, Ngài không ưỡn thân lên hay cong xuống.
P: Chỉ nói rằng khi Sa-môn Cồ Đàm ra đi, Ngài không bước quá nhanh hay quá chậm, Ngài không bước đi như thể muốn thoát khỏi hội chúng ấy cho nhanh.

i) Ngồi thiền và giảng pháp:

C: Sau khi ăn xong, thu dọn y bát, sau khi rửa tay chân, Ngài đặt tọa cụ lên vai và đi vào phòng để ngồi thiền. Sa-môn Cồ Đàm vì an lạc cho cả thế gian, đi vào phòng ngồi thiền. Rồi buổi chiều Ngài ra khỏi thiền định với gương mặt rạng rỡ hào quang, vì Ngài là đức Như lai, bậc giác ngộ hoàn toàn và chân chính. Có tám loại âm thanh phát ra từ Sa-môn Cồ Đàm: rất sâu, tỳ ma lâu pha (?), đi vào tim, khả ái, đầy đặn, linh động, trong sáng, có trí tuệ.
Nhiều người yêu mến giọng nói của Ngài, hài lòng với nó, nhớ đến nó và trở nên định tĩnh. Sa-môn Cồ Đàm thuyết pháp cho chúng hội, giọng của Ngài không vượt ngoài phạm vi của hội chúng mà ở trong phạm vi hội chúng. Ngài thuyết pháp cho hội chúng làm cho họ vui mừng, khích lệ, hoan hỷ, sử dụng vô số cách để giảng pháp. Sau khi làm cho chúng hội vui mừng, khích lệ, hoan hỷ, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và trở về trú xứ.

P: Sau khi đi đến tu viện, Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, rửa chân không phải để làm đẹp, sau khi rửa chân Ngài ngồi kiết già lưng thẳng, chánh niệm được an trú. Ngài không nghĩ đến hại mình, hại người, hại cả hai, mà nghĩ đến lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Ngài thuyết pháp cho hội chúng, không khen không chê, mà làm cho họ hoan hỷ, khích lệ và vui mừng. Giọng nói của Ngài có tám đức tính, rõ ràng, bao trùm, êm ái, dễ nghe, đầy đặn, trong sáng, sâu xa, và vang dội. Trong khi giáo giới chúng hội, giọng Ngài không vượt ra ngoài phạm vi chúng hội. Những người này khi đạt được pháp thoại của Tôn giả Cồ Đàm khích lệ, làm cho phấn khởi, hoan hỷ, đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi và ra đi một cách miễn cưỡng, mắt vẫn còn nhìn nơi Ngài.

Nhận xét:Về sự tường thuật cuộc đời đức Phật, giữa hai bản không có nhiều dị biệt, ngoại trừ bản C nói Ràmaputta đã chết hai tuần, còn bản P nói chết đêm trước. Về các điều kỳ diệu của Phật, ta thấy nhiều chỗ khác nhau, nhất là về cuộc đời của Ngài ở cung trời Đâu Suất, trong thai mẹ và một vài thần thông trong đời này. Những dị biệt này chứng tỏ hai bản tuân theo những truyền thống khác nhau. Về 32 đặc tướng trên thân Phật và uy nghi của Ngài cũng thế. Còn về 10 danh hiệu, thì gần giống nhau trong cả hai bản.

 

CHƯƠNG III : VAI TRÒ CÁC NHÂN VẬT TRONG KINH
- NHỮNG CÁCH THUYẾT PHÁP

Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu so sánh 98 kinh, đề cập vai trò của các nhân vật khác nhau trong những kinh này cũng như những cách thuyết pháp. Ở đây chúng ta chỉ giới hạn việc nghiên cứu vào thái độ, oai nghi cử chỉ của những nhân vật trong kinh, còn giáo lý trong đó sẽ được đề cập rộng rãi trong những chương kế tiếp.
Các kinh có thể phân loại thành tám cách thuyết:
1- Phật thuyết pháp không có lý do nào rõ rệt;
2- Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến của đệ tử hay người khác;
3- Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn;
4- Phật thuyết pháp để đối đáp với những tông phái phi Phật giáo;
5- Phật thuyết pháp cho những Tỳ-kheo đệ tử;
6- Phật thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ của Ngài hoặc cho những người khác;
7- Những đệ tử của Phật tụ họp để bàn luận Phật pháp;
8- Một trong những đệ tử của Phật giảng toàn thể kinh.

1. Đức Phật thuyết pháp không có lý do rõ rệt:

Đôi khi đức Phật gọi các Tỳ-kheo đến rồi giảng pháp không có lý do rõ rệt cũng không do một cơ hội đặc biệt nào. Ở đây những người nghe phần lớn là Tỳ-kheo, tên của họ không được kể ra. Trong số 98 kinh NC, có 22 kinh được xếp vào loại này: NC 1, 2, 8, 9, 13, 14, 16, 17, 21, 28, 29, 32, 33, 34, 70, 71, 73, 75, 84, 85, 91, 93.

2. Đức Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến nơi những đệ tử hoặc người khác:

Đôi khi một vài đệ tử Phật có tà kiến. Những Tỳ-kheo bạn cố sửa đổi nhưng không thành công, bởi vậy vấn đề được đưa đến trước đức Phật và Ngài triệu tập những người có lỗi để quở trách và nêu lên những lỗi lầm của họ. NC số 19, 27, 35, 47 thuộc về loại này.
Trong NC 27, C201, kinh Trà đế,nói đức Phật hỏi các Tỳ-kheo trước, rồi quở trách Tỳ-kheo Trà Đế (Ch'a-ti), và vị này hối hận. Trong P38, Ái tận đại kinh,Tỳ-kheo Sàti hối hận trước, rồi các Tỳ-kheo khác đáp câu hỏi của Phật. Bản C thêm: "Đức Phật thuyết kinh này xong, ba vạn thế giới chấn động ba lần."

Trong NC 35, một vị Phạm thiên trên cõi trời có tà kiến rằng cõi Phạm thiên là trường cửu. P49 thêm tên của vị Phạm thiên ấy là Baka. Trong C78, Phạm thiên thỉnh Phật, Phật biến mất khỏi Xá Vệ, Shêng-lin, Kei-ku-tu để đi đến cõi Phạm thiên. Trong P49, đức Thế tôn biến mất từ rừng Subhaga tại Ukkatthïà và hiện ra trong cõi Phạm thiên. Bản C nói khi đức Phật nhận ra Ác ma (Màra), thì Ác ma bị thua và biến mất tại chỗ, nhưng bản P ghi rằng Phật nêu lên cho Ác ma thấy rằng có thể Phạm thiên (Brahmà) và quyến thuộc của ông ta ở trong tầm tay của Ác ma, nhưng Phật thì không. Sự đấu phép thần thông của Phật và Ác ma cũng không giống nhau. Trong bản C, Phạm thiên dùng tất cả năng lực thần thông để cố ẩn nấp chỗ này chỗ kia nhưng đức Thế tôn đều thấy được ông ta, bởi thế ông không thể trốn mà phải trở lại trong Phạm thiên giới. Trong bản P, Phạm thiên Baka không thể biến mất trước mặt đức Phật. Trong bản C, Phật phóng hào quang chiếu khắp các Phạm thiên giới, và ẩn trong đó, làm cho Phạm thiên và quyến thuộc chỉ có thể nghe Ngài nói mà không thể trông thấy Ngài. Trong bản P, khi đức Phật biến mất, Ngài làm cho Phạm thiên, tùy tùng (Brahmaparisà) và quyến thuộc (Brahmapàrisajja) không trông thấy Ngài mà chỉ nghe Ngài nói bài kệ:

"Bị vướng vào hữu, ta đi tìm phi hữu.
Vì đã thấy nguy hiểm của hữu,
Ta không thích thú đối với hữu,
Và không dục hỷ trong đó."

Phạm thiên, tùy tùng và quyến thuộc của Phạm thiên sửng sốt kinh ngạc.

3. Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài khai diễn:

Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn lời Phật trong NC số 3, 95; Tôn giả Ca-chiên-diên (C:Chia-chan-yen; P: Mahàkaccàna) trong NC 15, 87, 92.
a) Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn:

Trong NC 3, C88, Cầu Pháp kinh,nói có nhiều đại đệ tử cư trú gần am tranh của Phật, như Tôn giả Xá-lợi-tử, Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Lệ Việt (Li-yueh), A Nan, nhưng P3, Thừa tự Pháp,bỏ mục này. Trong bản C, đức Thế tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-tử hãy giảng rộng lời Ngài dạy vì đức Phật đau lưng cần nghỉ ngơi chút đỉnh. Đoạn Ngài gấp tư y Uất đa la tăng (C: Yu-to-lo-sêng; P: Uttarà-sanga) mà trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (C: Sêng-chia-li; P: Sanghàti) làm thành một cái gối và nằm xuống hông bên phải, hai ống chân xếp chồng lên nhau, thiền định về quang tướng với chánh niệm tỉnh giác và luôn luôn nghỉ đến lúc thức dậy (69). Nhưng bản P chỉ nói rằng bậc Thiện thệ (Sugata) từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Trong bản C, Thượng tọa Xá-lợi-tử yêu cầu các Tỳ-kheo giải thích lời dạy vắn tắt của Phật, và hai Tỳ-kheo cố trả lời nhưng không thỏa đáng. Trong bản P, không có lời vắn tắt của Phật và sự trả lời của các Tỳ-kheo, mặc dù Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đặt câu hỏi ấy. Sau khi Tôn giả Xá-lợi-tử giải thích xong, đức Thế tôn đã bớt đau lưng, cảm thấy dễ chịu, bèn ngồi dậy khoanh chân kiết già và ca ngợi Tôn giả Xá-lợi-tử. Những chi tiết này không có trong bản P.

Trong NC số 95, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử đọc một bài kệ tóm tắt bài giảng của Ngài, còn bản P bỏ bài kệ nhưng lập lại lời công bố của sự chuyển Pháp luân tại Ba La Nại, Chư thiên đọa xứ, vườn Nai, lúc mở đầu kinh.

b) Tôn giả Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) khai diễn:

Trong NC 15, đức Phật gặp một người gậy cầm tay tên Sakya muốn hỏi mục đích của giáo lý Ngài. Sự trả lời của đức Phật không làm ông ta thỏa mãn, ông ta không chấp thuận cũng không bác bỏ, đã cất cao đầu và bỏ đi. Trong bản P, bỏ câu "không chấp thuận không bác bỏ", nhưng thêm rằng "ông ta thụt lưỡi, nhíu mày tạo nên ba đường nhăn và tựa mình trên cây gậy". Trong bản C, chính đức Phật đưa ra ví dụ viên mật trong khi bản C lại nói là Tôn giả A Nan. Bản P bỏ chỗ nói Tôn giả A Nan đứng sau lưng đức Phật tay cầm phất trần. Bản P cũng bỏ lời đức Phật khích lệ các Tỳ-kheo ở cuối kinh.

Trong NC 87, Tôn giả San-mi-t'i(Samiddhi) đi đến suối nóng để tắm, khi tắm xong, ông ta gặp một vị tiên có dung sắc hoan hỷ đến đảnh lễ ngài và hỏi ngài có biết bài kệ Nhất dạ hiền giả (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta). Vị Tỳ-kheo nói không biết, vị tiên bảo rằng đức Thế tôn có biết bài kệ rồi khuyên Tỳ-kheo nên đi đến xin Thế Tôn giải thích. Rồi vị tiên đảnh lễ vị Tỳ-kheo, đi quanh ông ba vòng rồi biến mất. Bản Pali thêm rằng vị tiên chiếu sáng cả Tapodà với hào quang rực rở của mình nhưng bỏ qua chyện hỏi vị tỷ kheo về câu kệ và lời khuyên của vị tiên đi đến Thế Tôn. Bàn Pali chỉ đề cập rằng vị tiên khuyên vị tỷ-kheo nên học, tinh thông và ghi nhớ câu kệ đó ở trong lòng. Rồi vị tiên biến mất mà không có đảnh lễ và đi quanh vị tỷ-kheo ba vòng. Bản C nói tên của vị trời này là Chêng-tien, một vị binh tướng trong cõi trời 33, nhưng bản P bỏ chi tiết ấy.

4. Đức Phật thuyết pháp để đối phó các tông phái ngoại đạo :

Trong NC 39 và NC 65, đức Phật bác bỏ quan điểm của Ni Kiền Tử (Jainas); trong NC 6 và NC 61, 62, 64, Ngài bác bỏ lý thuyết và thực hành của những người bà la môn; và trong NC 10, 48, 50, 51, 52, Ngài đối phó với những du sĩ (paribbàjakas).
a) Đối phó với Ni Kiền Tử :

Trong NC 39, Ch'ang-k'u-hsing (Dìghatapassi), Ni Kiền Tử bện tóc có một cuộc đàm luận với Phật, trong đó ông ta trình bày lý thuyết của Ni Kiền Tử (Ch'in-tzu) về hình phạt và vai trò chính yếu của thân phạt trong bất cứ hành vi tội lỗi nào. Nhưng đức Phật trình bày lý thuyết của Ngài về nghiệp và vai trò chính yếu của ý nghiệp trong bất cứ tà hạnh nào. Ni Kiền Tử bện tóc thuật lại cuộc đàm thoại ấy cho thầy của mình (Ch'in-tzu) trước mặt Ưu Ba Ly (Yu-p'o-li). Trong khi ở bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) lặp lại lời ca tụng của Ni Kiền Tử (Nàtaputta) tán dương Bện tóc (Dìgha-tapassi) và tỏ ý sẵn sàng đến đối chất với đức Phật, bản C thêm rằng Ưu ba ly cùng đi với 500 cư sĩ trong hội chúng. Ông ta chắp tay hướng về Ni Kiền Tử và hỏi Bện tóc có phải ông ta đã thực sự hạ Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) ba lần trong vấn đề này. Khi Bện tóc trả lời phải, Ưu Ba Ly nói : vậy thì ông ta cũng có thể đánh bại Sa-môn Cồ Đàm trong vấn đề này và kéo ông ta xuống. Khi ấy Ưu Ba Ly đến thách thức đức Phật, trước sự chấp thuận của vị thầy Ni Kiền Tử và trước sự sợ hãi, bất đồng của Bện tóc. Đức Phật với bốn ví dụ đã làm cho Ưu Ba Ly đổi ý và theo quan điểm của Ngài. Trong ví dụ thứ tư, khi đức Phật hỏi ai đã khiến cho những nơi thanh tịnh này trở thành thanh tịnh, theo bản C, Ưu Ba Ly im lặng một lát, và khi đức Phật hỏi lại một lần nữa, ông ta đã trả lời rằng, không phải ông muốn giữ im lặng, mà chính ông đang nghĩ đến một điều. Ông nghĩ rằng Ni Kiền Tử (Ni-chien) thật điên rồ, ngu si và đã lừa bịp ông ta trong một thời gian dài. Trong bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) trả lời ngay rằng những khu rừng này Kandaka, Kàlinga, Mejjha Màtanga trở thành rừng là do những ý tưởng sân hận của những vị trông coi những khu rừng đó. Ở cuối bài kinh, bản C thêm rằng Ưu Ba Ly đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu, còn Ni Kiền Tử hộc máu tươi, phải đi đến Po-ho (Pàvà) và bệnh chết ở đấy. Bản P bỏ chi tiết về cái chết của Ni Kiền Tử và chỉ nói ông ta hộc ra máu tươi.

b) Đối phó với cách tu và quan điểm của các bà la môn :

Trong NC 6, đức Phật bác bỏ tập tục tắm nước thiêng của những người bà la môn, được xem là để rửa sạch tội lỗi. Kinh C93,Thủy tịnh Phạm chí,nhắc đến bà la môn Thủy Tịnh (Shui-ching) ngay ở đầu kinh, trong khi P7, Ví dụ tấm vải,chỉ nói đến sự hiện diện của bà la môn Sundarika-bhàradvàja vào cuối bản kinh. Trong bản C, vị bà la môn ấy xin quy y Tam bảo và xin Phật nhận ông làm đệ tử. Nhưng trong bản P, Sundarika Bhàradvàja xin đức Phật cho ông được xuất gia và thọ đại giới. Khi lời yêu cầu của ông được chấp thuận, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đã đắc quả A-la-hán.

Trong NC 61, kinh C151, Phạm chí A nhiếp hòa,nói rằng một số đông bà la môn tại Chu-sa-lo (Kosala) tụ tập trong giảng đường và đang bàn bạc lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm (Ch'u-t'an) về sự thanh tịnh của bốn giai cấp, trong khi họ tuyên bố rằng chỉ có giai cấp bà la môn là cao nhất và thanh tịnh nhất. Họ chọn thanh niên bà la môn tên A Nhiếp Hòa (A-shê-ho-lo-yen-to) đến chất vấn đức Phật. Nhưng kinh P93, Assalàyana,nói rằng 500 bà la môn thuộc nhiều vùng khác nhau đến Xá Vệ vì một vài công việc, và họ chỉ nhắc đến lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Có thêm rằng thanh niên Assalàyanamới 16 tuổi, đầu tóc cạo. Trong bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa nhận lời bằng cách im lặng, trong khi ở bản P, Assalàyana nói rằng quả thật Sa-môn Gotama nói phù hợp với pháp (dhamma), và thật khó mà tranh luận với người nào nói đúng pháp, và anh ta cũng không thể tranh luận với Sa-môn Gotama. Tuy thế anh ta cũng sẽ ra đi như được yêu cầu. Sau khi nghe những luận cứ của đức Phật, theo bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa muốn đảnh lễ Phật nhưng hội chúng la lớn tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục. Đức Phật biết tâm họ nên bảo thanh niên hãy trở về chỗ ngồi, dạy rằng chỉ cần tâm anh ta vui mừng là đủ. Rồi đức Phật giảng pháp làm cho anh ta hoan hỷ, thích thú, phấn chấn. Bản P chỉ nói rằng Assalàyana thốt lên rằng thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, rồi xin đức Phật nhận mình làm đệ tử từ nay cho đến trọn đời.

Trong NC 64, kinh P 99, Subha,có thêm một cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì, bà la môn hỏi Subha từ đâu đến và hỏi về trí tuệ của Sa-môn Gotama. Sự trả lời và những lời ca tụng của Subha đã khiến bà la môn xuống khỏi chiếc xe bạch mã, trật vai áo, chắp tay hướng về đức Thế tôn và bảo rằng thật là lợi ích lớn, thật là tốt cho vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) xứ Kosala vì có Như lai (Tathàgata) sống trong vương quốc của nhà vua. Bản C bỏ cuộc gặp gỡ này.

c) Đối phó với các ngoại đạo khác :

Trong NC 10, theo kinh C 99, Khổ ấm, các Tỳ-kheo sau khi ngọ trai xong đã tụ họp tại giảng đường vì một vài công việc. Tại đây có một số lớn tín đồ ngoại đạo đến chất vấn họ. Trong kinh P13, Đại khổ uẩn, thì các Tỳ-kheo khi vào thành Xá Vệ (Sàvatthi) khất thực, thấy hãy còn sớm nên đến trú xứ của các du sĩ (paribbàjakas), và cuộc đàm luận đã xảy ra.

Trong NC48, Hsu-hsien-t'i(du sĩ Màgandiya) trông thấy đệm cỏ của Phật ngồi trong nhà bà la môn P'o-lo-p'o (Bhàradvàjagotta) thì rất khó chịu và lên án đức Phật là một người phá hoại (Huai-pai-ti: )(70) . Bà la môn Bà La Bà (P'o-lo-p'o) cảnh cáo du sĩ Hsu-hsien-t'ođừng có nói xấu đức Phật, nhưng du sĩ nói rằng ông cũng sẽ nói như vậy ngay trước mặt Sa-môn Cồ Đàm. Trong kinh C 153,Man nhàn đề, đức Phật lúc ấy đang ngồi thiền trong một ngôi rừng xa; với thiên nhĩ, Ngài nghe được lời ấy nên đi đến nhà Bà la môn Bà-la-bà kia trải tọa cụ ngồi kiết già. Khi bà la môn ra chào, đức Phật hỏi có phải thật ông ta có đàm thoại với du sĩ về đệm cỏ của Ngài không. Bà la môn nói ông muốn báo cho Phật biết nhưng Phật đã biết trước rồi. Ngay lúc ấy du sĩ đến, và cuộc đàm luận xảy ra. Bản P bỏ tất cả chi tiết Phật mang theo tọa cụ và trải ngồi, đẹp đẽ và rực rỡ như trăng sao; nhưng thêm rằng du sĩ Bhàradvàjagotta bị dao động lông tóc dựng ngược khi nghe nói đức Phật đã biết được tư tưởng của mình. Trong bản C, sau khi đức Phật giảng pháp, du sĩ đạt được Pháp nhãn ly trần vô cấu. Rồi ông ta xin Phật cho phép xuất gia học đạo và thọ giới Tỳ-kheo. Rồi đức Phật truyền giới cho ông ta, nói rằng: "Lành thay, Tỷ kheo, hãy sống đời sống phạm hạnh." Sau khi xuất gia làm tỷ-kheo, Hsu-hsien-t'i đắc quả A-la-hán. Bản P bỏ chi tiết du sĩ Màgandiya được Pháp nhãn; nhưng thêm sự tán thán của Màgandiya như thường lệ và xin quy y Tam bảo của ông ta. Ở đây cũng vậy, Màgandiya xin đức Phật cho ông ta thọ giới Tỳ-kheo. Phật bảo những người thuộc giáo phái khác cần trải qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết rõ sự khác nhau giữa những con người, và Ngài đã cho phép Màgandiyaxuất gia làm Tỳ-kheo. Bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn, và kết luận rằng Trưởng lão Màgandiya trở thành một vị A-la-hán nữa.

Trong NC số 52, Bệ Ma Na Tu (C: Pei-mo-na-hsiu; P: Vekhanassa) nói với đức Phật về dung sắc "vanna" tối thượng. (Danh từ Pàli vanna,dịch là dung sắc, được sử dụng ở đây với hai nghĩa, màu sắc và giai cấp xã hội, nhưng danh từ dung sắc trong Hoa ngữ thì rõ ràng không có hai nghĩa như thế). Nhưng đức Phật nêu lên sự trống rỗng của một quan điểm như vậy. Bản C thêm một đoạn trong đó Bệ Ma Na Tu tỏ thái độ hối hận im lặng hổ thẹn cúi đầu. Khi Bệ Ma Na Tu ca tụng sự giải thích của Phật, Phật ngăn ông lại, bảo rằng vì thuộc vào một quan điểm khác, ông ta không thể hiểu được lời giảng dạy của Ngài, Bệ Ma Na Tu phẫn nộ mạ lỵ đức Phật. Kinh Pali Vekhanassacũng tương tự nhưng bỏ chi tiết Phật ngăn lại. Rồi Phật dùng ba ví dụ (bản P chỉ có một) làm sáng tỏ giáo lý của Ngài và cuối cùng cảm hóa được Bệ Ma Na Tu. Ở đây bản C nói Bệ Ma Na Tu đắc Pháp nhãn vô cấu và xin Phật xuất gia. Sau khi xuất gia, ông nỗ lực tinh tiến và đắc quả A-la-hán. Trong bản P, Vekhanassa tán thán sự giảng dạy của Phật như thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia.

5. Phật thuyết pháp cho đệ tử:

Có 28 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho một Tỳ-kheo, NC 5;
- Cho một số Tỳ-kheo, NC 22,74;
- Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula), NC 40;
- Cho Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta), NC 41,42;
- Cho A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anurudha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya), Kim Tỳ La (C: Chin-p'i-lo; P: Kimbila), NC 25,45,83;
- Cho Ma-ha-nam (Mahànàma), NC 11;
- Cho Mou-li-p'o-ch'un-na(Moliyaphagguna), NC 18;
- Cho Bạt-đà-hòa-lợi (C: Po-t'o-ho-li; P: Bhaddàli), NC 43;
- Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì), NC 44;
- Cho A Nan, NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98;
- Cho A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chouna; P: Cunda), NC 66;
- Cho A Nan và nhiều Tỳ-kheo, NC 77;
- Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla), NC 54;
- Cho Fou-mi(Bhùmija), NC 81;
- Cho Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya), NC 88;
- Cho San-mi-t'i (Samiddhi), NC 90;
- Cho Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti), NC 94;
- Cho Đại Chu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda), NC 7;
- Cho chú tiểu A-i-na-ho-t'i(Aciravata), NC 80.

a) Cho một vị Tỳ-kheo:

Trong NC 5, (P6,kinh Ước nguyện = C 105,kinh Nguyện) có một Tỳ-kheo trong lúc ngồi nơi vắng vẻ, đã tư duy về lợi ích lớn của Phật đối với mình, đã rời chỗ ngồi đứng lên đi đến nơi Phật. Đức Thế tôn sau khi trông thấy Tỳ-kheo này, đã nhân vì ông mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo. Bản P bỏ hoàn cảnh đặc biệt này. Phật thuyết pháp không có một dẫn nhập nào cả.

b) Cho một số Tỳ-kheo:

Trong NC 22 (P26, Thánh cầu = C204,La ma) , Phật đang ở Lộc Mẫu giảng đường (Lu-tzu-mu). Vào buổi chiều, Ngài rời khỏi tòa ngồi đứng lên, từ trên lầu đi xuống và bảo Trưởng lão A Nan cùng đi tắm ở sông A-i-lo-p'o-t'i (Aciravati). Rồi Trưởng lão A-nan cầm chìa khóa đi đến các Tỳ-kheo đang ở trong những chòi của họ và bảo họ đi đến nhà bà la môn La Ma (C: Lo-mo; P: Rammaka). Khi ấy đức Phật và Trưởng lão A Nan xuống sông tắm. Sau khi tắm xong, Phật lên khỏi nước, lau khô thân thể và mặc y. Bản P khởi đầu với đức Phật ở tại Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Rồi đức Phật đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Nhiều Tỳ-kheo đi đến Tôn giả A Nan, thưa rằng họ muốn được trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, vì đã lâu họ không có được cơ hội ấy. Tôn giả A Nan bảo họ đi đến nhà bà la môn Rammaka. Khi Phật khất thực về và dùng bữa xong, Ngài cùng Trưởng lão A Nan đi đến Pubbàràma ở vườn của Lộc Mẫu (Migaàramàtu) để nghỉ ban ngày. Vào buổi chiều Phật ra khỏi độc cư thiền tịnh rồi cùng với Trưởng lão A Nan đi đến Pubbakotthaka để ngâm chân tay. Sau khi tắm rửa, Phật ra khỏi nước, đứng trên bờ với một tấm y (cìvara) độc nhất để phơi tay chân. Rồi theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Phật đi đến nhà Lo-mo (Rammaka) để thuyết pháp.

c) Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula) :

Trong NC 40, C14, La vân kinh, khi đêm đã tàn, vào sáng sớm Phật đi vào thành Vương Xá (Wang-shê) khất thực. Sau khi ăn xong, Ngài đi đến rừng Suối nóng, nơi có Tôn giả La Vân. Tôn giả La Vân trông thấy Phật từ xa đến, đi ra đón Ngài, cầm lấy y bát, trải tọa cụ và lấy nước rửa chân. Đức Phật rửa chân xong, ngồi trên chỗ ngồi của La Vân đã soạn sẵn. Trong P61, Ambalatthikàràhulovàda,đức Phật vào buổi chiều ra khỏi độc cư thiền tịnh, đi đến Ambalatthikà, nơi Tôn giả Ràhula ở. Tôn giả Ràhula, khi thấy đức Phật từ xa đến, đã sửa soạn chỗ ngồi và nước rửa chân nhưng không đi ra đón Ngài và đỡ lấy y bát. Đức Phật ngồi trên chỗ đã soạn và rửa chân. Để quở trách Tôn giả La Vân, đức Phật đã chỉ một ít nước còn trong chậu, rồi đổ nó đi, lật úp cái chậu và lật ngửa trở lại, và cứ mỗi lần như thế Ngài răn dạy Tôn giả. Bản P thêm một thái độ thứ năm của đức Phật là chỉ ra sự trống rỗng trong cái chậu lật ngửa và tuyên bố rằng cũng trống rỗng như thế là hạnh Sa-môn của người cố ý nói dối mà không biết hổ thẹn.

d) Cho Tôn giả Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta) : NC 41, NC 42:

Trong NC 42 (P64,Mahàmàlunkya, Đại kinh Màlunkya = C205, Ngũ hạ phần kết), đức Phật quở trách Man-đồng-tử về sự hiểu sai của ông đối với năm kiết sử trói buộc con người vào đọa xứ và Man-đồng-tử tỏ thái độ hối hận. Khi ấy Tôn giả A Nan đang đứng sau đức Phật và quạt cho Ngài, đã yêu cầu đức Phật giải thích năm kiết sử, và đức Phật đã chấp thuận lời yêu cầu của Tôn giả A Nan. Trong bản P, đức Phật không công khai quở trách Màlunkyaputta. Cũng không có thái độ hối hận của Màlukyaputta, không có chi tiết về Tôn giả A Nan đứng sau lưng Phật và quạt cho Ngài.

e) Cho Tôn giả A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha), Nan Đề (C: Nan-t'i; P: Nandiya) và Kim Tỳ La (C:Chin-p'i-lo; P: Kimbila): NC 25, 45, 83:

Không có nhiều khác biệt giữa hai bản trong NC 25 (P31, Tiểu kinh rừng Sừng bò=C 185, Ngưu giác sa la lâm kinh) và NC 45 (P68, Nalakapàna = C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh).

Trong NC 83, theo bản C 72,Trường thọ vương bản khởi kinh,muốn giảng hòa các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di (C: Chu-shê-mi; P: Kosambì), Phật đã kể câu chuyện dài về sự tha thứ của vua Phạm chí (C:Fan-mo-ta-to; P: Brahmadatta) cho vua Trường thọ (C: Ch'ang-shou; P: Dìghìti), nhưng câu chuyện này không có ảnh hưởng gì các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di. Khi ấy đức Thế tôn đọc lên một bài kệ cho thấy rõ sự vô vọng, ngu ngốc của gây gỗ và xúc phạm nhau. Kinh P128 không giống. Kinh này cũng nói các Tỳ-kheo ở Kosambì (Câu Xá Di) tranh chấp nhau, đã thương nhau với binh khí miệng lưỡi, nhưng thêm rằng một Tỳ-kheo đến tường thuật sự việc với đức Thế tôn và Ngài đã đến khuyên bảo họ đừng gây nhau. Ba lần đức Phật khuyên bảo, và cả ba lần đều có một Tỳ-kheo yên cầu Ngài đừng can thiệp vì họ sẽ chịu trách nhiệm về cuộc gây gổ này. Ở đây bản P bỏ câu chuyện về vua Phạm chí. Theo bản C, đức Thế tôn, sau khi đọc bài kệ đã vận thần thông bay lên không để đi đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo). Tại đấy có một Tỳ-kheo tên Bà Cửu (C: P'o-chiu; P: Bhagu) đêm ngày chuyên tâm thiền định và Phật đã giảng pháp cho ông. Sau đó Ngài vào rừng Hộ Tự (Hu-szu) ngồi kiết già dưới một gốc cây, tại đó Ngài gặp một con voi chúa cũng đi tìm sự cô tịch để thoát ly những huyên náo của đàn voi. Bản P chỉ nói đức Phật gặp Tỳ-kheo Bhagu, không nói gặp con voi; cũng không có chi tiết đức Phật bay trên không. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

f) Cho Tôn giả Ma-ha-nam (C: Mo-ho-nan; P Mahànàma) :

NC 11: (P14, Tiểu kinh khổ uẩn = C100, Khổ ấm kinh):

Hai bản gần giống nhau.

g) Cho Moliya (C: Mou-li-p'o-ch'un-na; P: Moliyaphagguna):

NC 18: (P21, Ví dụ cái cưa = C193, Mâu lê phá quần na):

Hai bản gần giống nhau.

h) Cho Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi (C: P'o-t'o-ho-li; P: Bhaddàli) :

NC 43: (P 65, Bhaddàli= C 194, Bạt-đà-hòa-lợi) :

Hai bản gần giống nhau.

i) Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì) :

NC 44: (P 66 Ví dụ con chim cáy = C192, Ca lâu ô đà di):

Không có gì khác nhau lắm giữa hai bản kinh. Trong khi bản C nói về một Tỳ-kheo nào đó đi khất thực về đêm, bản P nói rõ chính là Ưu-đà-di.

j) Cho Tôn giả A Nan:

NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98:

Trong NC 53, (P81,Ghatikara= C63,Bệ bà lăng kỳ), NC 67 ( P106, Bất động lợi ích = C75, Tịnh bất động đạo kinh), hai bản gần giống nhau. Trong NC 55, kinh C67,Đại thiên nại lâm, dịch từ Ta-t'iencó nghĩa là "Mahàdeva: Đại-thiên" trong khi P83, kinh Makhàdeva Makhàdeva.

Trong NC 72, (P115,Bahudhàtuka= C181,Đa giới kinh), Tôn giả A Nan trong lúc ngồi thiền đã có được tri kiến rằng tất cả sợ hãi, rối ren, tai nạn, sầu ưu đều do vô minh, không do trí tuệ. Tôn giả trình bày ý tưởng ấy với đức Phật và Ngài đồng ý, đưa ra một định nghĩa về một Tỳ-kheo ngu si và một Tỳ-kheo có trí tuệ. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả A Nan ngồi thiền, thuật ý tưởng của mình cho đức Phật và sự chấp thuận của đức Phật. Ở đây đức Phật gọi các Tỳ-kheo và dạy rằng mọi sợ hãi, rắc rối, tai nạn đến với người ngu, không phải với người trí. Rồi Ngài khuyên các Tỳ-kheo hãy tu tập để trở thành có trí tuệ nhờ trạch pháp. Ở đây bản P thêm Trưởng lão A Nan hỏi đức Phật đến mức nào thì đủ để gọi là một Tỳ-kheo có trí nhờ trạch pháp.

Trong NC 78, (P123, Acchariyabbhutadhamma= C32, Vị tằng hữu pháp), Tôn giả A Nan sau khi ra khỏi thiền định vào buổi chiều đi đến đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên và kể ra những đức tính kỳ diệu của đức Phật. Trong bản P, một số đông Tỳ-kheo sau khi khất thực về ăn xong, tụ họp trong giảng đường và ca tụng đức Như lai (Tathàgata) thật kỳ diệu, có thần thông, biết được chư Phật về trước. Tôn giả A Nan xác nhận lời các Tỳ-kheo nói chư Như lai có nhiều đức tính kỳ diệu. Câu chuyện này được Phật cắt ngang lúc Ngài vừa ra khỏi độc cư thiền tịnh. Ngài hỏi các Tỳ-kheo đang đàm luận về điều gì, họ trình lại với Phật, khi ấy Phật bảo Tôn giả A Nan kể lại những đức tính kỳ diệu của đức Thế tôn.

Trong NC 98, ( P148, Chachakka = C86, kinh Thuyết xứ ), Tôn giả A Nan vào buổi chiều ra khỏi thiền định, đưa các Tỳ-kheo trẻ cùng đi đến đảnh lễ Phật và hỏi đức Thế tôn làm thế nào để dạy dỗ, khích lệ các Tỳ-kheo trẻ. Rồi Đức Phật giảng nhiều pháp môn cho những tỷ kheo trẻ. Bản P hoàn toàn không có chi tiết Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo trẻ, chỉ nói đức Phật cho gọi các Tỳ-kheo rồi giảng pháp.

k) Cho Tôn giả A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chou-na; P: Cunda) :

NC 66: ( P104, kinh Làng Soma= C196,Châu na kinh).

l) Cho Tôn giả A Nan và nhiều Tỳ-kheo:

NC 77: (P122, Mahàsunnatà= C191, Đại không kinh):

Cả hai bản dịch gần giống nhau trong NC 66, 77.

m) Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla) :

NC 54: (P82, Ratthapàla= C132, Lại-tra-hòa-la kinh):

Câu chuyện Lại-tra-hòa-la không giống nhau trong hai bản. Lại-tra-hòa-la nghe đức Phật thuyết pháp, xin xuất gia, đức Phật từ chối vì chưa có phép cha mẹ, cha mẹ không bằng lòng cho xuất gia, Lại-tra-hòa-la tuyệt thực để gây áp lực đối với cha mẹ, cha mẹ nhượng bộ, Lại-tra-hòa-la xuất gia thọ giới và đắc quả A-la-hán, tất cả những chi tiết này đều giống nhau trong hai bản. Khi ấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la vào sáng sớm cầm y bát đi vào làng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) để khất thực, nghĩ đến đức Thế tôn khen ngơi hạnh tuần tự khất thực nên ông đi từng nhà và đến nhà cha, lúc ấy người cha đang tỉa râu tóc, khi trông thấy Tôn giả ông nói: "Bọn Sa-môn trọc đầu này chuyên làm việc hắc ám, không có con, không người kế tự, những kẻ phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con trai yêu quý, nhưng chúng đã đem đi mất và cạo trọc đầu nó, đừng cho Sa-môn này cái gì để ăn cả." Thế là Lại-tra-hòa-la không nhận được một sự bố thí nào từ nhà cha mình, ngoại trừ lời chưởi rủa. Khi ấy một người tớ gái đem ra một rỗ đầy thức ăn thối để đổ vào đống rác. Lại-tra-hòa-la trông thấy cô ta bèn yêu cầu đổ thức ăn ấy vào bát của mình. Khi người tớ gái đem đồ ăn đổ vào bát khất thực, cô nhận ra ngài nhờ giọng nói và chân tay. Cô đi vào báo cho người cha, được tin ông hết sức vui mừng. Tay phải cầm áo, tay trái vuốt râu tóc, ông vội vàng đi đến chỗ Lại-tra-hòa-la đang ngồi tựa vào một bức tường để ăn thức ăn đã thối. Người cha hỏi con trai sao có thể ăn được thức ăn thối ấy khi con ông vốn có thân thể mềm mại và đã quen với mỹ vị cao lương. Ông cũng hỏi con trai sao không đi vào nhà cha mẹ mình. Lại-tra-hòa-la trả lời ông có vào nhà cha mẹ, nhưng không nhận được gì ở đấy, ngoại trừ lời nguyền rủa. Người cha xin lỗi con trai, kính cẩn đưa ông vào nhà, trải chỗ và mời ngồi. Sau đó ông báo tin cho mẹ Lại-tra-hòa-la và bảo bà dọn cơm cho con. Bà vui vẻ đi làm thức ăn. Rồi bà chất một đống lớn những đồng tiền ra giữa sân, lớn đến nỗi một người đứng bên này không trông thấy người đứng bên kia. Rồi bà đi đến Lại-tra-hòa-la mà bảo đống tiền này là của mẹ dành cho ông, còn tiền của cha dành cho ông thì vô số, không thể đếm hàng trăm, hàng ngàn. Tất cả tiền này dành cho ông nếu ông hoàn tục. Lại-tra-hòa-la khuyên mẹ hãy đem tiền ấy đổ xuống sông vì chính do tiền này mà người ta trải qua đau khổ, tuyệt vọng. Khi ấy bà mẹ biết không thể đem tiền mà dụ ông hoàn tục. Rồi bà bảo những người vợ trước kia của ông mặc đồ đẹp và trang sức các chuỗi đeo cổ, đi đến nơi ông, ôm chân ông mà nói: "Hỡi người chồng tệ bạc, có những tiên nữ nào đẹp hơn chúng tôi để cho ông vì họ mà đi tu?" Những bà vợ cũ của Lại-tra-hòa-la theo lời chỉ dẫn của mẹ chồng. Nhưng Lại-tra-hòa-la gọi họ bằng chị và bảo ông xuất gia không phải vì tiên nữ nào hết, chỉ vì để được Phật pháp, và bây giờ mục đích của ông đã thành tựu. Những bà vợ đứng lên khóc lóc bảo rằng họ không phải chị nhưng Lại-tra-hòa-la lại gọi họ bằng chị. Khi ấy Lại-tra-hòa-la yêu cầu cha mẹ dọn đồ ăn ra vì đã đến giờ, chớ có phiền nhiễu ông nữa. Khi ấy cha mẹ ông đứng lên, đưa nước cho ông rửa tay và tự tay mình bồi tiếp những thức ăn mỹ vị. Sau khi ăn xong, Tôn giả Lại-tra-hòa-la giảng pháp cho cha mẹ, làm họ vui mừng hoan hỷ phấn chấn. Rồi ngài đứng lên đọc một bài kệ. Bản P hơi khác. Khi Ratthapàla đi đến Thullakotthita, bản P thêm rằng ông ở lại trong vườn nai của vua Kuru. Trong khi đi khất thực, Ratthapàla đi từng nhà, nhưng bản P bỏ chi tiết ông nghĩ đến đức Phật thường khen ngợi sự tuần tự khất thực. Khi Ratthapàla vào nhà cha mẹ, người cha đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa. Trong bản C, người cha mắng các Tỳ-kheo là bọn chuyên làm việc đen tối, không con cái, không kế tự, phá hoại gia đình mình. Bản P chỉ nói ông ta bảo đứa con trai yêu quý độc nhất đã bỏ nhà đi tu vì những Sa-môn trọc đầu này, và thế là Trưởng lão Ratthapàla tại nhà cha mẹ đã không nhận được của bố thí cũng không nhận được lời từ chối mà nhận được lời nguyền rủa. Ở đây thức ăn người nữ tỳ đem đổ là đồ ăn thừa của ngày hôm trước. Trong khi bản C nói người tớ gái đi vào báo thẳng với người cha, bản P nói nàng báo tin trước cho người mẹ và bà này kể lại với chồng. Bản P thêm rằng bà mẹ của Ratthapàla khi được tin ông trở về đã nói với người tớ gái rằng nếu tin này là đúng thì cô ta sẽ thoát vòng nô lệ. Bản P không nói đến thái độ của người cha vui mừng trước tin tức ấy. Khi người cha của Ratthapàla trông thấy con trai mình tựa lưng vào bức tường để ăn đồ ăn còn thừa ngày trước, ông đã hỏi : "Có thật là con đang ăn đồ thừa đấy không? Con hãy nên đi vào nhà của con." Và Ratthapàla đã trả lời rằng ông không có nhà vì đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình. Ông đã đi đến nhà gia chủ nhưng không nhận được bố thí hay sự từ chối mà nhận được sự nguyền rủa. Khi ấy người cha mời ông vào nhà nhưng Ratthapàla từ chối, nói rằng đã ăn xong. Khi ấy người cha mời ông đến để ăn bữa trưa ngày hôm sau, và ông đã im lặng nhận lời. Trong bản C, chính bà mẹ đã chất tiền thành từng đống và bảo các bà vợ cũ của ông trang sức. Trong bản P, người cha làm những việc ấy. Trong bản C, người mẹ đem tiền ra dụ rồi đến các bà vợ; nhưng trong bản P, người cha sử dụng cả hai phương pháp cùng một lúc. Trước hết ông chất một đống lớn tiền vàng và che khuất nó sau một bình phong. Rồi ông bảo các bà vợ trước của Ratthapàlatrang sức đẹp đẽ. Khi thức ăn đã sẵn sàng, ông cho mời Tôn giả và khi Ratthapàla ngồi xuống, ông mở cho thấy đống tiền vàng và bảo Ratthapàlarằng một đống của mẹ, một đống của cha, một đống của ông nội. Chàng có thể thừa hưởng của cải và thực hành những việc phước. Bởi thế ông yêu cầu con trai hãy từ bỏ đời sống phạm hạnh, trở về đời sống thế tục, hưởng thụ của cải và hành thiện. Sự trả lời của Ratthapàla, vai trò các bà vợ cũ cũng gần như trong bản C, ngoại trừ trong bản P, các bà vợ té xỉu xuống đất khi nghe Ratthapàla gọi họ bằng chị. Bản P bỏ chi tiết Ratthapàla giảng pháp cho cha mẹ. Theo bản C, Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) ngang qua hư không, đi vào rừng ngồi trên tọa cụ. Lúc ấy vua Câu Lao Bà (Chu-lao-p'o) ngồi với đình thần trong cung, đang ca tụng Lại-tra-hòa-la và tỏ ý muốn gặp Tôn giả. Rồi vua ra lệnh cho quan săn bắn sửa soạn rừng Thâu Lô Tra để đi săn. Khi viên quan đi vào rừng, trông thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la bèn trở về tâu vua, vua đi gặp Tôn giả. Khi Tôn giả thấy vua đến, ngài mời vua ngồi. Vua trả lời, mặc dù nơi này là sở hữu của vua, vua vẫn muốn được Tôn giả mời ngồi, và Tôn giả Lại-tra-hòa-la mời vua ngồi xuống. Vua hỏi phải chăng Tôn giả đi tu vì thiếu tiền, nếu vậy vua sẵn sàng cung cấp tất cả tiền bạc cần thiết để Lại-tra-hòa-la hoàn tục hưởng dục lạc, bố thí và làm các việc phước. Khi ấy Tôn giả bảo vua đã hiến cho mình những vật bất tịnh, không phải là tịnh pháp. Khi vua hỏi thế nào là hiến tịnh pháp, Tôn giả bảo vua nên nói xứ sở và thần dân của vua được hạnh phúc, không sợ hãi, không xáo trộn, không lo lắng, không bị làm nô lệ. Khi ấy vua nói muốn hiến cho Tôn giả tịnh pháp, không phải vật bất tịnh. Bản P không nói Ratthapàla bay trở về ngang qua hư không. Tôn giả chỉ trở về vườn Nai của vua Kuru, ngồi dưới một cây để nghỉ ban ngày. Bản P không nói vua Chu-lao-p'ongồi với đình thần trong cung, khen ngợi Tôn giả Ratthapàla và ngỏ ý muốn gặp ngài, mà chỉ nói vua sai người săn nai đi sửa soạn khu đất trong vườn Nai để vua đi ngắm cảnh. Người săn nai đến trông thấy Tôn giả đang ngồi dưới cây, về tâu vua, và vua sai thắng xe để đi gặp Tôn giả. Khi vua gặp Tôn giả, vua chào và mời Tôn giả ngồi trên tấm thảm lót lưng voi, nhưng Tôn giả từ chối và mời vua hãy ngồi lên đấy vì ngài đã có tọa cụ riêng. Ở đây bản P bỏ đoạn vua dụ Tôn giả từ bỏ đời sống phạm hạnh, như được tìm thấy trong bản C. Rồi vua hỏi những lý do đã khiến Ratthapàla sống đời phạm hạnh, và Tôn giả giải thích cho vua những lý do đã khiến ngài trở thành tu sĩ.

n) Giảng cho Tôn giả Phù Di (C: Fou-mi; P: Bhumija):

NC81: ( P126, Bhùmija= C173, kinh Phù Di ):

Tôn giả Phù Di ở trong thiền thất vô sự. Một buổi sáng, ông sửa soạn đi vào thành Vương Xá khất thực. Rồi ông hoãn việc khất thực mà đi đến nhà vương tử Kỳ Bà Tiên Na (Ch'i-p'o-hsien-na). Ở đấy, Tôn giả được vương tử chào đón một cách kính cẩn, mời ngồi và xin phép được hỏi Tôn giả. Sau khi được cho phép, vương tử đặt những câu hỏi và Tôn giả trả lời. Rồi vương tử mời Tôn giả ăn trưa, tự tay mang nước đến và phục vụ ngài với những thực phẩm hảo hạng. Sau khi ăn xong, vương tử ngồi xuống trên một chỗ ngồi thấp để lắng nghe thuyết pháp. Tôn giả thuyết pháp làm cho vương tử hoan hỷ, thỏa mãn, phấn chấn tinh thần bằng nhiều cách thuyết pháp. Khi bài pháp đã xong, Tôn giả đi đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ Ngài và kể lại cuộc đàm thoại với vương tử. Bản P bỏ chi tiết Tôn giả sửa soạn đi khất thực, hoãn việc khất thực, sự chào đón tôn kính của vương tử và xin phép đặt câu hỏi. Bản P chỉ nói Bhùmija vào buổi sáng đắp y cầm bát đi đến trú xứ vương tử Jayasenavà ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi vương tử đến chào ngài và hỏi những câu hỏi. Trong khi kinh C nói dông dài về chuyện vương tử mời dùng cơm, phục vụ Tôn giả với những đồ ăn thượng hạng, Tôn giả thuyết pháp cho vương tử; kinh P chỉ nói vương tử cúng dường Tôn giả cơm nấu với sữa. Sau khi kể lại cho đức Phật nghe cuộc đàm thoại này, bản P nói Tôn giả hỏi đức Phật, có phải khi được hỏi và trả lời như thế là ông đã nói đúng những gì Thế tôn đã dạy, không xuyên tạc lời Thế tôn. Và đức Phật hỏi Tôn giả vì sao không nói cho vương tử nghe về bốn ví dụ.

o) Giảng cho Tôn giả Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya):

NC88: (P134, Lomasakangiiya, Nhất dạ hiền giả = C166, Thích trung thiền thất tôn) :

Có một việc khác nhau quan trọng cần chú ý giữa hai bản dịch. Bản C nói đức Phật giảng bài kệ về Bạt địa la đế (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta) tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc, ở vườn Ca Lan Đà (Chia-lan-to), nhưng bản P nói đức Phật giảng bài kệ này tại cõi trời 33, giữa thiên chúng, ở gốc cây Pàricchattaka, trên Pandukambalasilà.

p) Giảng cho Tôn giả San-mi-t'i (Samiddhi):

NC 90: (P136, Đại nghiệp phân biệt = C171, Phân biệt đại nghiệp kinh):

Trong bản C, chính Tôn giả A Nan có tà kiến của Samiddhi và bị Phật quở. Nhưng trong bản P Tôn giả Ưu-đà-di (Udàyì) có tà kiến như Samiddhi và bị đức Phật quở trách.

q) Giảng cho Tôn giả Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti):

NC94: (P140, Giới phân biệt = C162,Phân biệt lục giới kinh):

Theo bản C, sau khi đức Phật giảng xong, Tôn giả Pukkusàtiđắc Pháp nhãn. Rồi ông thú nhận lỗi lầm đã gọi Phật bằng bạn và Phật nhận sự sám hối của ông. Ở đây bản P hoàn toàn khác. Tôn giả Pukkusàti cũng sám hối, và sau khi sám hối, còn xin đức Phật xuất gia làm Tỳ-kheo, nhưng đức Phật từ chối vì Tôn giả không có y bát sẵn sàng. Trong lúc đi tìm y bát, Tôn giả bị bò húc chết. Những Tỳ-kheo đưa tin ấy đến Phật và bạch hỏi về cảnh giới tương lai của Pukkusàti. Đức Phật trả lời Pukkusàti đã đoạn trừ năm kiết sử, đã hóa sinh và đạt Niết-bàn (Nibbàna) ngay ở đấy, không còn trở lui đời này. Tất cả những chi tiết này không có trong bản C.

r) Giảng cho Đại Châu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda) :

NC7: (P8, Đoạn giảm = C91, Châu na vấn kiến kinh) :

Hai bản kinh gần giống nhau.

s) Giảng cho sa di A-i-na-ho-t'i (Aciravata):

NC80: (P125, Dantabhùmi= C198,Điều ngự địa):

Hai bản dịch không có gì khác nhau đáng chú ý.

6. Đức Phật thuyết pháp cho tu sĩ và những người khác :

Có 10 NC rơi vào loại này:
- Giảng cho Kiều-đàm-di (Ch'u-t'an-mi) : NC96: (P142,Dakkhinà-vibhanga = C180,Cù đàm di kinh);
\
- Giảng cho bà la môn Sinh Văn (Shêng-wên): NC23: (P27, Ví dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ kinh) ;
- Giảng cho Po-li-to (Potaliya) : NC38: (P54,Potaliya= C203, Bổ lợi đa kinh);

- Giảng cho Tiễn Mao (Chien-mao): NC49: (P77,Mahàsakuludàyi = C207, kinh
Tiễn mao);

- Giảng cho vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) : NC56: (P87,Piyajàtika= C216,Ái sinh); NC58: (P89,Dhammacetiya = C213, Pháp trang nghiêm); NC59: (P90,Kannakatthala= C 212, Nhất thiết trí kinh);

- Giảng cho bà la môn Phạm Ma (Fan-mo): NC60: (P91, Brahmàyu = C161, kinh Phạm ma)

- Giảng cho bà la môn Toán số Mục-kiền-liên (Suan-shu-mu-chien-lien) : NC68 : (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên kinh);

- Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu): NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

a) Giảng cho Kiều-đàm-di (C: Ch'u-t'an-mi; P: Gotamì),NC96: Hai bản gần giống nhau.

b) Giảng cho bà la môn Sinh Văn ((C: Shêng-wên; P: Jànussonì),NC23:

Tỳ Lô (Pei-lu), một tín đồ ngoại đạo sau khi nghe đức Thế Tôn giảng trở về gặp bà la môn Sinh Văn đang đi trong một cỗ xe toàn trắng với 500 đệ tử ra khỏi thành Xá Vệ để đến một nơi vắng vẻ và đọc kinh điển. Bản P bỏ đoạn Tỳ Lô đi đến đức Phật và được Ngài thuyết pháp, đề cập trực tiếp bà la môn Jànussonì sáng sớm ngồi trong xe do ngựa trắng kéo, gặp du sĩ Pilotika từ xa đến và nói chuyện. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.

c) Giảng cho Bổ Lợi Đà (C: Pu-li-to; P:Potaliya),NC38:

Theo bản C, gia chủ Bổ Lợi Đà vận y phục trắng sạch, đầu quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù, mang giày thế tục đi ngao du. Khi gặp Phật, đầu tiên ông bỏ cây gậy, tháo giày, rồi mở dãi khăn trắng ra. Trong bản P, Potaliya được mô tả là ăn mặc bảnh bao, đi giày cầm dù, nhưng không có những chi tiết khác. Ông không bộc lộ những vẻ cung kính bên ngoài như được thấy trong bản C. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Potaliya được con mắt pháp thanh tịnh, lặp lại ba lần xin quy y Tam bảo và được nhận làm đệ tử tại gia. Bản P không nói Potaliya đắc Pháp nhãn. Ông chỉ bày tỏ sự tán thán như thường lệ và xin quy y Tam bảo, xin được nhận làm đệ tử Phật.

d) Giảng cho Tiễn Mao (C: Chien-mao; P: Sakuludàyì),NC49:

Trong khi bản C nói Phật sau khi ăn xong đi đến vườn chim công, bản P nói Phật vào thành Vương Xá (Ràjagaha) khất thực, nhưng thấy còn quá sớm nên Ngài đi đến vườn chim công. Bản P bỏ chi tiết Sakuludàyi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp vai chừa ra một bên, chắp tay hướng về Phật, nhưng thêm rằng Sakuludàyi lấy một ghế thấp ngồi bên cạnh. Sau khi Phật thuyết pháp, Tiễn Mao ca tụng bài pháp của đức Phật vi diệu, hy hữu, làm ông khoan khoái, như mật ngọt, như nước mưa trên trời rơi xuống thấm khắp những vùng đất cao và thấp. Rồi ông xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Đoạn này không có trong bản P.

e) Giảng cho vua Ba-tư-nặc (C: Po-ssu-ni; P: Pasenadi),NC 56, 58, 59:

Cả hai bản gần giống nhau, chỉ có thêm bớt vài chi tiết nhỏ. Trong NC56, theo kinh C216, Ái sinh, vua Ba-tư-nặc sai bà la môn Na Lị Ương Già (C: Na-li-yang-chia; P: Nàlijangha) đi đến đức Phật, trước hết hỏi thăm sức khỏe của Ngài, rồi hỏi quan điểm của Ngài. Trong kinh P90, Piyajàtika,hoàng hậu Mallikà phái bà la môn Nàlijangha đi đến đức Phật, trước hết đảnh lễ và hỏi thăm sức khỏe, sau xin Ngài giải thích quan điểm của Ngài.

f) Giảng cho Bà la môn Phạm Ma (C: Fan-mo; P: Brahmàyu),NC 60:

Hai kinh gần giống nhau. Những dị biệt sau đây cần chú ý: Về lưỡi dài rộng, theo kinh C161, trùm khắp mặt đức Phật, trong kinh P91, đức Phật đưa lưỡi ra sờ đến hai mang tai, hai lỗ mũi và bao trùm khắp mặt và trán. Trong kinh C, Ưu Đa La (Yu-to-lo) xin phép bà là môn Phạm Ma xuất gia với Sa-môn Cù Đàm (Ch'u-t'an) và bà la môn đồng ý. Và Ưu Đa La thọ đại giới với đức Phật. Những chi tiết này không có trong bản P. Trong bản C, bà la môn Phạm Ma muốn đảnh lễ đức Phật, nhưng chúng đông gia chủ và bà la môn hô lớn lời hoan nghênh và thán phục. Đức Phật biết tâm của hội chúng, bảo Phạm Ma hãy trở về chỗ ngồi. Rồi Ngài thuyết pháp cho ông, làm cho ông hoan hỷ, phấn khởi, hài lòng. Sau khi đức Phật thuyết pháp, Phạm Ma được Pháp nhãn. Rồi ông đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu dưới chân đức Phật, xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử. Trong bản P, bà la môn thực sự đảnh lễ Phật, sửa thượng y chừa lại một vai, hôn quanh chân Phật, dùng hai tay vuốt khắp chân Phật và cho biết tên của ông, nhưng không bị chúng hội ngăn chận.

g) Giảng cho Toán số Mục-kiền-liên (C: Suan-shu-mu-chien-lien; P: Ganakamoggallàna),NC 68: Hai bản gần giống nhau.

h) Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (C: Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu; P: Subha mànava Todeyyaputta),NC 89: Kinh C170 khởi sự với câu chuyện về con chó, đời trước là cha của Đô Đề (Todeyya), trong khi P135 hoàn toàn loại bỏ chi tiết này.

7. Sự thảo luận giữa các Tỳ-kheo

Có 3 NC thuộc về loại này :
NC20 : (P24, Trạm xe = C9,Thất xa), kể cuộc đàm luận giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Mãn-từ-tử (Man-tz'u-tzu).

NC26: (P32, Đại kinh rừng Sừng boø= C185,Ngưu giác lâm kinh), nói đến một cuộc luận bàn giữa các Tôn giả Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o), Ly-bà-đa (Li-yueh-to) và A Nan.

NC30: (P43, Mahàvedalla = C211, Đại-câu-thi-la kinh), kể cuộc pháp đàm giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo).

a) Giữa Xá-lợi-tử và Mạn Từ Tử,NC20:

Hai bản gần giống nhau.

b) Giữa Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà, Ly-bà-đa và A Nan,NC26:

Bản C nói đến bảy Tôn giả, nhưng bản P chỉ nói sáu, bỏ Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna). Trong bản C, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói đến vị Tỳ-kheo nào thiện xảo về đàm luận pháp A tỳ đàm (Abhidharma), vị Tỳ-kheo ấy sẽ chói sáng khu rừng Sừng bò. Nhưng trong bản P, câu trả lời này được đặt vào miệng của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna). Trong bản C, câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên nói đến vị Tỳ-kheo nào giỏi về năng lực thần thông.

c) Pháp đàm giữa Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo),NC 30:

Trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la và Đại-câu-thi-la trả lời câu hỏi. Trong bản P, Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi và Xá Lợi Phất trả lời.

8. Những bài pháp do đệ tử Phật nói:

Có 14 NC thuộc về loại này. Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết pháp trong NC4, 24, 46, 63, 97. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết pháp trong NC12, 36. Tôn giả A Nan thuyết bốn bài pháp trong NC37, 57, 69, 86. Tôn giả A-na-luật-đà giảng một bài pháp trong NC82. Tỳ-kheo ni Pháp Lạc nói một bài pháp trong NC31 và Tôn giả Bạc-câu-la (Po-chu-lo) nói một bài pháp trong NC 79.

a) Do Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết:

NC4: (P5, Vô uế = C87,Uế phẩm kinh);
NC24: (P25, Dụ dấu chân voi = C178, Tượng tích dụ kinh);

NC46: (P69, Gulissàni = C26, Cù ni sư kinh);

NC63: (P97, Dhànanjàni = C27, Phạm chí Đà nhiên kinh);

NC97: (P143, Anàthapindikovàda = C28, Giáo hóa bệnh kinh);

Không có gì khác nhau nhiều giữa hai bản trong NC4, NC24, NC46. Nhưng có nhiều khác nhau trong NC63, nói đến sự gặp gỡ giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và bà la môn Đà Nhiên (T'o-jan). Sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-tử mang y cầm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Sau khi khất thực, ngài đến nhà bà la môn Đà Nhiên, lúc ấy Đà Nhiên vừa ra khỏi nhà đi đến bờ sông để hành hạ dân chúng. Khi thấy Tôn giả Xá-lợi-tử từ xa, ông ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi (?), mặc y phục để lộ một vai, chắp tay chào đón Tôn giả, đưa Tôn giả vào nhà, sửa soạn chỗ và mời Tôn giả ngồi xuống, rồi cúng dường thực phẩm cho Tôn giả trong đồ đựng bằng vàng. Nhưng Tôn giả từ chối. Ba lần bà la môn năn nỉ, và Tôn giả từ chối cả ba lần. Bản P không hẳn vậy, nói bà la môn Dhànanjàni đang ở ngoài thành vắt sữa bò trong một chuồng bò. Bản này bỏ các chi tiết: bà la môn đứng dậy khỏi chỗ ngồi, mặc y chừa một vai, đưa Tôn giả vào nhà, sai sửa soạn chỗ ngồi, dâng thực phẩm trong bát bằng vàng. Bản P chỉ nói rằng khi trông thấy Tôn giả Xá Lợi Phất từ xa, bà la môn Dhànanjàni đi đến mời Tôn giả uống sữa chờ đến khi có thức ăn, nhưng Tôn giả từ chối bảo rằng ngài đã ăn xong, và mời bà la môn cùng đi đến dưới một gốc cây. Phần còn lại hai bản gần giống nhau. Trong NC97, cả hai bản kinh nói đến Cấp Cô Độc (Kei-ku-tu) bị ốm, yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-tử đến giảng pháp cho ông. Tôn giả đến giảng pháp cho Cấp Cô Độc. Nhưng trong bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử bảo Cấp Cô Độc đừng sợ hãi vì ông ta có đức tin lớn, có giới, đa văn, bố thí, trí tuệ, chánh kiến, mục tiêu chân chính, và do vậy khổ và ưu sẽ chấm dứt, vô thượng an lạc sẽ khởi lên, do điều này người ta có thể đạt đến cõi Nhất lai hay Bất hoàn; và Cấp Cô Độc đã đắc quả Dự lưu. Trong bản P, Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên Cấp Cô Độc (Anàthapindika) đừng bám víu cái gì. Và sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất giảng xong, Cấp Cô Độc đã khóc. Sau khi Tôn giả ra đi, Cấp Cô Độc chết và được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất. Ở đây hai bản khác nhau khá xa. Rồi theo bản C, Cấp Cô Độc được khỏi bệnh, kể lại cho Tôn giả nghe lần đầu tiên ông gặp đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, thấy đựơc bốn chân lý, mua vườn Kỳ Viên (C: Shêng-lin; P: Jetavana) và dâng cúng cho đức Phật. Nhưng bản P nói rằng sau khi Cấp Cô Độc chết và tái sinh lên cõi trời Đâu suất (Tusita), vị thiên Cấp Cô Độc còn trẻ, chói sáng vườn Kỳ Viên với hào quang của mình, đi đến đức Phật, chào Ngài và đọc một bài kệ tán thán Phật, Pháp và Tôn giả Xá Lợi Phất. Rồi vị trời trẻ Cấp Cô Độc biến mất tại chỗ.

b) Những bài kinh do Đại Mục-kiền-liên thuyết (Ta-mu-chien-lien):

NC12: (P15, Tư lượng = C89,Tỳ-kheo thỉnh);
NC36: (P50, Màratajjaniya= C131, Hàng ma kinh):

Hai bản gần giống nhau.

c) Do A Nan thuyết:

NC 37: (P52, Bát thành = C217, Bát thành kinh);
NC 57: (P88, Bahitika = C214,Bệ ha đề);

NC 69: (P108, Gopakamoggàllana = C145, Cù mặc Mục-kiền-liên kinh);

NC 86: (P132, A nan nhất dạ hiền giả = C167, A nan thuyết):

Không có nhiều dị biệt giữa hai bản trong NC 37, 57, 86. Nhưng trong NC69, bản C nói vào lúc ấy quan đại thần Vũ Thế (C: Yu-chih; P: Vassakàra) xứ Ma-kiệt-đà (C: Mo-chieh-t'o; P: Magadha) đang chỉnh đốn thành Vương Xá để chống lại dân Bạt Kỳ (P'o-ch'i). Nhưng trong bản P, vua A Xà Thế (Ajàtasttu) xứ Ma-kiệt-đà chỉnh đốn thành Vương Xá chống lại vua Pajjota. Phần còn lại gần giống nhau.

d) Do A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha) giảng:

NC82: (P127, A na luật = C79 ,Hữu thắng thiên):
Hai bản gần giống nhau.

e) Do Tỳ-kheo ni Pháp Lạc (C: Fa-lo; P: Dhammadinnà) giảng :

NC31: (P44, Tiểu kinh Phương quảng= C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh):
Ở đây bản C nói Tỳ Xá Khư (C: P'i-shê-ch'u; P: Visakhà) là nữ đệ tử danh tiếng của thành Xá Vệ đi đến Tỳ-kheo ni Pháp Lạc tham vấn về Pháp. Theo bản P, Visàkha là chồng cũ của Pháp Lạc. Theo bản C, Tỳ-kheo ni Pháp Lạc đến Phật thuật lại sự thuyết pháp của bà, trong khi bản P nói chính cư sĩ Visàkha đến Phật thuật lại cuộc đàm thoại.

f) Do Bạc-câu-la (C: Po-chu-lo; P: Bakkula) thuyết :

NC79: (P124, Bakkula = C34, Bạc-câu-la kinh):
Ở đây bản P thêm tên của người hỏi Tôn giả Bakkula Acela Kassapa nhưng bỏ chi tiết ông ta là một người ngoại đạo. Sau khi Tôn giả Bakkula thuyết pháp, bản P thêm một đoạn dài, trong đó Acela Kassapa xin Tôn giả Bakkula cho ông xuất gia thọ đại giới. Sau khi thọ giới không lâu Acela Kassapa đắc quả A-la-hán, rồi sau một thời gian Tôn giả Bakkula cầm chìa khóa và thông báo cho các Tỳ-kheo khác biết mình sắp nhập Niết-bàn ngày hôm ấy, và Tôn giả Bakkula nhập Niết-bàn trong khi đang ngồi giữa chúng hội. Những chi tiết này không có trong bản C.


NHẬN XÉT CHUNG

Điểm qua vai trò của các nhân vật trong 98 kinh được so sánh, ta thấy rõ ràng có một nguồn gốc chung cho cả hai bản C và P, từ đó những nhà kết tập chọn những tài liệu và dữ kiện cho bản kinh của họ, nhưng không thiếu những dị biệt về chi tiết, và điều này hoặc do sự chọn lựa của các nhà kết tập hoặc do đặc điểm của các bộ phái mà họ tiêu biểu.
Như về phương diện nhân vật, trong NC15, kinh C 115,Mật hoàn du,ïnói chính Phật dẫn ví dụ về viên mật; trong kinh P18, nói Tôn giả A Nan dẫn. Trong NC 10, kinh C 99,Khổ ấm, kể một số đông tín đồ ngoại đạo đến gặp các Tỳ-kheo trong giảng đường khi họ đang tụ hội sau bữa ăn trưa. Nhưng trong P13, Đại kinh khổ uẩn, các Tỳ-kheo sau khi vào thành Xá Vệ khất thực, thấy còn sớm nên đi đến trú xứ của các du sĩ và cuộc đàm thoại bắt đầu. Trong NC 26, C184 nói Đại Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) trả lời Tỳ-kheo thiện xảo về luận thuyết (Abhidharma) (sẽ làm sáng chói khu rừng), nhưng theo kinh P32, đó là câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna) ; trong khi ở kinh C, Đại Mục-kiền-liên trả lời là Tỳ-kheo thiện xảo về thần thông. Như vậy bản C ở đây trung thực và đáng tin cậy hơn, vì Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna) nổi tiếng là chuyên môn về luận nghị, Mục-kiền-liên nổi tiếng là chuyên môn về thần thông. Chúng ta trích dẫn ở đây một nhận xét của tiến sĩ Anesaki(71): "Trong kinh P, Gosinga(72), chúng ta thấy nói đến sáu đệ tử của đức Phật; trong bản C tương đương có thêm một người nữa là Ca-chiên-diên (Katyàyana) . Trong cuộc đàm luận giữa những Tỳ-kheo ấy, Mục-kiền-liên ở bản P đóng vai trò một đệ tử tinh thông về các nguyên lý của pháp và phân tích pháp. Trong bản C, vai trò này do Ca-chiên-diên đóng, và Mục-kiền-liên (Maudgalyàyana) là một người nổi tiếng về thần thông. Khi so sánh điều này với những tài năng của các đệ tử như được nói trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara) I,14, chúng ta có thể thấy rằng bản C phù hợp với truyền thống chung. Vì như trong kinh Tăng chi I nói, Mục-kiền-liên là người thần thông (iddhimantànam) đệ nhất, Ca-chiên-diên (Kaccàna) là 'người thiện xảo về nói pháp và phân tích ý nghĩa' (sankhittena bhàsitassa vitthàrena attham vibhajantànam). Kinh Tăng-nhất-A-hàm (Ekottara) C cũng nói như vậy. Có thể sự khác nhau này chứng tỏ rằng không phải bản P luôn luôn thuần túy và nguyên chất hơn bản C."

Trong NC31, ta thấy một bất đồng khác nữa. Ở đây bản kinh C 210 nói đến tín nữ Tỳ Xá Khư ở thành Xá Vệ đi đến hỏi pháp Tỳ-kheo ni Pháp Lạc. Nhưng kinh P44 nói Visàkha là một nam cư sĩ, chồng cũ của Dhammadinnà. Trong Từ điển Tên riêng(D.P.P.N)(73)cũng nói Visàkha là chồng của Dhammadinnà. Ông là một thương gia giàu của thành Vương Xá, sau khi chứng quả Bất hoàn (Anàgàmì) , lối hành xử của ông đối với vợ hoàn toàn đổi khác. Khi ông tặng bà tất cả tài sản, trả lại tự do cho bà, bà xin được gia nhập tăng đoàn. Khi bà đắc quả A-la-hán, bà trở về Vương Xá. Visàkha đến thăm bà và hỏi bà nhiều câu hỏi liên hệ đến giáo lý Phật, và bà trả lời tất cả các câu hỏi ấy.(74)Cuộc đàm thoại của họ được ghi lại trong kinh Tiểu phương quảng (Cullavedallasutta). Sau đó Visàkha đến viếng đức Phật, thuật lại cuộc đàm thoại của họ và được nghe đức Phật tán thán Dhammadinnà. Như vậy có thể rằng những nhà kết tập kinh C đã nhầm lẫn tên Visàkha.

Trong NC30, kinh C 211 nói Tôn giả Xá-lợi-tử (Shê-li-tzu) đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo) và ông này trả lời; nhưng theo P 43 thì Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita) hỏi, Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputta) trả lời. Lại trong NC56, kinh C 16 nói vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) phái một người bà la môn đến hỏi Phật về ý nghĩa giáo lý Ngài, trong khi kinh P 87 nói hoàng hậu Mallikà gởi sứ giả đến. Chúng ta cũng chú ý rằng trong NC53, theo kinh C63, Bệ bà lăng kỳ, vua Hiệp Bệ (Chia-pei) sai mang 500 xe bò đầy gạo trắng và đủ thứ thực phẩm của vua dùng để đến cúng dường Nan Đề Bà La (Nan-t'i-po-lo) . Nhưng Nan Đề Bà La từ chối, nói rằng vua có nhiều trách nhiệm lớn đối với quốc gia, và sự tốn kém của vua đã khá nặng nề nên ông không thể nhận. Nhưng bản P 81 nói vua Kikì sai chở 500 xe lúa, gạo vàng và cà ry đến cho người thợ gốm Ghatìkàra; ở đây người thợ gốm nhận quà và nói vua có nhiều phận sự, chừng ấy quà đã đủ cho anh ta. Như vậy những sự tường thuật mâu thẫn này cho chúng ta thấy hoặc do những nhà kết tập không nhớ kỹ, hoặc vì câu chuyện đã quá xa mờ trong dĩ vãng, nên những nhà kết tập chỉ còn nhớ mang máng, mơ hồ.

Về việc cải đạo của những người thuộc giáo phái khác sau khi nghe Phật thuyết pháp, ta thấy các chi tiết giống nhau giữa hai bản kinh trong các NC sau:

NC64: (P99, kinh Subha = C152, Anh vũ kinh);
NC23: (P27,Tiểu kinh dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ);
NC60: (P91, Brahmàyu = P161,Phạm ma);
NC68: (P107,Ganakamoggallàna= C144, Toán số Mục-kiền-liên);
NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).

Nhưng những chi tiết không giống trong các NC :

NC6: (P7,Ví dụ tấm vải = C93, Thủy tịnh Phạm chí);
NC61: (P93, Assalàyana= C151, Phạm chí A nhiếp hòa);
NC62: (P96, Esukari= C150, Uất sậu ca la);
NC48: (P75,Màgandiya= C153,Man nhàn đề);
NC52: (P80, Vekhanassa = C209, Bệ ma na tu);
NC38: (P54, Potaliya = C203, Bổø lợi đà kinh);
NC49: (P77,Mahàsakulùdayi = C207, Tiễn mao kinh);
NC56: (P87, Ái sinh= C216, Ái sinh kinh);
NC63: (P97,Dhananjàni= C27,Phạm chí Đà nhiên).

Trong NC6, bà la môn Thủy Tịnh (Shui-Ching) trong kinh C93 xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia. Nhưng kinh P 37 thêm rằng bà la môn Sundarika Bhàradvàjaxin đức Phật xuất gia thọ đại giới. Sau khi được phép, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đắc quả A-la-hán. Trong NC 48, theo bản C 153, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Man Nhàn Đề (Hsu-hsien-t'i) đạt đến Pháp nhãn ly trần vô cấu. Ông được đức Phật cho xuất gia và đắc quả A-la-hán. Nhưng bản kinh P75 không nói Màgandiyađắc pháp nhãn ngay tại chỗ. Kinh này thêm lời tán thán của Màgandiyanhư thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật xuất gia. Ở đây Phật nói Màgandiya vì thuộc ngoại đạo đáng lẽ cần qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết căn tánh khác nhau của các hạng người nên ngài cho phép Màgandiyaxuất gia. Ở đây bản P cũng nói Màgandiya đắc quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn.

Chúng ta nhận thấy rằng bản C thích trình bày những thần thông của Phật, trong khi bản P không nhắc tới, như trong NC 27, sau khi Phật thuyết pháp, kinh C 201, Trà đế,còn thêm, lúc ấy ba vạn thế giới rung động. Trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi,đức Thế tôn sau khi đọc lên bài kệ, đã vận thần thông bay ngang hư không và đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo) trong khi kinh P128,Tùy phiền não,không nói. Cũng vậy trong NC54, kinh C132, Lại-tra-hòa-la,nói Tôn giả Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha). trong khi kinh P82 quên chi tiết ấy. Bản C cũng ưa nói đến Tôn giả A Nan đứng sau đức Phật quạt cho Ngài hoặc hầu đức Phật tay cầm phất trần, trong khi bản P hoàn toàn không nhắc đến những chi tiết ấy như ở NC15, NC42, NC67, NC96, NC22. Đôi khi một trong hai bản thêm một chi tiết. Như trong NC35, bản P49,Brahmanimantanika,thêm tên bà la môn là Baka. Trong NC44, kinh P66, Latukìkopana, tên của Tỳ-kheo là Udàyì; trong NC39, kinh P56,Upàli, tên người thợ nhuộm là Rattapàni. Những tên này không có trong bản C. Đôi khi bản P thêm một chi tiết. Như trong NC64, P99, kinh Subha,thêm cuộc gặp gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì. Trong NC94, kinh P140, Giới phân biệt,thêm rằng Pukkusàtixin đức Phật xuất gia thọ giới, nhưng đức Phật từ chối vì ông không có y bát. Trong khi đi tìm y bát, ông bị bò húc chết. Đôi khi, ta để ý điều ngược lại là bản C cho nhiều chi tiết hơn. Như trong NC3, C88, Cầu pháp kinh, đức Thế tôn đau lưng muốn nằm nghỉ, gấp tư y Uất đa la tăng (yu-to-lo-sêng) trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (sêng-chia-li) làm thành cái gối và nằm xuống bên hông phải hai chân duỗi ra chồng lên nhau. Nhưng bản P chỉ nói rằng đấng Thiện thệ đứng lên khỏi chỗ ngồi và đi vào tinh xá. Trong NC89, kinh C170, Anh vũ kinh, thêm câu chuyện về con chó của Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu), trong NC83, kinh C72, Trường thọ vương bản khởi kinh, thêm câu chuyện về Phạm-ma-đạt-đa (C: Fan-mo-ta-to; P: brahmadatta), về đức Phật làm bạn với voi.

Như vậy những điểm tương đồng mà ta thấy được ở đây chứng tỏ có một nguồn chung các dữ liệu mà hai bản C và P đều theo, những điểm dị biệt biểu lộ đặc tính của mỗi bộ phái hoặc lỗi lầm của những người kết tập. Chúng cũng chứng tỏ rằng vào thời gian kết tập, nhiều dữ kiện quá mờ nhạt lẫn lộn nên đã đưa đến những tường thuật mâu thuẫn trong hai bản kinh C và P.

 


(69)Câu này được tìm thấy trong kinh Hữu học P 53, Sekhasutta, do Tôn giả Aønanda giảng.
(70)Lời giải thích này theo các nhà luận giải Pàli. Nhưng nguyên ngữ Pàli Bhunahu tương đương với từ Sanskrit Bhruna-ha, người giết bào thai, dịch sát từ này.
(71)JRAS, 1901, p. 899.
(72)Treckner 212 f.
(73)ii, p. 898.
(74)MA, I, 514 f; Thig A 15, 19.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567