Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập 10

10/02/201109:15(Xem: 6142)
Tập 10

Tổ Đình Minh Đăng Quang
ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG TẬP X
Thiện Phúc

daophattrongdoisong-cover
MỤC LỤC

474. Bình Thường Tâm Thị Đạo
475. Đường Vào Đất Phật

476. Con Đường An Vui Và Hạnh Phúc

477. Người Biết Sống Với Chơn Lý

478. Cư Trần Lạc Đạo

479. Đạo Phật Và Sự Phát Triển Con Người Đến Toàn Thiện Toàn Mỹ

480. Niết Bàn Của Người Con Phật

481. Theo Đạo Phật Nào?

482. Hình Tướng Bên Ngoài Hay Tâm Địa Bên Trong?

483. Tu Đến Chừng Nào?

484. Niềm Tin Nỗ Lực Và Sự Giải Thoát

485. Hành Trì Trong Đạo Phật

486. Hiện Đời Giải Thoát

487. Đường Giải Thoát

488. Hãy Trở Về Với Chính Mình

489. Ly Khổ Đắc Lạc

490. Ai Giàu Có, Ai Nghèo Khó?

491. Khả Năng Thành Phật Của Con Người

492. Thế Cũng Đủ Rồi!!!

493. Niết Bàn Là Những Gì Mà Chúng Ta Đang Có

494. Từ Người Lên Phật

495. Thong Dong

496. Mười Pháp Giới Hay Lục Phàm Tứ Thánh

497. Tu Là Không Lầm Cái Giả Và Không Quên Cái Thật Trong Từng Sát Na

498. Sự Thành Công Của Người Con Phật

499. Những Lời Di Giáo Cuối Cùng Trước Khi Phật Nhập Niết Bàn

500. Hiếu Hạnh Của Người Phật Tử

501.Những Cái Lớn Nhất Của Đời Người

LỜI GIỚI THIỆU


Phật tử Thiện Phúc là một trong những Phật tử tại California nói riêng và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nói chung, ngoài công tác xã hội, đời sống gia đình, Phật tử Thiện Phúc dành thì giờ nhàn rỗi chú tâm nghiên cứu Kinh điển Phật đà hầu tìm lối thoát cho tâm linh mình và cống hiến cho xã hội những gì mà mình đã thu thập trong ba tạng Kinh, Luật và Luận.

Sự quan tâm nghiên cứu học hỏi và sáng tác không phải không có lý do. Lý do vì Phật tử Thiện Phúc đã trải qua chốn ngục tù đọa đày suốt tám năm năm trực tiếp nếm mùi đắng cay ngọt bùi, đời sống lao đao sau khi bước ra khỏi ngục tù, lại gặp gió táp mưa sa trong cuộc viễn hành thập tử nhất sinh giữa biển cả mênh mông đầy nguy hiểm. Nghĩ lại cuộc đời quá khứ:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẩn trời gần trời xa!


Vâng, không nên trách oán, Phật tử Thiện Phúc dũng mãnh tìm được đời sống, đời sống đạo đức. Nguồn sống đạo đức Việt Nam là đạo đức Phật giáo. Phật tử Thiện Phúc không những không căm thù oán hận, mà muốn mọi người quay trở lại đường thiện, hồi tâm cảnh giác kiếp sống phù du sáng nở tối tàn, rữa sạch tâm hồn tội lỗi đã gây tạo. Như Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Đức Phật dạy:

Lấy oán trả oán
Oán không bao giờ dứt
Lấy lòng hỷ xả từ bi trả oán

Oán kia tự nhiên hết.”


Từ đó, Phật tử Thiện Phúc thấm nhuần Phật lý, phát tâm Bồ Đề biên soạn bộ “Đạo Phật Trong Đời Sống” chia ra làm nhiều tập, diễn dịch đạo lý từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ thô thiển đến vi tế… Vì chơn lý Phật đà cao siêu vi diệu nếu Phật tử và độc giả các giới không nắm được những lời giáo lý cơ bản trước khi đi sâu vào vấn đề khác tìm chơn lý, tự mình thiếu căn bản khó mà đạt đến mục đích tối thượng, như không xây cất từng lầu thứ nhất thế nào có thể xây cất từng hai từng ba, vân vân.

Công phu biên soạn bộ “Đạo Phật Trong Đời Sống” gồm có nhiều tập, đây là Tập X, tôi được vinh dự đọc qua bản thảo, cảm thấy việc làm của Phật tử Thiện Phúc không ngoài mục đích đóng góp phần nào trong ngôi nhà Phật pháp hiện tại và tương lai, đáp ứng nhu cầu của đồng bào Phật tử Việt Nam ở hải ngoại cũng như tại nước nhà. Vì lợi ích chung tôi không ngại viết lời giới thiệu đến Phật tử và độc giả các giới gần xa, không thể bỏ qua mà không đọc tập Đạo Phật Trong Đời Sống để thưởng thức lời dạy của Phật mà soạn giả đã dày công nghiên cứu, thực hiện vấn đề hữu ích “tự lợi lợi tha.”

Kính Cẩn
Hòa Thượng Thích Quảng Liên

Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức

Sài Gòn, Việt Nam

LỜI CHỨNG MINH VÀ KHUYẾN TẤN

Xin khuyến khích cùng các hàng đọc giả
Quyển sách nầy, do Thiện Phúc viết ra
Chín quyển trước, cũng đã viết nói qua
Quyển thứ mười, để bổ sung đầy đủ.

Khen Thiện Phúc đã dày công tích tụ
Trải nhiều năm, Phật lý đã thông qua
Mở tâm từ, muốn giúp kẻ gần xa
Tìm học hỏi, Đạo Phật Trong Đời Sống.

Tu nhiều hạnh, nhiều pháp môn không giống
Do mỗi người, tiến hóa trước hay sau
Nên pháp tu, đủ hình thức sắc màu
Nhưng chung kết, cũng không ngoài Bát Chánh.

Tham sân si, phải diệt đi trừ lánh
Thập Hạnh nguyền cố gìn giữ luôn luôn
Khẩu ý thân thúc liễm trở về nguồn
Giới Đinh Tuệ, thực hành không sơ suất.

Thiện Phúc ngộ mới ra công tường thuật
Những điều gì, Đức Phật đã nói ra
Trước mình tu, tự giác kế giác tha
Đến tròn đủ, công viên đầy quả mãn.

Hiểu đạo Phật, không bao giờ nhàm chán
Nếu hành trì, đúng pháp quý vô song
Nguồn an vui hạnh phúc mãi trong lòng
Được giải tỏa bao nỗi niềm u uất.

Chính Thiện Phúc đã thực hành đúng lúc
Đem cho mình lợi lạc biết dường bao
Nay viết ra để giúp ích đồng bào
Hiểu đạo Phật, thực hành trong đời sống.

Tu đâu phải với mỏ chuông kèn trống
Ở bên ngoài chỉ hình thức mà thôi
Cốt làm sao trau sửa gắng vun bồi
Tâm trong sạch, dứt lìa mê đắm nhiễm.

Mong đọc giả, cố ra công tìm kiếm
Chín quyển qua, đồng để tựa như vầy
Dạy rõ ràng yếu lý thật là hay
Lời đơn giản, nhưng thâm huyên vô tận

California ngày 28 tháng 8 năm 2006
Hòa Thượng Thích Giác Nhiên

Pháp Chủ GHPGTGKHTG

LỜI MỞ ĐẦU

Kính thưa chư thiện hữu tri thức,

Đức Phật đã từng khẳng định trong các kinh điển của Ngài rằng đạo Phật không chỉ dành riêng cho Phật tử, đạo Phật là đạo của chúng sanh mọi loài. Hễ ai chịu hành trì những lời Phật dạy trong cuộc sống hằng ngày, chịu bố thí trì giới, chịu nhẫn nhục và tinh tấn thiền định để tận diệt ác pháp, tăng trưởng thiện pháp và thanh tịnh thân khẩu ý, người đó là Phật tử. Hễ ai chịu ban vui cứu khổ, bác ái vị tha và hằng sống trong tinh thần từ bi hỷ xả, thì cho dù bất cứ ở đâu, ở chùa, ở chợ, ở sở hay ở nhà, người đó vẫn là một Phật tử chân chánh. Kinh Pháp Hoa đã nói rõ về mục đích thị hiện của Đức Phật. Vì thấy trong đời ngũ trược ác thế, chúng sanh lăn lộn trong cõi trầm luân, chịu quá nhiều khổ đau phiền não, nên Ngài thị hiện chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập tri kiến Phật.” Sau những năm tháng tu hành tầm cầu chơn lý, Đức Phật đã giác ngộ và giải thoát. Ngài đã mang hết những gì mình liễu ngộ ra mà trao truyền lại cho chúng ta, chỉ với một mục đích là những mong cho chúng sanh mọi loài đều có được cuộc sống an lạc và tự tại. Nếu chỉ thị hiện để truyền giảng triết thuyết cho đời sau biện giải hý luận thì chắc Thế Tôn đã không thị hiện. Nếu chỉ xem những triết thuyết nhà Phật như những chủ đề cho nhàn đàm hý luận, thật tình mà nói, những triết thuyết ấy không giúp ích được gì cho ai. Ngược lại, nó còn làm cho chúng ta thêm loạn động và điên đảo hơn. Chính vì thế mà sau một đời hoằng pháp lợi sanh, Đức Phật đã nhắn nhủ với chúng đệ tử rằng: “Trong 49 năm hoằng hóa, ta chưa nói một lời nào.” Những lời di huấn cuối cùng của Đức Từ Phụ quả là một thông điệp quá rõ ràng cho những người con Phật hậu bối chúng ta: Hãy thầm thầm tiến tu, chứ đừng nói đừng rằng cho thêm nặng nghiệp.

Kính thưa quý vị,

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy rằng không riêng gì tứ đại nầy giả hợp, mà cả thế giới và vũ trụ cũng là duyên hợp, chớ không có chủ thể. Tuy nhiên, so với không gian vô cùng, vũ trụ vô tận, và thời gian vô định thì kiếp con người chẳng khác chi làn điển chớp hay giọt sương mai trên đầu cành ngọn cỏ. Thật vậy! Đời người như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay. Quý vị ơi! Từ vô lượng kiếp, chúng ta đã lăn trôi gây tội tạo nghiệp, bây giờ muốn tu hành chân chánh, chúng ta sẽ không có đủ thời giờ để tu trì những lời Phật dạy, thì giờ đâu để chúng ta dong ruổi đó đây nhàn đàm hý luận? Nếu chúng ta cam tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, thì không nói làm gì. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã nhìn thấy rồi nẻo về địa ngục mà quyết chí tu hành, xin hãy mau quay lại với chính mình, xin hãy tự dọn mình dưới ngọn hải đăng Phật Pháp, xin hãy lắng nghe lời Phật dạy “Trong thời không có Phật, luôn lấy giới luật làm Thầy.” Làm được như vậy, cho dù có sanh ra trong đời mạt pháp, không trông thấy Phật, chúng ta vẫn hằng sống với Chánh pháp, hằng cạnh kề Đức Như Lai không sai khác.

Kính thưa quý vị,

Những lời di giáo cuối cùng của Phật Tổ tuy đã gần hai mươi sáu thế kỷ qua, vẫn còn vang vọng trong tâm thức người con Phật hậu bối chúng ta: “Nếu các ông không trì giới mà đòi tu tâm tu thiền để mong cầu giải thoát, các ông chỉ là những con người đang nấu cát mà muốn thành cơm. Nói cho rõ ra, là mấy ông đang giởn chơi với địa ngục.” Thật vậy quý vị ơi! Cõi Phật là cõi thanh tịnh. Cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi nước của Đức Phật A Di Đà và là nơi an trú của chư Bồ Tát, cõi ấy sẽ không bao giờ dung chứa những ai không tròn giới hạnh đâu! Người con Phật quyết chí tu Phật phải luôn nhớ rằng ai nhìn kinh Phật qua văn tự ngôn ngữ, kẻ đó rồi sẽ phải sa vào hầm hố của “nhàn đàm hý luận.” Người con Phật chơn thuần phải luôn tâm niệm rằng kinh là mạng sống của chính mình, đọc tụng kinh là hít thở dưỡng khí vào buồng phổi tâm linh của chính mình, chứ không phải là tom góp những hiểu biết của thường tình thế tục. Lời Phật dạy thì vô lượng vô biên hơn lá trên rừng. Ai có khả năng gom hết lá trên rừng thì cứ gom. Ai muốn làm việc đội đá vá trời thì cứ làm. Người con Phật chơn thuần luôn hiểu nghĩa “tu” một cách đơn giản. Tu là “sửa.” Nếu chúng ta chịu sửa và chịu sửa mãi những sai trái lỗi lầm, chịu ăn năn sám hối những tiền khiên ác nghiệp thì chắc chắn một ngày không xa nào đó sẽ không còn những hậu quá bẽ bàng. Nếu chúng ta chịu thầm thầm tiến tu thì chắc chắn sẽ được toàn thiện toàn mỹ y như lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Chính Đức Phật đã khẳng định rằng chúng sanh, nhứt là con người, ai ai cũng đều có khả năng phát huy Phật tánh ngang nhau. Là con Phật, chúng ta phải vững tin như vậy, phải tin vào khả năng sáng tạo đang ngầm ngủ trong mọi người chúng ta. Người Phật tử chơn thuần thiết tha với sự nghiệp tu tập, xin hãy chấm dứt ngay sự lãng phí thì giờ qua những cuộc nhàn đàm hý luận. Hãy thầm thầm mang tư tưởng từ bi hỷ xả của Phật Tổ vào đời sống hiện thực, hãy tự cải thiện mình và phục vụ tha nhân một cách tích cực, không mỏi mệt, không thối chuyển. Thật tình mà nói, phàm trí của chúng ta, dù có giỏi biện luận thế mấy, cũng khó tự mình tìm được về nguồn chơn tâm. Thôi thì hãy ráng lắng nghe Phật Tổ, tu trì sao cho thân khẩu ý luôn thanh tịnh. Hãy tự xem thân khẩu ý là tạo hóa mà cũng chính là những tác nhân tiêu diệt chúng ta. Hãy tự xem thân khẩu ý của chính mình vừa tạo ra thiên đàng, mà cũng vừa tạo ra địa ngục ngay trong kiếp sống nầy. Đức Phật vì thương xót chúng sanh mà trong thời Ngài còn tại thế, Ngài đã luôn nhắn nhủ với tứ chúng rằng: “Đường tu không nên trì trệ, vì có ai biết được ngày mai sẽ ra sao, hoặc giả vô thường tứ đại có chịu chờ chúng ta đến ngày mai hay không?” Những đại đệ tử của Ngài là những Thánh Tăng mà Phật còn khuyến tấn như vậy, huống là chúng ta? Những người con Phật hãy cố gắng đừng nói đừng rằng, mà hãy tự mình sống đúng với chân lý, sống đúng với những lời Phật dạy, sống cho tròn nhân đạo, rồi từ đó đi dần lên Thánh hay lên Phật. Làm được như vậy, chúng ta mới có khả năng sám hối tất cả những tội lỗi oan khiên từ muôn kiếp, từ đó chúng ta mới có đủ đại hùng và đại lực để chừa bỏ ác nghiệp từ thân khẩu ý, và cũng từ đó chúng ta mới có thể luôn tri hành hợp nhất. Quý vị ơi! Coi vậy mà chúng ta không còn nhiều thì giờ nữa đâu. Chúng ta như “cá cạn nước” đang cố vẫy vùng trong vũng cạn. Nếu không kíp tu và khéo tu thì không bao lâu nữa, những con cá ấy chỉ còn trơ lại những bộ xương khô mà thôi. Tuy nhiên, bây giờ vẫn còn kịp cho những con cá quyết hóa long. Hãy còn kịp cho những ai quyết lấy gương sống tu của Phật làm lý tưởng, lấy giới đức và đạo hạnh của Phật làm mẫu mực cho cuộc sống cuộc tu hằng ngày của chính mình. Mong cho ai nấy đều cùng nhau hướng về Ánh Đạo Vàng của Phật Tổ, cùng dắt dìu nhau trên đường về quê hương Cực Lạc. Mong một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật quả. Mong lắm thay!!!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Viết tại California ngày 20 tháng 8 năm 2006
Thiện Phúc

474. BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO

Tâm là cái gì mà ai ai cũng đề cập đến. Các thiền sư thì cho rằng bước thành tựu của thiền giả phải là “vô tâm” vì các ngài cho rằng “vô tâm thị đạo.” Pháp môn của nhà thiền là nhìn thẳng vào tâm người để thấy tánh; tuy nhiên, các thiền sư lại không dạy rõ ràng là làm cách nào để nhìn thẳng được vào tâm, hoặc giả nếu có dạy thì mỗi người một vẻ, làm sao hàng hậu bối chúng ta có thể y nương vào đó mà tu hành giải thoát đây? Chúng ta thử nhìn lại quá trình lịch sử Thiền Tông từ sau Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến nay, trừ những bậc thượng căn thượng trí như các vị tổ, có mấy ai có được cái phong thái giải thoát của các ngài? Thật tình mà nói, từ ngày Thiền Tông được chấn hưng trên khắp thế giới, số người tu thiền thì nhiều nhưng số người được giải thoát rốt ráo thì chẳng bao nhiêu, mà ngược lại số người cuồng tâm loạn tưởng về Thiền thì nhan nhãn khắp nơi khắp chốn. Tại sao lại có trạng huống trớ trêu nầy hở quý vị? Có lẽ trong thời mạt pháp nầy, Phật tử với kiến thức về Phật lý thì nhiều nhưng họ không chịu dùng cái kiến thức ấy vào việc tu trì mà ngược lại chỉ dùng để giải khuây trong các cuộc trà dư tửu hậu, họ chỉ thích nhàn đàm hý luận hơn là tỉnh tâm tu hành. Thế nên chúng sanh vốn dĩ đã loạn động càng loạn động hơn. Phướn động, gió lay hay chính tâm nầy loạn động, tu giáo, tu tâm, đốn ngộ, tiệm ngộ, hay nói trắng ra lý thuyết và những giai thoại về giác ngộ và giải thoát của chư tổ và ngay cả của Phật Tổ không ăn nhằm gì đến cuộc tu hành giải thoát của chính mình nếu mình không chịu tu hành y như Phật mà chỉ một bề học cho nhiều để nhàn đàm hý luận. Phật tử chơn thuần phải luôn nhớ rằng tâm mình vốn không hề lay động thì tội gì phải đi tìm cái gọi là “chẳng lay động” bên ngoài để gán ép một cách gượng gạo vào cái tâm bổn định của mình. Còn cái định nào tuyệt vời hơn cái “bổn định” sẳn có của mình? Người con Phật chơn thuần phải hằng nhớ như vậy để không lăng xăng chạy đông chạy tây nhập định xuất định. Nhạn bay qua hồ, nhạn không buồn lưu ảnh, thế mà hồ nầy cứ lăng xăng lích xích đi tìm cái ảnh vốn dĩ đã không có của nhạn, thật là tội nghiệp! Đã gần hai mươi sáu thế kỷ qua kể từ ngày Đức Phật thành đạo, thế mà mãi đến hôm nay vẫn có lắm người con Phật vẫn tiếp tục cho rằng ngoại trừ Phật ra, không ai trong chúng ta có thể nào tu cho đến giác ngộ và thành Phật được. Giáo lý mầu nhiệm của Phật đã đi vào lòng của nhiều dân tộc qua một khoảng thời gian hai ngàn sáu trăm năm, thế mà chúng ta vẫn còn nhìn đạo Phật bằng nhãn quan xa cách, chúng ta cứ tưởng tượng đạo Phật là huyền bí cao xa… Thậm chí có người lại đồng hóa đạo Phật với thần quyền, dị đoan, mê tín, vân vân. Chính vì những sai lầm ám muội nầy mà thay vì tận hưởng những giáo pháp thanh lương của Phật để đi về bờ giác thì chúng ta cứ tiếp tục lặn hụp trong biển đời sanh tử. Trong thời Phật còn tại thế, trong các thời thuyết pháp của Ngài, không như chúng ta ngày nay hễ mở miệng ra là nói trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, liễu sanh thoát tử, siêu sanh Tịnh độ, sắc tức thị không, sắc bất dị không, tức tâm tức Phật… Ngược lại, Như Lai luôn nói những chuyện rất bình thường như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ, bố thí, trì giới, nhẫn nhục. Ngài dạy phải khắc kỷ để lợi tha, chớ đắm chìm trong dục lạc, phải cố mà điều nhiếp thân thể, hơi thở và tâm ý không cho thân phóng dật, không cho hơi thở quá dồn dập, không cho tâm dong ruổi như vượn chuyền cây. Chính vì thương xót chúng sanh mà trong Kinh Hoa Nghiêm đức Phật đã dạy: “Bình thường tâm thị đạo.” Nhưng thế nào là cái tâm bình thường? Phàm phu chúng ta cứ mãi dong ruổi đào bới trong văn tự, nào là tâm là tướng, tâm là gương, tâm là tánh, tâm như tường vách, vân vân và vân vân, nhưng quý vị ơi, càng đào bới trong ngôn ngữ văn tự để tìm những cái cao xa, chúng ta càng xa đạo. Người tu hành phải là hành giả chứ không thể là học giả, thuyết giả hay luận giả… Con người ấy biết cái gì thì tu cái ấy, không gượng ép hay gò bó vì gượng ép và gò bó là những thứ không phải bình thường. Tuy nhiên, Phật tử chơn thuần nên cẩn trọng vì nhơn đây những kẻ chỉ chuyên nhàn đàm hý luận có thể chen vào hý luận rằng “bình thường tâm thị đạo” tức là cứ bình thường để cho mọi việc trôi qua, hoặc giả bình thường chẳng thiện chẳng ác… cứ để cho mọi việc trôi qua một cách bình thường chứ đừng đếm xỉa gì đến chúng. Tu hành như vậy vô hình chung mình tự đồng hóa mình với con trâu, con bò, con heo hay con chó, cứ trây lười giải đãi, cứ ăn no lại nằm để cho việc đời tự nhiên trôi qua một cách uổng phí. Thật là tội nghiệp!

Con đường tu Phật trước mắt của chúng ta hãy còn dài và phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn gian khổ. Tuy nhiên, nếu chúng ta không thực hiện nỗi con đường quảng đại và cao tột của các vị Bồ Tát thì chúng ta vẫn hằng sống hằng tu được theo Phật bằng cái tâm “bình thường” của mình trong cuộc sống hằng ngày. Nói gì thì nói, cái cao tuyệt nhưng khó làm của các vị Bồ Tát vẫn theo gương sáng của Đức Phật là lấy “lợi tha làm tự lợi” cho chính mình là con đường tất yếu mà ai trong chúng ta rồi cũng phải một lần kinh qua.

Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng đạo Phật là đạo của chơn lý, là đạo của trí tuệ, là đạo của cuộc sống bình thường và đơn giản. Chính Đức Từ Phụ đã từng khẳng định trong Kinh Hoa Nghiêm: “Bình thường tâm thị đạo.” Phật đã dạy quá rõ ràng rồi còn gì nữa? Vũ trụ vạn hữu duyên nhau trong sức tác động của nguyên lý duyên khởi, thân phận con người cũng không chạy ra ngoài nguyên lý nầy. Tuy nhiên, Đức Từ Phụ đã khẳng định “bình thường tâm thị đạo.” Ngài muốn nhắn với chúng ta rằng sở dĩ con người vẫn còn vướng phải những tai ách của tám ngọn gió độc và sanh, lão, bệnh, tử… là vì con người không chịu sống với cái tâm bình thường của chính mình.

Thế nào là sống với cái tâm bình thường? Sống với cái tâm bình thường là lúc còn tại gia trong gia đình phải giữ đúng đạo làm con, làm chồng, làm cha, làm mẹ, làm vợ; ngoài xã hội phải là một công dân gương mẫu; đối với quốc gia phải hết lòng bảo vệ, phải quên mình giữ nước… Làm một Phật tử phải quy-y Tam Bảo, hành trì ngũ giới và phải lấy luật “luân hồi nhân quả” làm kim chỉ nam cho mọi hành động trong cuộc sống hằng ngày. Người con Phật luôn bình tâm suy xét lại những hành vi thiện ác của chính mình trước khi than trời trách đất. Hãy tự đánh giá đúng tự tâm tự thân của mình chứ đừng đỗ thừa cho trời ghen, đất ghét, hay trời định tiền định, hay số kiếp số mạng… Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thanh Tâm Tài Nhân đã nêu ra nhận thức của ông về cái tâm như sau:

“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”

Thanh Tâm Tài Nhân đã khiêm tốn mà nói vậy chứ kỳ thật chữ tâm kia phải bằng vạn lần chữ tài mới đúng. Chính vì vậy mà khi xuất gia, người Phật tử phải phát đại nguyện vì đạo mà tinh tấn tu hành, phải một lòng thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh. Tâm bình thường còn là cái tâm không ngăn ngại bởi duyên cảnh đổi thay, nghĩa là không bị gượng ép vì bất cứ lý do gì. Đói ăn, khát uống, mệt thì ngủ nghỉ, vui thì nói vui, buồn thì nói buồn, giận thì nói giận, vân vân. Tâm bình thường có thể giúp chúng ta sống ngay trong lòng trần tục mà vẫn an vui tự tại. Tuy nhiên, đạo Phật nói dễ khó làm, con người cứ ham nói và ham tìm cầu đến nỗi kinh điển vẫn luôn hiện hữu trong đời sống mỗi người, thế mà chúng ta cứ mãi đi tìm kinh điển qua văn tự bên ngoài. Chính vì sự hướng ngoại cầu hình nầy mà chúng ta xa lần cái tâm bình thường vốn sẳn có ở mỗi người chúng ta, để lang thang tìm kiếm, có khi tìm kiếm cái gì chính mình cũng không biết nữa, tìm chưa được cái nầy thì đã mất cái kia, và cứ thế mà chúng ta cứ phải luyến thương quá khứ, bất mãn với hiện tại và thao thức cho những ảo vọng của tương lai. Chúng ta đang tự mình chồng chất lên thân phận nhỏ bé của chính mình bằng những chuỗi dài của trầm thống và khổ đau. Nếu chúng ta chịu hằng sống tu với cái tâm bình thường thì cho dù vạn pháp có đến có đi, có sinh có diệt, có còn có mất, có tốt có xấu, có thuận có nghịch… đâu có gì vướng bận được cái tâm bình thường ấy. Nhạn bay qua hồ, nhạn không buồn lưu ảnh lại, thế sao hồ cứ mong cầu giữ cho được ảnh nhạn? Trên đời nầy có cái gì được gọi là tất toàn đâu, thế mà con người cứ mãi mong cầu những cái tất toàn cho thêm bi ai khổ lụy! Người con Phật chơn thuần phải thấy cho rõ chỗ nầy để có đủ khả năng “tùy sở trụ xứ.” Cái tâm “tùy sở trụ xứ” nầy chính là cái tâm “bình thường” mà Phật muốn khuyến nhủ hàng đệ tử của Ngài trong các buổi giáo chúng. “Tùy sở trụ xứ” là biết ứng dụng Phật pháp ngay trong cuộc sống thực tế của chúng ta để mang lại an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc cho mình và cho người. “Tùy sở trụ xứ” là biết làm thế nào chuyển được ác nghiệp của thân khẩu ý thành những nghiệp thiện lành; chuyển những xấu xa, tàn bạo, độc ác thành tốt đẹp, thanh cao và hiền thiện. “Tùy sở trụ xứ” là biết đem tất cả những tinh túy của đạo Phật mà biến thành hạnh phúc cho tha nhân. “Tùy sở trụ xứ” là không ám muội si mê tạo hạnh phúc của mình trên đau khổ của người; ngược lại, người con Phật chơn thuần luôn vị tha bác ái, luôn thấy hạnh phúc của mình là sự chấm dứt khổ đau phiền não của người. “Tùy sở trụ xứ” với cái tâm bình thường không có nghĩa là buông xuôi đầu hàng hoàn cảnh. Người con Phật có tâm “bình thường” và biết “tùy sở trụ xứ” là con người dám can đảm chiến đấu với ma quân, từ ma tham, sân, si, đến ma mạn, nghi, tà kiến và sát, đạo, dâm, vọng…Hơn nữa, người biết “tùy sở trụ xứ” là người có hạnh tu cao tuyệt và quảng đại của một vị Bồ Tát chứ không có tư tưởng yếm thế, tiêu cực, chỉ mong cầu sớm được giải thoát tự thân khỏi cõi đời uế trược nầy. Con người ấy luôn lấy “lợi sanh vi bổn hoài” nghĩa là lấy lợi tha làm tự lợi làm hoài bảo tu tập hạnh Bồ Tát, chứ không giải thoát cho mình còn thì sống chết mặc ai. Con người ấy dù biết rằng cõi Ta Bà nầy là cảnh giới ô trọc, đầy ngũ trược ác thế, đầy máu lệ và khổ đau, nhưng không tự mình cầu mong sanh về cõi an lạc, thanh tịnh và trường tồn để mặc cho chúng sanh tiếp tục lăn trôi lặn ngụp trong biển đời sanh tử.

Thói thường chúng ta hay dong ruổi tìm cầu, hoặc giả chỉ học chứ không chịu hành, nhưng quý vị ơi! Chỉ học mà không hành thì thà đừng học đừng biết, vì làm như vậy chúng ta chỉ tự mình trưởng dưỡng tánh ngã mạn cống cao và giết chết Bồ Đề tâm nơi chính mình mà thôi. Thật vậy, tỉnh giác để nhận ra chính mình và liễu ngộ chơn lý để chấm dứt luân hồi sanh tử không phải là một môn học, không phải do học mà được. Người con Phật chơn thuần phải thấy và phải biết như vậy để lục thời sám hối lục căn, tinh tấn tu hành, lấy huyễn thân làm bè đưa mình vượt thoát sông mê bể khổ. Tụng kinh được vài biến, niệm chú được đôi câu, ngồi thiền được vài cử… là tốt, nhưng tất cả những thứ nầy chỉ là những giải pháp nhất thời. Điều quan trọng ở đây là người người phải cố tạo cho mình cái tâm “bình thường” trong mọi tình huống, tỉ như phát nguyện nhẫn nhục là phải nhẫn nhục trong mọi thời mọi lúc, chứ không nhẫn trong thuận duyên, còn lúc bị người thóa mạ, đánh chưởi thì sân hận lại đùng đùng nổi lên. Phát nguyện trường chay là phải trường chay trong mọi hoàn cảnh như Ngài Lục Tổ Huệ Năng, dù phải sống chung đụng với đám thợ săn, và dù có bị bọn họ theo dõi, Ngài vẫn chỉ ăn rau luộc chứ không thối chí nản lòng. Nên nhớ rằng những sợi dây ngăn ngại, dù bên trong hay bên ngoài, đều do tự mình kết buộc lấy chính mình, chứ không ai trói buộc mình cả. Người có tâm bình thường là người không còn bị ngăn ngại bởi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, cũng như những chấp ngã, thủ trước, ái dục, trạo cử, tật đố, xan tham và lười biếng… Con người ấy luôn có khả năng vượt thoát khỏi những ràng buộc của chính mình, không để cho vô minh, ái dục và bản ngã sai sử và buộc kết mình vào sông mê biển khổ. Con người ấy dù có ê chề mệt mỏi với bao kiếp lặn hụp trong biển đời sanh tử và rất muốn được vào sống trong cõi Niết Bàn tịch tịnh, nhưng vì bổn hoài lấy lợi tha làm tự lợi nên luôn tích cực nhập thế, đi vào cõi Ta Bà uế trược mà cứu thế độ sanh, không sợ nghịch cảnh. Trái lại, luôn xông pha vào mọi chốn mọi nơi, từ nơi vắng vẻ thanh tịnh đến chốn phồn hoa đô hội, chui mình vào phiền não, lăn lộn trong cõi dục giới đầy quyến rủ để thử thách tâm mình xem coi nó có giữ được “bình thường” trong mọi tình huống, thử xem coi nó đã thật sự hết cặn cáu hay chỉ là sự tạm thời lắng đọng chờ tác động là khuấy lên. Con người với tâm “bình thường” luôn dấn thân vào đời với nhiều trở ngại chừng nào tốt chừng ấy, vì đó là những cơ hội thử thách mức độ “bình thường” của tâm mình. Người có tâm “bình thường” nhìn cái gì cũng “bình thường” chứ không có thân sơ bạn thù, hay khao khát dục vọng. Con người ấy cũng đói ăn khát uống… Hễ thấy ai khổ đau bèn tìm mọi cách cứu độ. Con người ấy sẳn sàng làm tất cả mọi việc, có nhiều khi rất thông thường, nhưng rất nhiều khi lại vượt ra ngoài mực thước của phàm tình thế tục, không ai làm được, không ai làm nỗi. Con người ấy có thể ở chùa, tịnh xá, ở chợ, ngoài đường hay ở nhà, ở nơi ô uế thối tha, hoặc tịnh tịch nơi sơn lâm cùng cốc, hay bất cứ nơi nào trong cõi Ta Bà nầy.

Như trên đã nói, người có tâm bình thường là người biết “tùy sở trụ xứ,” chứ không đè nén, không lấy đá đè cỏ, vì lấy đá đè cỏ chỉ là nhứt thời đè nén sự phát triển của cỏ mà thôi. Cũng như vậy, vui, buồn, thương, ghét và tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… không thể nào lấy vải thưa mà che mắt Thánh. Chúng ta e dè và sợ sệt những đoạn đường mà chúng ta phải đi qua, nhưng một khi đã qua rồi thì đường nào cũng như đường nào, tất cả chỉ là những con đường bình thường. Thoạt nghe chữ “tâm bình thường” chúng ta cứ nghĩ đến cái gì tầm thường và không quan trọng, nhưng chữ “bình thường” trong đạo Phật là cái gì mà phàm phu chúng ta khó nắm bắt vô cùng. Tâm bình thường theo đạo Phật chẳng những lấy lợi tha làm tự lợi, mà còn luôn đem “từ bi hỷ xả” ra cứu khổ ban vui cho mọi loài chứ không chỉ hạn cuộc nơi con người. Người với tâm “bình thường” luôn trang bị cho mình với đủ đầy giới luật, thiện pháp và làm lợi ích cho chúng hữu tình trong mọi tình huống. Khi cần bố thí là bố thí rộng lớn, không hạn cuộc, bố thí hoàn toàn, trọn vẹn, bố thí mà không thấy có nhân, ngã, bỉ, thử, bố thí không một chút tiếc luyến cho dù vật bố thí có quí giá đến đâu, cho dù ngay cả thân mạng đi nữa họ cũng không màng. Không vì danh lợi mà bố thí, không cầu người cám ơn mà bố thí, không mong phước báu mà bố thí, không phân biệt ai cho ai nhận. Con người có tâm “bình thường” luôn nhẫn, nhẫn, nhẫn, nhẫn những cái đáng nhẫn và nhẫn luôn những cái không đáng nhẫn, vì theo Phật thì trên đời nầy không có cái gì mà không đáng nhẫn cả. Con người ấy cam chịu những điều khổ não nhục nhã và xót đau người làm cho mình mà không hờn giận, phẫn uất hay tính chuyện trả thù trả oán. Con người ấy luôn bình thản, không xao động trước thuận cảnh cũng như nghịch cảnh, khi gặp thuận duyên không cười hỷ hả hay mừng vui thích thú, khi gặp nghịch cảnh không oán hận hay than trời trách đất. Tâm con người ấy lúc nào cũng bình thường chứ không vướng bận hay điên đảo. Đây chính là cái tâm thật là “bình thường” của người con Phật. Ngoài ra, người có tâm bình thường, bình thường đến độ sáu trần không thể nào rù quến lục tặc trổi dậy được trong lòng mình, vì thế mà vọng niệm không sanh không khởi, tam độc không nhiễm, nên thân khẩu ý luôn thanh sạch. Đối với con người ấy, cái gì cũng bình thường, nệm ấm chăn êm hay một manh chiếu thô không sai khác, món ngon vật lạ hay dưa muối tương rau không ảnh hưởng, sắc hay không sắc con người ấy vẫn luôn như như bất động. Chính vì thế mà những cạm bẫy lợi danh của thường tình thế tục là vô nghĩa với họ. Trong cuộc sống hằng ngày, ngoài bố thí, làm lợi lạc chúng sanh và lắm khi gánh cả công việc cho tha nhân. Con người có tâm bình thường luôn nói lời nhỏ nhẹ yêu thương để cảm hóa tha nhân. Con người ấy thông hiểu giáo lý nhưng không nhàn đàm hý luận, dù thông suốt mọi phương pháp luận lý để nếu cần phải biện luận chống lại tà ma ngoại đạo, để vạch rõ cho mọi người thấy được giá trị chơn thật của Phật pháp và những khiếm khuyết của các học thuyết khác. Con người ấy thông thạo văn chương ngôn ngữ, biết nhiều thứ tiếng để truyền bá Phật pháp chứ không để tầm chương trích cú cho nhàn đàm hý luận. Con người ấy cứ tiếp tục xông pha vào nghịch cảnh để thử xem coi tâm mình có bình thường trong mọi tình huống hay vẫn còn phiền não nhiễm ô.

Thế mới biết cái “bình thường” trong đạo Phật quả không bình thường chút nào đối với thường tình thế tục. Cái tâm lúc nào cũng giữ được bình thường trong thuận duyên cũng như nghịch cảnh không phải là chuyện dễ. Thói thường chúng ta hay tìm thuận cảnh và tránh xa nghịch cảnh để cho mọi việc được hanh thông. Nhưng nếu chúng ta cứ ở mãi trong thuận cảnh thì làm gì có cơ hội thử thách xem coi tâm mình có bình thường trong mọi hoàn cảnh hay không. Người tu Phật luôn xem các nghịch cảnh là những phương tiện tốt giúp mình quan sát cái tâm “bình thường” của chính mình để tiến tu, vì nếu không thắng được nghịch cảnh, không giữ được tâm bình thường thì còn cứu độ được ai?

Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng cái “tâm bình thường” mà Phật và chư Tổ đã dạy ở đây vốn dĩ đã tự có trong mỗi người chúng ta, chứ không cần phải tầm cầu hay thiết lập, chẳng cần phải gượng ép dựng xây, mà chỉ cần quay lại với chính mình bằng những gì mà Đức Từ Phụ đã trao truyền. Hãy cố mà tỉnh dậy giữa cơn trường mộng, hãy cố quay về sống với cái tâm bình thường mà tự thuở giờ mình vẫn có để phá tan những vui buồn thương ghét và những lo âu kinh hoàng của thường tình thế tục, cũng như viễn ly những điên đảo mộng tưởng, từ ly tham, ly chấp, ly hận, ly mê… Hãy tỉnh thức một cách tự nhiên không gượng ép vì tu chứng nhất như, có nghĩa là tu hành và thâm nhập biển tánh không sai khác, không tìm cái gì và cũng không được cái gì, mà chỉ hằng sống với cái tâm sẳn có của mình. Sóng và nước chưa từng tự tách rời, cũng như gió và lửa vẫn chưa hề lìa nhau, thì tại sao chúng ta lại cố công trong vô vọng tách rời thân tâm nhất như của chúng ta? Chỉ khi nào chúng ta thấy rõ như vậy thì cho dù niệm có khởi có động, nhất nhất trong đi đứng nằm ngồi và mọi sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày đều là chơn như thì còn nói chi nữa đến giác ngộ và giải thoát? Làm được như vậy cho dù chưa đạt được cứu cánh Niết Bàn của Tam Thế Chư Phật, cuộc sống cuộc tu của chúng ta cũng đã thong dong, tự tại, an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc lắm rồi vậy!


475. ĐƯỜNG VÀO ĐẤT PHẬT

Tại sao ai trong chúng ta cũng sanh ra, lớn lên, rồi bịnh hoạn, rồi già yếu và tử vong, nhưng không có cái sanh lão bệnh tử nào giống với cái sanh lão bệnh tử nào? Mỗi chúng sanh nói chung và con người nói riêng đều có một vị trí khác nhau trong không gian vô cùng và thời gian vô tận nầy. Chính vì thế mà mỗi người chúng ta dù cùng đi đến mục tiêu cuối cùng là tử vong, nhưng cuộc hành trình trăm năm nầy của chúng ta lại hoàn toàn khác nhau. Tại sao cùng sanh ra làm con người mà lại có người đẹp kẻ xấu, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, người phú quí kẻ cùng đinh hạ tiện?

Theo Phật thì từ vô thỉ, trong không gian vô cùng và thời gian vô tận nầy, Phật tánh ở chư Phật thế nào thì Phật tánh ở chúng sanh cũng như thế ấy. Tuy nhiên, theo dòng thời gian, Phật tánh ở chư Phật vẫn vậy, trong khi đó chúng sanh thì ngày càng xa lìa cái Phật tánh của chính mình, cho đến một lúc nào đó tự mình từ chối Phật tánh của mình để bỏ nhà đi bụi đời, không còn biết đâu là đường đi lối về. Thậm chí còn tin tưởng tà vạy, chỉ một bề y nương vào những thế lực bên ngoài. Chính vì thế mà trước khi nhập diệt, Đức Phật đã để lại những lời di giáo sau cùng: “Hãy tự mình là nơi nương tựa cho mình, tự mình là hòn đảo vững chắc cho mình dù sóng yên gió lặng hay dù mưa dồn sóng vỗ.” Đây là điểm tối quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Về nương nơi chính mình không có nghĩa là không cần đến ai vì chính Phật cũng đã từng nhắn nhủ tứ chúng rằng khi mê thầy độ, đến khi đã ngộ rồi phải tự độ và độ tha kia mà. Thật là một giáo lý trung dung tuyệt vời cho cả người tại gia và bậc xuất gia. Khi mê vì bị vô minh che lấp nên không còn thấy đâu là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Khi mê thì ôm lòng làm nô lệ cho tham sân si, làm bạn bè với mạn nghi tà kiến, và làm đệ tử cho sát đạo dâm vọng. Lúc đó phải nhờ đến thầy chỉ vẻ cho thấy đâu là đường chánh nẻo tà. Khi sa chân vào sa đọa trụy lạc thì nhờ đến thầy chỉ cho giáo lý hướng thượng. Khi mê dong ruỗi đó đây gây tội tạo nghiệp thì phải nhờ thầy dạy cho con đường thoát nghiệp thoát tội. Điều nầy không có gì sai trái vì không biết đường thì phải nhờ thầy chỉ đường chỉ nẻo. Tuy nhiên, không thể nào nhắm mắt ỷ lại vào tha lực mãi được. Người Phật tử chơn thuần phải lắng nghe lời Phật dạy, phải tinh tấn tu hành sao cho hết mê, phải vẹt bỏ vô minh u tối cho trí tuệ bừng sáng, để một ngày nào đó hết mê tự độ, rồi độ tha. Khi đã hết mê rồi, bất cứ người Phật tử chơn thuần nào cũng phải cố gắng đem lời vàng của Phật ra mà dẫn dắt dòng đời, phò hưng Phật pháp. Lúc đó chẳng những tự mình rửa sạch bụi trần, chuyển si mê làm trí tuệ, bỏ hôn muội lấy quang minh, thấy đâu là nẻo tà đường chánh. Người con Phật chơn thuần phải luôn tâm niệm tự mình cải ác theo lành và giúp người bỏ tà về chánh. Con người ấy nếu không được phước đức tròn đầy và tướng hảo quang minh sáng chói rỡ ràng như Phật, thì ít ra cuộc sống cuộc tu từ đầu đến chân cũng đầy lòng từ bi hỷ xả. Con người ấy dù tu theo pháp môn nào, dù thiền, dù tịnh, hay dù mật cũng một lòng tinh tấn tu hành giải thoát. Giải thoát là tự cởi trói; giải thoát là tự nguyện trả nợ tiền khiên; giải thoát là hiện đời bỏ ác làm lành; giải thoát là chối bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm vọng; giải thoát là sống một cuộc sống thật bình dị trong an lạc, tỉnh thức và thanh tịnh. Đạo Phật, muốn nói là một tôn giáo cũng được, muốn nói là một phương tiện sống đầy an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc cũng được. Triết lý sống theo đạo Phật ngập tràn những từ bi hỷ xả, khoan dung độ lượng, bác ái vị tha, luôn lấy lợi tha làm cứu cánh trong cuộc sống, luôn tự chuyển hóa và giúp tạo dựng một đời sống cao đẹp và đầy ý nghĩa, trong mọi hoàn cảnh xã hội. Trong các kinh điển, Đức Từ Phụ đã khẳng định về tinh thần bình đẳng cao tuyệt của đạo Phật: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Nghĩa là ai cũng có thể đi vào đất Phật và có đầy đủ khả năng tiến tới chỗ giác ngộ hoàn toàn như Đức Phật. Như vậy đường vào đất Phật là con đường hiện thực, tại đây và ngay trong kiếp nầy, chứ không mơ hồ không nắm bắt được. Đường vào đất Phật là con đường chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc, con đường diệt trừ mọi ám muội si mê cho mình và cho người để cho tâm trí ngày càng sáng ra, để từ đó tận diệt được những khổ đau phiền não mà dựng nên một đời sống đầy an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Đường vào đất Phật là con đường mà trên đó niềm tin vào khả năng hiểu biết đúng đắn rằng mỗi người trong chúng ta đều có khả năng thành Phật. Đường vào đất Phật là con đường của tình thương và sự hiểu biết với chúng sanh mọi loài, không phân biệt giai cấp, không mục hạ vô nhân. Đường vào đất Phật là con đường mà năm xưa Đức Từ Phụ đã khai mở với lòng thương người thương vật vô hạn, cứu khổ ban vui, là con đường sống thật thanh cao và tu thoát trần, là con đường sống an vui không bị phiền não quấy nhiễu và chết trong an ổn tự tại.

Hơn thế nữa, hai lối cốt yếu để vào đất Phật là phát tâm và lập nguyện vì có phát tâm mới có sự khởi đầu và có lập nguyện mới có tinh tấn nỗ lực tự lợi lợi tha và tự giác giác tha. Phát tâm ở đây là phát tâm Bồ Đề và lập nguyện ở đây là nguyện “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Bỏ mất Bồ Đề tâm mà tu các thiện pháp, đều thành ma nghiệp.” Người con Phật chơn thuần phải luôn cẩn trọng, vì bỏ mất Bồ Đề tâm mà còn tai hại như thế, huống là chưa phát hay không chịu phát tâm Bồ Đề mà tu các thiện pháp chắc hẳn phải rơi vào ma đạo không thể nghĩ bàn. Dù xuất gia hay tại gia, muốn đi vào đất Phật không thể chậm trễ trong việc phát tâm lập nguyện. Nếu nói muốn đi vào đất Phật mà không chịu cứu xét tự tâm, chỉ lo trau tria bề ngoài, tham cầu lợi dưỡng, ham muốn danh thơm tiếng tốt của thường tình thế tục, đắm say dục lạc hiện đời, vân vân, kẻ ấy đang hành trình vào ma địa. Người Phật tử chơn thuần muốn đi vào đất Phật phải phát tâm không mong cầu lợi dưỡng, danh vọng, cũng chẳng tham đắm dục lạc; mà tất cả chỉ hành xử vì lợi tha mẫn chúng. Con người ấy luôn tâm tâm niệm niệm thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh, dù gặp phải khó khăn trở ngại đến đâu cũng chặt lòng chặt dạ không thối lui, dù chúng sanh có ngoan cường thế mấy cũng không nãn chí thối tâm. Trên đường về đất Phật dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng sẽ phạm phải tội lỗi, khi phạm phải lỗi lầm, đừng hoảng sợ thối lui, mà phải phát lồ sám hối. Chính Đức Phật đã nói rõ ràng trong các kinh điển của Ngài: “Trên đời nầy có hai hạng người cao quý như nhau, một là các bậc Thánh chưa bao giờ phạm phải lỗi lầm, hai là những người có phạm lỗi nhưng biết nhận và sửa lỗi.” Ngược lại, những ai có tội lỗi mà không chịu sám hối diệt trừ, trong tâm uế trược mà bề ngoài uy nghi, hoặc trước siêng năng tinh tấn sau biếng nhác thối lùi, hoặc có hảo tâm nhưng bị lợi danh lôi kéo nhiễm ô… kẻ đó không chóng thì chầy sẽ rơi vào ma đạo. Hơn thế nữa, người con Phật chơn thuần phải luôn phát nguyện rộng lớn, luôn tu hành cho mình và cho mọi người, chứ không vì sợ tam giới như nhà lửa hay thấy sanh tử như oan gia nên chỉ cầu tự mình thoát ly khổ ải còn thì sống chết mặc ai. Muốn đi vào đất Phật, người con Phật phải luôn xả vọng ly tướng vì ngoài tự tâm tự tánh ra không còn một pháp nào khác nữa, phải biết thẩm sát thâm sâu nên tu trì cái gì và nên xả bỏ cái gì. Nói rằng đi vào đất Phật là phát tâm như hư không, phát nguyện như hư không, tu hành như hư không, và chứng quả như hư không, lại cũng không thấy tướng hư không là thế nào… nhưng không rời bỏ trọng ân, luôn nghĩ nhớ đến sự khổ sanh tử, luôn sám hối nghiệp chướng, luôn cầu hướng thượng, nếu chưa đến được đất Phật thì quyết chí tu hành sao cho được vãng sanh về Cực Lạc, luôn phát tâm hoằng trì Chánh pháp và tôn trọng tánh linh của chính mình. Mỗi khi tưởng nghĩ đến công đức sâu dầy của Đức Từ Phụ, trên đường về đất Phật dù thịt nát xương tan người con Phật luôn phát tâm rộng lớn, tu đạo Bồ Tát, phát huy Phật pháp, cứu độ chúng sanh… để được phần nào đáp đền ân Phật. Đức Phật đã vì thương xót chúng sanh nên Ngài đã nhiều đời kiếp trước phát tâm tu hạnh Bồ Tát, chịu đủ mọi điều khổ cực, đãõ trải qua vô lượng kiếp tu hành và giáo hóa chúng sanh, đã thay thế chịu khổ cho chúng sanh trong địa ngục, đến khi chúng sanh có đủ căn lành được sanh vào nhân đạo, đức Phật đã thương xót để lại cho chúng ta cả một kho tàng Pháp Bảo chỉ dẫn cho chúng ta “Đường Vào Đất Phật,” chúng ta không có quyền lơ là trên bước đường trở về quê hương Phật. Người con Phật phải canh cánh bên lòng rằng cha mẹ nhiều đời đã vì ta mà gây tội tạo nghiệp, lắm khi vì mình mà cha mẹ không thiết gì đến con đường trở về đất Phật của riêng họ. Người con Phật chơn thuần phải tinh tấn tiến tu Phật đạo để có khả năng cứu độ chúng sanh trong ba cõi mười phương, làm được như vậy chẳng những cha mẹ hiện đời mà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp cũng được siêu thoát. Trên đường về đất Phật, chúng ta phải trải qua nhiều đời kiếp hành trình, phải gặp nhiều chúng sanh đa loại, biết đâu những loài sâu bọ ngoài đồng ruộng đã không từng là cha mẹ hay con cái của chúng ta trong những đời quá khứ. Vì thế người con Phật luôn xem chúng sanh mọi loài như Bồ Đề quyến thuộc của chính mình. Hơn thế nữa, trong nhiều kiếp luân hồi sanh tử, khi làm trời, làm người, mà lắm khi lại chìm nổi trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay a-tu-la… người con Phật phải luôn tỉnh giác rằng biết đâu con gà con vịt mà chúng ta sắp cắt cổ mổ bụng đây lại chính là cha mẹ hay con cái của chúng ta trong những đời quá khứ? Cũng như vậy, người mà chúng ta đang ôm ấp thương yêu trong hiện đời rất có thể đã từng là oan gia của ta đời trước. Chính vì thế mà chúng ta phải phát tâm chấm dứt tử sanh sanh tử để đi về đất Phật, phải phát tâm ra khỏi bể ái dục, tự giác giác tha để một ngày không xa nào đó ai nấy đều đồng bước lên con đường trở về đất Phật. Tuy nhiên, đạo Phật nói dễ khó làm. Dễ nói đến độ đứa trẻ năm bảy tuổi vẫn nói được, nhưng khó làm đến độ già bảy tám chục tuổi vẫn chưa chắc đã làm xong. Tại sao lại có trạng huống nầy? Bản chất của chúng sanh là ưa tà ghét chánh, lúc nào cũng chợt mê chợt tỉnh, lúc nào cũng ham tự mình trói hơn là cởi trói. Chúng ta như những cánh kiến mùa thu đang ở bên bờ của vực thẳm của tai ương hoạn họa, thế mà chúng ta vẫn dửng dưng như không, vẫn lấy những khoái lạc tạm bợ của thế gian làm hạnh phúc. Phật vì thương xót nổi mê chìm của chúng sanh muôn loài nên Ngài mở lượng từ bi, phát đại nguyện tìm đường giác ngộ giải thoát. Ngài đã giác ngộ giải thoát và chia xẻ lại tất cả những gì Ngài biết. Còn chúng sanh chúng ta vẫn cứ đi trong u u minh minh, không chút kinh vì cõi Ta Bà ngũ trược ác thế nầy, vẫn vỗ tay tán trợ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Hỡi những người con Phật chơn thuần, hãy lắng nghe lời Phật dạy: “Sớm mai được nghe đạo, xế chiều dù có chết cũng không tiếc.” Thật vậy, Phật cũng đã từng khuyến tấn tứ chúng rằng: “Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Được thân người, gặp Phật pháp mà nỡ để cho thời gian luống qua vô ích quả là uổng cho một kiếp người.” Trong thời không có Phật và chưa có Phật pháp thì không nói làm chi, đàng nầy Phật đã thị hiện và đã trao truyền lại cho chúng ta tất cả những gì Ngài liễu ngộ, thế mà chúng ta vẫn cứ cam tâm lăn trôi trong ba nẻo sáu đường, hết ngày dài rồi lại đêm thâu chúng ta mãi miết dong ruổi theo ác nghiệp, chướng nghiệp; chúng ta vẫn sống trơ trơ như cỏ cây đất đá, thật là tội nghiệp cho chúng ta quá!

Hỡi những người con Phật chơn thuần! Hãy mau tỉnh giấc mê đồ. Hãy thấy lửa đang hừng hực cháy trong cõi Ta Bà ngũ trược ác thế nầy. Hãy giữ vững tín tâm nơi Đức Thích Tôn Từ Phụ. Hãy cố gắng hành trì diệu pháp, vun trồng tịnh duyên. Hãy tin rằng chỉ có tu theo Phật mới có cơ tiêu tam chướng, trừ phiền não và diệt chư tội chư ác. Những người con Phật hãy cố gắng nghe kinh học pháp để liễu nghĩa Phật pháp, hãy dựa vào cả lý lẫn sự để hiểu rõ ràng tông chỉ của Phật, hãy sống tu với kinh điển sao cho tâm mình in với tâm Phật. Hãy sống tu như Phật ngay từ bây giờ, chứ đừng đợi đến lúc tóc bạc răng long, bụng trống lòng cao, chẳng còn muốn nương tựa vào bạn lành nữa, ngược lại chỉ biết ngông nghênh ngã mạn, tà kiến, ác kiến… một đời đã trôi qua với dẫy đầy những sân hận, tham lam, bỏn xẻn và tội lỗi ác nghiệp, không còn chỗ nào cho từ bi hỷ xả, bác ái vị tha, bố thí, nhẫn nhục nữa. Đừng mơ tưởng viễn vông nữa hỡi những người con Phật! Đừng tưởng rằng hằng ngày cứ lăn trôi theo tham, sân, si, hoặc giả chỉ tu qua loa, đến chừng gần nhắm mắt niệm mươi câu “Lục Tự Di Đà” là được Phật rước về Tây Phương Cực Lạc. Hãy tỉnh cơn trường mộng hỡi những người sống say chết mộng! Tất cả những thứ đó chỉ là vọng kiến tưởng tượng vô căn cứ mà thôi, chứ không có cái gì đúng theo luật “nhân quả” cả. Theo Phật, hễ nhân nào là quả đó, không có ngoại lệ, hiện tại gieo nhân phiền não tham, sân, si, không có lý gì khi chết lại gặt được quả “Tây Phương Cực Lạc” được, còn hiện tại an vui tự tại và cứ an vui tự tại mãi thì khi chết phải là an vui tự tại thôi. Đường vào đất Phật không phải là con đường tưởng tượng hay huyền ảo, mà là con đường có thật, con đường mà năm xưa Phật Tổ đã đi và đã đến. Đây là con đường của sự chuyển hóa mà tiến trình phải mất một thời gian là ba a tăng kỳ, không có ngoại lệ, không có chuyện tu tắt tu tóm. Trên con đường nầy niềm tin luôn ấp ủ trong tim, hạn chế tự ngã và buông xả những thử thách lớn trong đó ai trong chúng ta cũng nên luôn nhớ rằng tất cả chỉ là sản phẩm của tâm thức và do tâm thức dựng nên chứ không có tự ngã. Đường vào đất Phật không có hình tướng vì nó bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, nó chính là con đường tâm linh không có giới hạn mà mọi người Phật tử chúng ta hằng ấp ủ. Khi đi trên con đường nầy, người con phật lúc nào cũng phải làm một người quan sát vô tư mới mong vượt qua khỏi bờ mé của những hệ lụy, phiền não và khổ đau. Mọi sự mọi việc có đến có đi, có thành có hoại, chúng tự vướng rồi tự gỡ, tự hợp rồi tự tan, chúng ta cứ thản nhiên đi tới thì cơ hội đến được thanh tịnh độ hay đất Phật sẽ gần hơn. Phải làm người quan sát vô tư và phải buông xả chúng ta mới có khả năng cân bằng những nỗ lực, tác ý và năng lực của chúng ta. Đánh rơi tư cách của người quan sát vô tư là chúng ta vướng mắc ngay lập tức vào đủ thứ hệ lụy. Nhiều khi chúng ta cứ tưởng chúng ta đang nỗ lực tiến tu, nhưng kỳ thật chính cái vọng tưởng “tưởng mình đang nỗ lực tiến tu” nầy sẽ làm chúng ta vướng mắc ngay lập tức vào bẫy rập của thường tình thế tục. Người con Phật hãy luôn cẩn trọng, đường vào đất Phật của chúng ta hãy còn xa và hãy còn cần nhiều a tăng kỳ kiếp, nhưng tiến trình đi vào đất Phật không thể thiếu những hành trang mà Phật Tổ đã trao truyền, phải tịnh lự thân tâm để có được khả năng phản quang quang tự kỷ, từ đó thấy được mình hãy còn vướng gì và cần tu gì. Trên con đường ấy không thể nào thiếu được “Văn Tư Tu” thật đúng nghĩa của nó. Hãy tỉnh thức những gì đang tuần tự xãy ra nơi chính mình thì chúng ta sẽ thấy ngay rằng Phật pháp và thế gian pháp không sai khác. Bát Chánh Đạo ở đây mà Bát Tà Đạo lại cũng ở đây, chánh niệm ở đây mà tà niệm vọng niệm lại cũng ở đây, chúng hiện diện ngay trong chúng ta ở mọi thời mọi lúc, chúng ta không cần phải gò ép kềm giữ chúng, chỉ cần chúng ta tỉnh thức để thấy được những gì đang xãy ra quanh ta là đủ. Trên đường vào đất Phật, chúng ta sẽ không chỉ gặp kỳ hoa dị thảo, mà chúng ta sẽ gặp nhiều lắm những rác rưởi của thường tình thế tục như tham lam, sân hận, si mê, tật đó, ganh tỵ, ghen ghét, ác kiến, tà kiến, vân vân và vân vân. Chúng ta phải tinh tấn tự chuyển hóa những thứ nầy một cách thư thả, hòa ái và kham nhẫn. Người con Phật nên luôn nhớ lời Phật dạy: “Tất cả chỉ là những sản phẩm của vọng tưởng,” nhớ để thấy rằng chính vọng tưởng là tác nhân làm hạn chế khả năng đi vào đất Phật của mình, thấy để buông bỏ vọng tưởng mà quay trở về cái thấy biết như thực và ngay trong lúc nầy của mình. Người con Phật nên luôn nhớ rằng muốn đi vào đất Phật, phải cố gắng chuyển hóa ngay những gì mà mình có thể chuyên hóa được, chẳng kể ích hay nhiều, chứ đừng chờ đừng đợi vì thời gian sẽ không chờ đợi một ai đâu quý vị ơi! Tuy nhiên, chuyển hóa không có nghĩa là học hay đàm luận, chuyển hóa là một tiến trình mà theo giáo thuyết nhà Phật thì đây là tiến trình “tự thanh tịnh,” “tự tu sữa,” “tự hướng thượng,” vân vân. Người con Phật phải luôn thấy đời mình như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay. Tích tắc trôi qua là đã một đời loay quay với những mẫu chuyện cũ kỹ của quá khứ hay ảo vọng của tương lai, mà chẳng thấy đâu là những giây phút quí báu của hiện tại. Người tu Phật không bao giờ hồ đồ đồng hóa mình với những biến cố xãy ra bên ngoài hay những ảo vọng bên trong tâm thức. Chừng nào chúng ta còn tiếp tục đồng hóa chúng ta với những biến cố bên ngoài hay những ảo vọng bên trong, chừng đó chúng ta chưa đi được trên con đường trở về đất Phật. Kỳ thật, tất cả rồi sẽ qua đi chứ không có gì là vấn đề nếu chúng ta dám can đảm cả quyết như vậy. Có nỗi khổ, nỗi lo âu, nỗi khổ đau phiền não, hay nỗi bi thương trầm thống nào có thể tự tồn với luật “Sanh trụ dị diệt” đâu? Chỉ vì chúng ta cứ mãi nghĩ hay mãi ôm ấp những nỗi bi thương trầm thống đó mà thôi. Chúng ta phải luôn thành thật với chính mình và luôn tự hỏi, “Vì sao chúng ta quyết định tu hành. Nếu câu trả lời là chúng ta muốn đi vào đất Phật thì chúng ta phải thành thật với chính mình trong cuộc sống cuộc tu, phải sống phải tu sao cho thật xứng đáng là là một người con Phật. Người con Phật phải luôn nhớ rằng đạo Phật nói dễ khó làm, nói dễ đến độ đứa trẻ lên bảy cũng có khả năng nói được, nhưng khó làm đến độ ông lão tám mươi chưa chắc đã làm xong. Nói vô thường thì dễ, nhưng chứng kiến cảnh gió vô thường thổi qua cướp mất những người thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái không phải là chuyện dễ. Dù khó chứng kiến thế mấy thì vô thường vẫn là vô thường. Tất cả vạn sự vạn vật trên đời nầy đều là vô thường, chứ chẳng có chi là thường còn. Khi thấy được như vậy, chúng ta mới có khả năng quẳng gánh lo âu mà bước lên đường vào đất Phật. Hỷ nộ ái ố, lo buồn, phiền não, vân vân chẳng làm gì được cho chúng ta trên đường vào đất Phật ngoài việc trì kéo chúng ta đi ngược lại. Người con Phật phải thấy như vậy để luôn trầm tỉnh trong mọi tình huống. Người con Phật chơn thuần phải luôn thấy được nguyên nhân của khổ đau, sự khởi sanh của khổ đau và làm cách nào để chấm dứt những khổ đau phiền não, mà không u mê kết bè làm bạn với chúng. Một khi đã thấu triệt được bốn chơn lý cao thượng (khổ tập diệt đạo) rồi thì chúng ta mới có năng lực giải thoát hoàn toàn khỏi sự khống chế của tâm thức và tình cảm, từ đó chúng ta mới vượt thắng được “tự ngã” và không bám vào bất cứ thứ gì ngay cả những chứng đắc nếu có. Người con Phật chơn thuần phải nên luôn nhớ rằng thời gian thấm thoát thoi đưa, một đời người qua nhanh hơn ánh điện chớp, thế mà lúc gặp thiện tri thức ta lại khinh chê, lúc gặp Phật pháp không chịu nhiếp tâm tu trì mà cứ nhởn nhơ nhàn đàm hý luận… tức là phỉ báng khinh chê Phật Tổ, mà khinh chê Phật Tổ là tự chối bỏ ông Phật nơi chính mình để tiếp tục đắm chìm nơi biển khổ sông mê vậy! Ngày xưa Đức Từ Phụ còn bỏ cả thân mạng để cầu nửa bài kệ, lấy thân làm giường ngồi mà cầu diệu pháp, bóc da làm giấy, bẻ xương làm bút, chích máu làm mực để sao chép kinh điển trong những kiếp trước của Ngài. Lại nữa, Đức Dược Vương Bồ Tát đã đem thân làm đèn đốt để báo ơn chư Phật, Ngài Thường Đề Bồ Tát đã ban tim gan mình để học được pháp Bát Nhã, Ngài Thần Quang đã chặt cánh tay mình để làm lễ cầu đạo, vân vân. Bấy nhiêu đó đủ cho thấy kẻ phàm phu chúng ta há có con đường nào khác sao quý vị? Chư Phật và chư Bồ Tát mà còn bắt đầu bằng con đường cầu đạo nầy, thế nhưng những chúng sanh đang lặn hụp trong trầm luân khổ hải lại chẳng biết khinh vì, chẳng những không tìm đến các bậc minh sư để nghe kinh học pháp mà còn dong ruổi nhàn đàm hý luận, chê kinh ngạo pháp. Thật tình mà nói, cái tội nhàn đàm hý luận và chê kinh nhạo pháp còn nặng hơn tội chưởi mắng Phật. Phật tử chơn thuần phải luôn biết kinh vì, kẻo đời đời phải sa vào địa ngục vô gián.

Lại nữa, người tu Phật không bao giờ ưa chuộng cái văn hoa bóng bẫy bên ngoài mà quên mất nghĩa lý thâm diệu của kinh. Thấy được nghĩa lý của kinh mà không chịu hành trì một cách rốt ráo thì thà là đừng thấy đừng biết vẫn hơn. Thấy như vậy người tu không thể nào dễ duôi trây lười được. Người con Phật chơn thuần phải biết dùng gươm trí huệ cắt đứt mọi gốc rễ của khổ đau phiền não, phải cắt đứt ngay khi những gốc rễ ấy vừa mới manh nha, phải can đảm đoạn tuyệt ái dục, phải từ chối không chứa sắc tướng, không nhiễm trần ai. Muốn thoát ly sanh tử không nói mà được, không luận mà tới. Ngược lại, phải công phu tu luyện như người kéo cây lấy lửa, dù kéo bao lâu đi nữa, hễ chưa được lửa là vẫn phải tiếp tục kéo một cách quyết liệt chứ không được ngừng. Bản chất của chúng sanh hễ một giờ không niệm Phật là giờ ấy niệm ma, hễ một giờ không tham thiền nhập định là giờ ấy còn dây dưa với nhân ngãi bỉ thử chứ làm sao dứt khoát được với các mối nhơn duyên. Người phát tâm tu theo Phật phải luôn cẩn trọng. Nhàn đàm hý luận về thường hay vô thường, thế giới vũ trụ hữu biên hay vô biên, Đức Phật cho là chuyện viễn vông, không ích lợi gì cho cuộc sống của con người. Trước khi nhập diệt, chính Đức Phật đã nhắn nhủ tứ chúng rằng: “dù tu dưới bất cứ pháp môn nào mà không chịu giữ giới là không phải tu theo Phật. Người không giữ giới là người không chịu nhìn vào thực tế của cuộc sống cuộc tu, con người ấy không cách chi thoát khỏi ưu bi khổ não của trần tục, chứ đứng nói chi đến Niết Bàn hay giải thoát. Đức Phật khẳng định đạo Phật là đạo của mọi loài chúng sanh, đặc biệt là con người. Khi nào con người còn chất chứa tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… khi đó từ bi hỷ xả, và lục độ Ba La Mật của nhà Phật vẫn là những món ăn tinh thần cấp thiết cho mọi người. Khi nào xã hội nầy còn đầy dẫy những bất công thối nát, chừng đó tứ chánh cần, tứ như ý túc và ngũ căn, ngũ lực vẫn là những cây chổi quét sạch rác rưởi của trần tục. Khi nào tâm chúng sanh vẫn còn là một mớ bùi nhùi, vẫn còn dong ruổi trong bợn nhơ trần cấu, chừng đó Bát Thánh Đạo và Thiền định vẫn còn là những món ăn cần thiết và tuyệt vời cho mọi loài. Theo đạo Phật, không có cái gì ngẫu nhiên mà hiện hữu, không có thiên lý an bài, cũng chẳng có tiền định. Ngược lại, giáo lý nhà Phật nói rõ: “Hễ cái nầy có thời cái kia có, cái nầy không thì cái kia cũng không.” Không bao giờ có chuyện trồng cây tham, sân, si mà nở ra hoa an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Cũng như vậy, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến, và sát, đạo, dâm, vọng không bao giờ đưa con người đến giác ngộ và giải thoát. Hoa của buông lung, phóng túng và phá giới phải là địa ngục không sai khác. Tuy nhiên, đạo Phật không chủ trương trốn đời khổ hạnh hay thuận đời để được an hưởng lạc thú vật chất. Những người con Phật phải dùng trí tuệ và giáo lý tuyệt luân của nhà Phật mà bước lên đường trung dung. Người con Phật không dùng mưu sâu kế độc để hại ai, nhưng cũng không nhu nhược yếu hèn để cho ai muốn làm gì thì làm. Những người con Phật luôn nhìn nhau bằng phẩm hạnh, đạo đức và trí tuệ chơn chánh, và luôn tự phấn đấu để tận diệt tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố… luôn lấy lục hòa mà đối xử với nhau, luôn lấy từ bi hỷ xả để san bằng những bất công của xã hội, luôn buông bỏ tất cả để giải thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não. Người con Phật luôn noi gương Đức Phật để cải thiện tự thân hầu biến gia đình và xã hội thành những nơi tốt đẹp hơn. Theo Đức Phật, chúng ta đừng đổ thừa vào bất cứ thứ gì vì con người là nhân tố chính. Gia đình và xã hội nên hư, tốt xấu là hoàn toàn tùy thuộc vào sự hành xử của mỗi người chúng ta. Đã từ vô thỉ chúng ta vì mê mờ mà thân, khẩu, ý gây tội tạo nghiệp. Cũng vì mê mờ mà chúng ta cứ đi quanh đi quẩn mãi trong vòng luân hồi sanh tử. Người con Phật chơn thuần, muốn đi ngược dòng, trước hết phải thanh tịnh thân khẩu ý bằng cách giữ giới. Có giữ giới mới bỏ được các nghiệp xấu và từ đó tâm ý mới được trong sạch vắng lặng. Từ đó mà chúng ta chỉ một bề bỏ ác làm lành. Nếu chúng ta tu y như Phật, với cái nhìn như thật của trí huệ, lấy như thật đoạn tận các lậu hoặc để được giác ngộ và giải thoát thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ được như Phật. Nếu chúng ta chịu đi đúng trên tám nhánh của con đường Trung Đạo, tức là hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, nói lời chân chánh, việc làm chánh đáng, mưu sinh chân chánh, siêng năng làm lẽ phải, nhớ nghĩ chân lý và giữ tâm linh vắng lặng theo chánh đạo… thì con đường thoát ly khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não là tất nhiên.

Trên đời nầy chúng ta đã có quá nhiều chướng duyên nghịch cảnh và khổ đau phiền não. Ngoài sinh, lão, bệnh, tử ra chúng ta còn quá nhiều khổ đau khác. Nào là mơ ước mà không toại nguyện, thân thể thạnh suy, người không ưa mà phải gặp hằng ngày, hoặc phải chia ly xa lìa những người thân yêu, rồi đến những tai nạn do thiên nhiên tạo ra từ bão táp phong ba đến thủy và hỏa tai… Thế mà đa phần chúng ta cứ ngoảnh mặt làm ngơ làm như chúng ta không nghe không thấy gì đến những hệ lụy đang từng giây từng phút vây quấn lấy chúng ta. Chúng ta cứ an nhiên tiếp tục cá lớn nuốt cá bé rồi người bắt cá lớn, người có uy thế hiếp người cô thế… thật là tội nghiệp vô cùng. Người con Phật chơn thuần, dù xuất gia hay tại gia, phải tự khắc tự chế theo giới luật mà Đức Từ Phụ đã trao truyền, nếu không giữ được 348 hay 250 giới cho tỳ kheo ni và tỳ kheo, thì hãy cố giữ cho được 48 giới cho Bồ Tát hay 10 giới cho sa di. Nếu không giữ được giới cho người xuất gia thì ít ra phải cố giữ cho được 5 giới cho người tại gia. Nếu không giữ được 5 giới thì xin hãy cố giữ được giới nào hay giới đó, chứ đừng dong ruổi hết chùa nầy đến chùa khác biện giải hý luận. Thế giới thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, chư pháp hữu hữu vô vô… không ăn nhằm gì đến cuộc sống an lạc, tỉnh thức, hạnh phúc và cuộc tu giác ngộ giải thoát của mình. Càng biện giải hý luận, tâm ta càng loạn động và ý ta càng dấn thân vào những tranh chấp hơn thua, được mất một cách triền miên. Nên nhớ đường vào đất Phật luôn rộng mở cho chúng sanh mọi loài, nhưng tự chúng sanh phải đi vào bằng cả thân lẫn tâm. Cổ đức có dạy: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.” Thật vậy, đường đi dù dễ thế mấy, hễ không đi thì không tới. Trên đường về đất Phật, khi mê mờ thì nhờ ánh sáng của Phật Pháp Tăng dẫn dắt, nhưng khi tâm thức đã lóe được ánh sáng của chính nó thì chúng ta phải vận dụng cái ý thức sáng suốt ấy mà tự tu tự độ để rồi sau đó độ tha cứu chúng nếu cần. Người con Phật luôn vận dụng ý thức sáng suốt của mình để phản quang tự kỷ, để thấy cho được những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến còn chất chứa trong tâm mình. Người con Phật nên dùng ý thức sáng suốt để thấy rõ bộ mặt thật của vạn pháp, thấy sự tương quan mật thiết của nhân quả, thấy tính đặc thù của trùng trùng duyên khởi, cái nầy có thì cái kia có, cứ thế mà trùng trùng duyên hợp duyên tan. Trên đường về đất Phật, người con Phật phải luôn thấy vạn pháp vô ngã, do duyên hợp mà có hình tướng, rồi khi duyên tan thì hình tướng liền dị diệt. Hơn thế nữa, người con Phật phải luôn thấy tâm nầy vô thường và biến diệt biến hiện không ngừng nghỉ. Cái thân của hôm nay không còn là cái thân của hôm qua, cũng như vậy cái tâm của hôm nay không còn là cái tâm của hôm qua nữa. Con người ấy luôn ý thức được những điều mình sắp nói sắp làm sẽ có tác động thiện lành hay tác hại lên chúng sanh như thế nào, nên luôn cẩn trọng xem coi thân khẩu ý có làm tác hại đến chúng sanh khác hay không. Nếu thấy những điều mình sắp nói sắp làm sẽ mang lại lợi lạc cho tha nhân là nói là làm ngay dù biết rằng khi nói và làm những điều nầy có phải thịt nát xương tan, người con Phật chơn thuần vẫn làm. Ngược lại, khi thấy được những điều mình sắp nói sắp làm sẽ mang lại khổ đau cho tha nhân, người con Phật quyết không làm dù khi nói hay làm như vậy mà có được của cải chất đầy tam thiên đại thiên thế giới. Người con Phật phải luôn vận dụng ý thức sáng suốt để thấy rõ đâu là ác, đâu là thiện, đâu là thanh tịnh, đâu là nhiễm ô, đâu là động, đâu là tĩnh, vân vân, để từ đó nhiếp tâm tu trì lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý.” Người con Phật phải luôn thấy những sai trái trong nhận thức trước đây của mình, Đức Phật gọi đó là “giác ngộ.” Nhờ thấy những sai trái trong nhận thức trước đây của mình mà chúng ta có cơ bỏ tà về chánh, bỏ ngụy về chơn, bỏ thiên về viên, bỏ biên kiến định kiến mà quay về với chơn lý nhất như. Trong thời Đức Phật còn tại thế, Ngài đã vạch cho chúng sanh mọi loài về con đường về đất Phật, nhưng không có lần nào Ngài nói giống lần nào. Có lúc Ngài nói Ngũ Thừa (Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát), có lúc Ngài nói Tam Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát), rồi có lúc Ngài nói Nhất Thừa (Phật Thừa). Đối với một bậc chánh đẳng chánh giác như Đức Thế Tôn thì không có chuyện bất nhất, nghĩa là khi nói vầy khi nói khác. Dù Ngũ, Tam hay Nhất Thừa, con đường nào cũng đưa chúng sanh về đất Phật; tuy nhiên, Đức Phật đã tùy theo căn cơ của từng loại chúng sanh mà dẫn dắt họ trong khả năng mà họ có thể tiến tu được. Thấy như vậy, người con Phật chơn thuần, hãy đi thẳng vào đời, dù ở trong vai trò nào cũng cố gắng làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Hãy cố dẹp bỏ mọi chấp trước phân biệt của thường tình thế tục như là tôi tốt anh xấu, tôi đúng anh sai, tôi hiền anh dữ, tôi hay anh dở, tôi sang anh hèn, tôi cao thượng anh hạ tiện, tôi tu cao anh tu thấp, vân vân và vân vân. Một khi vừa khởi tâm thấy người xấu tức là mặc nhiên thừa nhận mình tốt, từ đó mà lòng ngã mạn cống cao được trưởng dưỡng, đến lúc nào đó thì chúng ta sẽ thấy rằng những người chung quanh toàn là người xấu xa hèn hạ, mà hễ xấu xa là mình muốn tránh, rốt rồi mình trở thành một chúng sanh lạc loài và khổ đau nhứt của địa cầu nầy, rồi từ lạc loài đi đến chỗ chán đời yếm thế, rồi sanh ra làm càng làm bậy và gây thêm tội tạo thêm nghiệp. Phật tử chơn thuần hãy cố quay về với chính mình sao cho tâm ý chúng ta luôn bình thản trong cuộc sống cũng như trong cuộc tu. Trong cuộc sống hằng ngày chỉ nên thấy lỗi mình chứ không nên thấy lỗi người, chỉ nên thấy mình hãy còn dở chứ đừng thấy người dở, vì như vậy chúng ta mới có chỗ cho tu học và hành trì. Nên luôn nhớ “bảy mươi chưa chắc mình lành,” dù tài giỏi thế mấy cũng có những sơ hở hay khuyết điểm của riêng mình. Chính vì thế mà trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đã dạy: “Nếu người thật chơn tu, không thấy người đời lỗi. Nếu thấy lỗi của người, lỗi mình đến bên trái. Người sai ta không sai, ta sai tự có lỗi. Chỉ dẹp tâm mình sai, dứt trừ phiền não sạch. Yêu ghét chẳng bận lòng, duỗi thẳng hai chân nghỉ.” (Nhược chơn tu đạo nhơn, bất kiến thế gian quá. Nhược kiến tha nhơn phi, tự phi khước thị tả. Hà phi ngã bất phi. Ngã phi tự hữu quá. Đản tự khước phi tâm, đả trừ phiền não phá. Tắng ái bất quan tâm, trường thân lưỡng cước ngọa). Đây không phải là lời nói lúc trà dư tửu hậu của thường tình thế tục, mà là những lời cảnh tỉnh nghiêm túc của một bậc giác ngộ như Lục Tổ Huệ Năng. Thật vậy, người chơn tu không có đủ thì giờ để phản quang tự kỷ để thấy những sai trái của mình, xem coi mình còn tham sân si bao nhiêu để tu sửa, thì có đâu thì giờ để đi soi mói lỗi người. Người có sai trái là chuyện của người, không ảnh hưởng đến nắng mưa giải thoát của chính mình. Người con Phật nên nhớ vừa mở miệng ra nói lỗi người là mình đã tạo nghiệp rồi. Đừng tiếp tục ngụy biện theo lối của lũ Ba Tuần là “chỉ ra chỗ sai trái cho người sửa, chứ không chỉ thì làm sao họ biết mà sửa?” Vân vân và vân vân. Kỳ thật, bản chất ngã mạn cống cao của chúng sanh nó trổi lên một cách vi tế mà mình không thể nào đoán biết được. Chính vì vậy mà Đức Phật khuyên chúng ta chỉ nên thấy lỗi mình chứ không nên thấy lỗi người. Làm được như vậy, dù chưa hoàn toàn thoát ly tham, sân, si chúng ta cũng không bị ngũ dục lục trần cuốn hút vào nẻo vô định của luân hồi sanh tử. Hãy cố gắng hơn lên hỡi những người con Phật!

476. CON ĐƯỜNG AN VUI VÀ HẠNH PHÚC

Phật tử chúng ta ai lại chẳng muốn chọn cho mình một cuộc sống hướng thượng và cuộc tu tự tại, nhưng trong xã hội văn minh vật chất hôm nay có lắm người chỉ biết cái thế trí biện thông để nói chứ không chịu làm. Bao nhiêu kinh Phật họ cũng đều đọc hết, nhưng đọc để chơi cho vui qua ngày tháng chứ không phải đọc để thấu lý rồi từ đó y nương theo mà tu hành. Thật tình mà nói, những hạng ấy tính tình cao ngạo hơn trời, nhưng âm chất lại mỏng thua tờ giấy quyến. Xã hội hôm nay sở dĩ phải đắm chìm trong xáo trộn cũng tại vì những con người sống say chết mộng, nói hay làm dở nầy. Những hạng nầy lúc nào cũng biện giải hý luận, lúc nào cũng dương dương tự đắc và luôn cho những lý luận của mình là siêu phàm nhập Thánh. Kỳ thật, ngay cả những việc thật bình thường và tối thiểu của một người con Phật như ngũ giới, họ vẫn chưa giữ được và cũng chưa hề có ý định trì giữ những giới nầy bao giờ. Bệnh ba hoa chích chòe, ăn nói khoác lác đã trở thành thông bệnh cho rất nhiều Phật tử hôm nay. Chính vì nhìn thấy và đoán biết tâm địa của chúng sanh trong thời mạt pháp nên Đức Từ Phụ đã dạy trong Kinh Tuệ Giác: “Tất cả các pháp đều vô thường, đau khổ và vô ngã. Con đường diễn biến từ quá khứ đến hiện tại chính là nguồn gốc của sanh, lão, bệnh, tử. Tất cả những đau khổ nầy đều do tâm si mê u muội của những con người cao ngạo, suốt đời chỉ biết có nhàn đàm hý luận, chỉ biết nói chứ chưa bao giờ biết làm.”

Thật tình mà nói, Phật và chúng sanh đã từng một thời có cùng một bản tánh, nhưng Phật đã thành Phật, còn chúng sanh vẫn lặn ngụp lăn trôi trong tam đồ lục đạo. Một thuở một kiếp nào đó, Phật Tổ cũng lang thang trong ba nẻo sáu đường, nhưng những cảnh sanh, lão, bệnh, tử bên ngoài thành Ca Tỳ La Vệ đã là những cú xốc mạnh làm động não tâm tư của một chúng sanh mong muốn vươn lên làm Phật. Sau khi giác ngộ và giải thoát, Phật Tổ đã khẳng định: “An vui không thể có trong dục lạc vì dục lạc là nguồn gốc của mọi khổ đau phiền não và lo âu. Không có bất cứ thứ gì trong cõi Diêm Phù Đề nầy có thể thỏa mãn được lòng tham dục của con người.” Lời dạy dỗ của Thế Tôn vẫn còn như vang vọng đâu đây, nhưng hãy suy gẫm lại đi hỡi những người con Phật! Hãy tự hỏi lòng mình xem coi tại sao Thế Tôn đã thành Phật gần 26 thế kỷ rồi, mà mình vẫn còn lặn ngụp lăn trôi. Hôm nay có cơ duyên làm người, nhưng chưa biết ngày mai sẽ phải làm con gì? Con trùng, con dế, hay con trâu, con bò, con heo? Tại sao một thời Thế Tôn cũng nghiệp duyên trĩu nặng, thế mà giờ nầy Ngài đang ngự trị nơi Niết Bàn tịnh tịch, còn chúng ta vẫn tiếp tục sống trong mê mờ. Trong các kinh điển Phật, Đức Từ Phụ đã dạy quá rõ ràng về cuộc sống an vui hạnh phúc và cuộc tu tự tại giải thoát. Chúng sanh, nhứt là con người cứ mãi trầm thống khổ đau vì những nhận thức sai lầm, từ đó chúng ta cam tâm nhận giả làm chơn, nhận tà làm chánh, nhận ác làm thiện, nhận vô thường giả tạm làm chơn như vĩnh hằng… Chính vì vậy mà những sự việc xãy ra trên đời, có người lấy làm vui thích, có người lại không tán thán. Lại có những việc có người cho là khổ trong khi người khác lại vui vẻ thực hành. Chẳng hạn như có người cho rằng chay lạt khó nuốt và giới luật khó giữ, trong khi có người thì luôn trường trai giữ giới. Ai muốn nghĩ sao thì cứ nghĩ, nhưng với người con Phật, những lời dạy dỗ của Thế Tôn luôn là kim chỉ nam cho cuộc sống an vui hạnh phúc và cuộc tu giải thoát, không thể nghĩ bàn. Trong Kinh Hạnh Phúc, Đức Phật dạy: “Những tham cầu thỏa mãn sở thích nhất thời chỉ là những nhân của khổ đau phiền não về sau nầy mà thôi.” Người con Phật muốn sống an vui hạnh phúc phải luôn tu tỉnh, phải luôn sống lương thiện, không làm việc ác, phải lấy cái vui của người làm cái vui của mình, luôn sống phù hợp với đạo lý xã hội. Người con Phật nên luôn nhớ rằng cuộc sống an vui hạnh phúc của mình liên quan mật thiết với sự an vui và hạnh phúc của người, vì muốn được an vui hạnh phúc mà gây khổ đau phiền não cho người là chuyện nghịch lý. Nếu mình không muốn ai trộm cắp của mình thì mình đừng trộm cắp của ai. Nếu mình không muốn ai sân hận với mình thì mình đừng sân hận với ai. Nếu mình không muốn ai làm tổn hại mình thì mình đừng làm tổn hại ai. Chính vì không muốn sát sanh hại vật mà người Phật tử ăn chay. Trong Kinh A Hàm, Đức Phật dạy: “Ly dục để sanh hỷ lạc là tâm ý của người thoát tục” nghĩa là nếu tránh xa được ngũ dục trần thế (sắc, thanh, hương, vị, xúc) hay tài sắc danh thực thùy sẽ có được cái vui của người thoát tục. Cuộc sống an vui và hạnh phúc của người con Phật là cuộc sống sáng suốt chứ không si mê theo thường tình thế tục. Con người ấy luôn tự phản tỉnh, luôn thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm tham, niệm sân, niệm tà kiến… vừa khởi lên liền biết nên không chạy theo. Người có cuộc sống an vui và hạnh phúc luôn tự thắng mình, luôn thắng những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến…, luôn được an ổn và có mối quan hệ vui vẻ với tha nhân. Con người ấy luôn tỉnh thức từng giây từng phút. Con người ấy luôn biết rằng nếu không khéo trong cuộc sống hằng ngày thì phiền não và vô minh sẽ khống chế và tăng trưởng, mà một khi phiền não vô minh tăng trưởng thì khổ đau trầm thống sẽ liền theo sau như bóng theo hình. Hơn thế nữa, con người ấy luôn lấy an vui hạnh phúc của người làm an vui và hạnh phúc của chính mình, luôn làm lợi ích cho tha nhân, luôn khuyên nhủ người khác với những giáo lý sống tu tuyệt vời của nhà Phật. Người có cuộc sống an vui hạnh phúc luôn làm con Phật chứ không làm những tên cùng tử quên mất kho báu nhà mình, lang thang phiêu bạt trong nghèo cùng rách rưới. Đức Phật đã dạy quá rõ ràng ai trong chúng ta cũng đều có sẳn một ông Phật, nhưng khổ nỗi vì bị vô minh trấn áp nên chúng ta quên mất ông Phật ấy để chạy theo vọng tưởng rồi tạo hết nghiệp nầy đến nghiệp khác để cứ mãi trầm luân trong ba nẻo sáu đường. Người con Phật muốn sống an vui và hạnh phúc phải nghe theo lời Phật dạy, phải biết vọng tưởng là không thật nhưng lại có khả năng dẫn mình đi mãi trong luân hồi sanh tử và khổ đau phiền não, vì vậy mà từ nay quyết định quay về sống với ông Phật nơi chính mình chứ không tiếp tục đuổi hình bắt bóng nữa. Người con Phật hãy lắng lòng suy gẫm và hành trì những lời Phật dạy trong cuộc sống cuộc tu hằng ngày để thấy rằng sống tu theo đạo Phật thật đơn giản và bình dị như Phật Tổ năm xưa. Giáo lý nhà Phật chưa bao giờ dạy ai trốn chạy những vô thường và khổ đau phiền não. Phật đã dạy rõ ràng rằng tu theo Phật là đem thân tâm mà dung nhiếp và thanh lọc khổ đau. Phật không tự xưng là toàn năng để bắt ép ai phải theo Ngài để được Ngài ban cho cuộc sống an lành hạnh phúc. Tuy nhiên, từ vô lượng kiếp chúng sanh đã lăn trôi trong vô lượng phiền não ràng buộc làm cho cuộc sống ngày càng trở nên khốn đốn và khổ não hơn. Lại không có duyên lành và phước đức nên lúc nào cũng quay cuồng trong cơn “túy sanh mộng tử.” Thế nên muốn cầu an vui hạnh phúc trong cuộc sống, hay tự tại giải thoát trong cuộc tu, con đường tu Phật là con đường độc đạo. Thế nhưng ngay cả những người tự xưng là con Phật, lại lắm khi đi ngược lại những lời Phật dạy. Thay vì dung nhiếp và thanh lọc khổ đau phiền não thì chúng ta lại u mê trốn chạy chúng. Thay vì chấp nhận tha nhân với những dị biệt để cùng nhau sống tu hài hòa thì chúng ta lại chống báng lẫn nhau. Người con Phật hãy lắng lòng nghe lời Phật dạy: “Muốn sống an vui hạnh phúc, muốn tu giải thoát, từ bi hỷ xả, nhu hòa nhẫn nhục, và khiêm cung từ tốn là những bước đi vững chắc cho mọi người. Lấy nhu hòa điều phục cường bạo, lấy nhẫn nhục đối đãi kẻ sân hận, lấy khiêm cung từ tốn đáp lại những kẻ cống cao ngã mạn, lấy quảng tâm bố thí trao cho những kẻ tham lam bỏn xẻn, lấy từ bi trao cho kẻ cùng hung cực ác, lấy hỷ xả đáp lại người câu chấp định kiến…” Người con Phật phải luôn nhớ như vậy để luôn cần tu nghiệp lành chứ không để cho việc đời lôi cuốn và thời gian luống qua, chợt khi gió vô thường thổi qua, hối tiếc cũng không còn kịp nữa. Nên nhớ rằng tất cả tội phước trên đời nầy đều do chính tâm nầy tạo ra, như vậy an lạc hạnh phúc hay khổ đau phiền não cũng do chính tâm nầy mang lại. Thế nên người con Phật lúc nào cũng phải cẩn trọng, lúc nào cũng phải tỉnh thức trong chánh niệm chứ không thể một giây một phút dễ duôi, hoặc học được một ít, thiền được vài cử, tụng được vài biến kinh, trì được đôi câu chú… đã vội cho là đủ, rồi dong ruỗi đó đây đem phàm tâm loạn tưởng ra nhàn đàm hý luận. Làm như vậy chẳng những cuộc sống hiện tại không an vui hạnh phúc, mà coi chừng trạm dừng chân kế tiếp sẽ phải là thiết vi hay vô gián địa ngục nữa là khác.

Dẫu biết đời là bể khổ với đủ đầy vui, buồn, thương, ghét, mong ham, mừng giận… Tuy nhiên, nếu chúng ta biết quay lại với chính mình mà sống thật tỉnh thức thì tất cả mọi hệ lụy của thất tình lục dục sẽ bị triệt tiêu, chúng đến chúng đi không còn là những rai rức đối với chúng ta nữa. Người con Phật phải luôn nhớ những lời di huấn cuối cùng của Phật Tổ: “Không có sự giải thoát nào, không có sự thanh lọc nào có thể thực hiện được nếu không cố gắng tự tâm tự thân. Con đường khả dĩ đi đến giác ngộ là tự xoay lại với chính mình, tự kiểm soát những hành vi hằng ngày của chính mình, tự thanh lọc những uế trược trong tâm ý của chính mình.” Nói gì thì nói, căn bản và cốt lõi của người tu Phật muốn an vui hạnh phúc lúc tại gia, hoặc tự tại giải thoát lúc xuất gia vẫn là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý.” Nếu nói thế thì có người sẽ cho rằng đây là sơ cơ tu thấp. Vâng! Người con Phật đừng nói đừng rằng, hãy quay ngay về chỗ “sơ cơ tu thấp” nầy mà tu rồi sẽ thấy. Con đường dẫn tới an vui hạnh phúc và an nhiên tự tại phải là con đường quay về chiến đấu với chính mình. Chính Đức Từ Phụ đã khẳng định: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Tự chiến thắng chính mình mới là chiến công vẻ vang oanh liệt nhất.” Những con người “túy sanh mộng tử” đang đi trong vô minh với chất chồng những “nhàn đàm hý luận,” hãy quay về soi rọi lại chính mình. Luôn nhớ rằng Phật khai sanh ra những giáo lý nhà Phật không nhằm mục đích nhàn đàm hý luận. Giáo lý ấy sẽ không được gọi là thậm thâm vi diệu nếu không được đem ra phục vụ cho cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc, cũng như cuộc tu an nhiên tự tại và giải thoát. Chúng ta không bác bỏ những hình thức bề ngoài như lễ bái, chùa chiền… Tuy nhiên, di huấn cuối cùng của Đức Từ Phụ vẫn là “hãy tự mình đốt đuốc lên mà đi, hãy quay về nương tựa nơi chính mình nếu muốn sống hạnh phúc và tu giải thoát.” Trước khi nhập diệt, Đức Thế Tôn đã ân cần vạch rõ cho hàng hậu bối thấy rõ rằng mọi loài chúng sanh đều có khả năng kiến tạo cho mình một ánh đuốc rực rỡ để lúc nào cũng đi được trên con đường an vui hạnh phúc. Người con Phật chơn thuần muốn đi trên con đường an vui hạnh phúc phải luôn trang bị cho mình một ánh đuốc, nếu ánh đuốc ấy chưa có khả năng giúp ta trực chỉ Tây Phương Cực Lạc hay Phật quốc, thì ít ra nhờ ánh đuốc ấy mà chúng ta thấy được những trầm thống khổ đau và phiền não của các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a tu la, để từ đó tinh tấn tu hành sao cho ít nhất trong đời kế tiếp được trở lại làm người mà tiếp tục tiến tu. Người con Phật nên luôn nhớ rằng dù tu pháp môn nào, dù Thiền, Tịnh, Mật hay Luật… tất cả chỉ là phương tiện giúp ta tịnh lự để có khả năng phản quang tự kỷ, từ đó thấy mình đang vướng gì và mình cần tu những gì để có thể vượt thoát khỏi những vướng mắc nầy, để rồi cuối cùng đi được trên con đường “an vui hạnh phúc” để một ngày không xa nào đó có khả năng nắm tay chư Phật thong dong trên đường giải thoát. Người con Phật phải luôn cẩn trọng ở điểm nầy để không vướng mắc vào những phương tiện mà Phật đã đặt ra cho chúng ta tu hành. Tất cả các pháp môn chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh của hàng xuất gia là thành Phật, còn cứu cánh của hàng tại gia là phải thảnh thơi đi về trên đường “an vui và hạnh phúc.” Ngay cả “đầu tròn áo vuông” cũng chỉ là phương tiện bề ngoài không hơn không kém. Ngày xưa có những bậc sa môn “đầu bù tóc rối với râu ria xồm xoàm” như Tổ Bồ Đề Đạt Ma, thế mà Ngài vẫn được vua Lương Võ Đế và mọi người tôn kính. Ở đây không phê bình hay biện giải về Thiền, niệm Phật hay mật chú, xuất gia hay tại gia, ai có cơ duyên với pháp môn nào thì tu theo pháp môn đó, chứ đừng niệm được vài câu lục tự Di Đà lại vội chê người tu thiền, tu mật hay tu luật… Nên nhớ tất cả những thứ nầy chỉ có một công dụng duy nhất là giúp cho chúng ta tỉnh lặng hay lắng đọng tất cả những cặn cáu để từ đó phản quang tự kỷ thấy coi mình vướng gì và cần tu những gì để sống an vui hạnh phúc và tu giải thoát. Tất cả những pháp môn cũng giống như những chiếc bè, ai muốn dùng loại bè nào cứ dùng, nhưng đừng cố chấp vào chiếc bè mà quên mất cứu cánh, thậm chí lắm khi còn khởi sanh ngã mạn cống cao rồi biến thành khinh sư chê đạo, hay vô tình hủy báng giáo pháp cao thượng mà mình đang theo đuổi. Người con Phật nên luôn nhớ rằng chìa khóa chính cho người con Phật mở cửa đi vào cuộc sống an vui hạnh phúc và cuộc tu an nhiên tự tại là sống tu tỉnh thức trong luật “nhơn quả.” Đã sanh ra làm chúng sanh, dù là người hay là thú, mình sẽ phải gặt hái hậu quả của những gì mà mình đã gieo, không có ngoại lệ. Chính vì thế mà Đức Thế Tôn hằng khuyến tấn người tại gia phải ráng giữ tam quy ngũ giới, hoặc hành trì thập thiện. Phật đã dạy trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới rằng: “Thiện nam tín nữ chỉ cần quay lưng lại với sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và những chất cay độc… thì cuộc sống phải là an vui và hạnh phúc.” Người tại gia nên luôn nhớ rằng vì phước mỏng, nghiệp nhiều, duyên thiếu, nên đời kiếp nầy dù được làm người nhưng vẫn chưa được cơ may xuất trần trọn vẹn, thế nên chúng ta phải dụng công tu tâm dưỡng tánh, phải y nương theo bốn trạng thái cao thượng (từ bi hỷ xả) mà Đức Từ Phụ đã truyền trao, phải nhiếp tâm tu trì công đức, phước đức để hóa giải dần những ác nghiệp đã tạo gieo từ vô lượng kiếp. Để nếu chưa đủ thiện duyên xuất gia thoát trần trong kiếp nầy thì vẫn được tái sanh làm một con người trọn lành trong kiếp lai sanh mà tiếp tục tiến tu. Trước khi làm bất cứ chuyện gì phải nên nghĩ đến hậu quả của nó, phải luôn mang bốn cái tâm lớn mà Phật đã trao truyền vào cuộc sống cuộc tu hằng ngày của mình và của người, luôn ban vui cho tha nhân bằng tình thương tỏa rộng không phân biệt, luôn tìm cách cứu khổ cũng như làm vơi đi những não phiền của tha nhân, thấy ai đói thì giúp miếng ăn, thấy ai khát thì giúp cho thức uống, thấy ai lạnh thì giúp cho manh quần tấm áo, thấy ai lo lắng sợ hãi bèn phát tâm an ủi vỗ về. An vui và hạnh phúc thật sự của con người vẫn là cái tâm hoan hỷ, hoan hỷ khi gặp được người tốt, hoan hỷ khi gặp được chơn sư lương hữu, hoan hỷ khi gặp được chánh pháp… Ngoài ra, an vui và hạnh phúc là những người có tâm rũ bỏ tất cả những phiền trược của trần thế, tâm người ấy không chấp trước, thân không giữ riêng cho mình bất cứ thứ gì. Người con Phật hãy ráng làm người không nhiễm trược, không nhiễm trược cả thân lẫn tâm; chấm dứt mọi hệ lụy của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… Có người cho rằng đạo lý nhà Phật vượt ngoài khả năng thành đạt của con người. Vâng! Sự suy nghĩ như vậy cũng phải, nhưng chỉ phải với những con người không chịu phấn đấu, những con người đầu hàng hoàn cảnh, rồi từ đó tự phó thác mình cho những lý luận mù quáng, tự phó thác mình cho cái mà mình chưa bao giờ biết, chưa bao giờ thấy, để rồi buông tay nhắm mắt tận hưởng những thú vui trần tục.

Kỳ thật, theo quan niệm của Phật giáo thì cuộc sống con người là một chuỗi dài những thử thách, mà cũng là một chuỗi dài những cơ hội cho chúng sanh, nhứt là con người, thăng hoa hướng thượng. Những diễn biến trong cuộc sống hằng ngày chính là cơ hội hãn hữu cho con người thành tựu một cuộc sống tâm linh cao quí. Tuy nhiên, trong tiến trình thăng hoa hướng thượng nầy, con đường tất yếu mà ai trong chúng ta đều phải kinh qua là tu trì y theo đạo đức nhà Phật. Người tin Phật và tu theo Phật phải luôn nhớ rằng: “Trong mười pháp giới, từ địa ngục lên Phật là một tiến trình dài, dài đến hơn ba a tăng kỳ, nhưng thời gian trong tiến trình tu Phật chỉ là những mấu chốt nhỏ nhoi trong pháp giới mà thôi.” Tuy nhiên, chính những mấu chốt nhỏ nhoi nầy là tụ điểm của vô số nghiệp, cả thiện lẫn ác, là những mấu chốt của cơ hội, hoặc xô đẩy con người đi xuống, hoặc đưa con người đi lên. Thấy rõ như vậy thì cho dù tại gia hay xuất gia, người con Phật không còn thấy khung trời tại gia hạn hẹp với dẫy đầy những uế trược trần thế, hay xuất gia chỉ để tìm một khung trời cao rộng… Cuộc sống an vui hạnh phúc là cuộc sống đạo hạnh nơi chính thân tâm mình, luôn sống với chơn lý, luôn có tâm lành, luôn biết tự kềm chế, luôn thu thúc lục căn trong mọi tình huống và luôn tỉnh thức trong chánh niệm, nghĩa là khi mình đang làm việc gì phải nhận biết mình đang làm việc đó, chứ không sống say chết mộng. Nếu tất cả mọi việc xãy ra trong cuộc sống hằng ngày đều được chúng ta ghi nhận thì tất cả những khó khăn về cảm xúc của chúng ta sẽ từ từ biến mất, từ đó mà chúng ta có được cuộc sống an vui và hạnh phúc. Thật vậy, còn cuộc sống nào an vui và hạnh phúc hơn cuộc sống không luyến ái và vượt lên khỏi mọi dục vọng; mọi thành kiến, tà kiến, biên kiến đều tận diệt; mọi chấp ngã, chấp tướng, chấp pháp… đều ngưng bặt. Con đường duy nhất khả dĩ có thể giúp chúng ta sống hài hòa giữa vật chất và tinh thần, giữa lý trí và tình cảm, giữa tim và óc… phải là sống tu theo những giáo lý tuyệt vời của Đức Từ Phụ. Thiên đường hay địa ngục đã hiển bày, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. Chính vô minh vọng động làm cho chân không diệu hữu mù mịt, cũng chính vô minh vọng động đã cướp mất tư thái an nhiên tự tại để chỉ chừa trơ lại những khổ đau phiền não cho thân tâm nầy. Người con Phật phải luôn tỉnh giác như vậy để quay lại với chính mình, y nương theo chánh giáo Phật Đà để cuộc sống nầy có cơ tốt đẹp hơn, hồn nhiên hơn, và nhịp nhàng hơn với thiên nhiên và vũ trụ. Trong thời Phật còn tại thế, Ngài đã luôn khẳng định với tứ chúng rằng: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh, giai tác Phật sự, giai kham Phật đức, Phật hạnh, Phật nguyện và giai thành Phật đạo.” Thật vậy, chúng ta ai nấy đều sẳn có Phật tánh và đều có khả năng sống kết hợp hài hòa giữa lý trí và tình cảm, tri thức và hành động, trí tuệ và từ bi… để đạt tới cuộc sống an vui hạnh phúc và cuộc tu tự tại, giác ngộ và giải thoát. Đạo Phật chủ trương an vui hạnh phúc hay giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp nầy, và ngay trên hành tinh nầy. Nếu mọi người chúng ta khiêm tốn tu trì, dồn hết tâm niệm của mình vào cuộc sống tu tỉnh giác thì Tây phương Cực lạc là đây chứ không đợi đến một kiếp xa xăm nào khác. Kỳ thật, đạo Phật quan niệm sống rất bình thường nhưng lại khác xa với thường tình thế tục. Với đạo Phật, sống mà không an vui hạnh phúc là không đáng sống; sống mà không biết yêu thương chúng sanh mọi loài là không đáng sống; sống mà không biết tư duy về những đau khổ của chúng sanh là không đáng sống; sống mà không biết bố thí lợi tha là không đáng sống; sống mà không ý thức mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì là không đáng sống; sống mà vẫn còn ôm ấp tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến ác kiến, biên kiến và sát, đạo, dâm, vọng… là không đáng sống; sống mà tâm trí không sáng suốt để cho thân tiếp tục gây tội tạo nghiệp là không đáng sống. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã dạy chư Bồ Tát như thế nầy: “Bồ Tát tự nghĩ, ta từ vô thỉ đến nay do tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… mà thân, khẩu, ý phát sanh vô lượng vô biên ác nghiệp. Nếu như các nghiệp ấy mà có thể tướng, thì tận cả hư không cũng không thể nào dung chứa cho hết được. Chính vì thế mà chư Bồ Tát nên đối trước chư Phật, thành tâm sám hối, từ nay về sau quyết đem hết cả ba nghiệp làm cho thanh tịnh.” Người Phật tử, nhứt là người tại gia đã thấy chưa? Các bậc Bồ Tát mà còn phải phát lồ sám hối nghiệp chướng như vậy, huống là phàm phu chúng ta? Chưa nói đến cuộc tu giác ngộ và giải thoát, chỉ nói đến cuộc sống “an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc,” nếu không nhờ công phu tinh cần sám hối để diệt trừ những ác nghiệp đã tạo tác trong quá khứ cũng như chận đứng những ác nghiệp đang tạo và sẽ tạo, thì đến bao giờ mới được? Người con Phật phải luôn canh cánh bên lòng là “Ta Bà ngũ trược ác thế là cõi của khổ đau phiền não.” Khổ sanh, già, bệnh, chết, khổ cầu bất đắc, khổ oán tắng hội, khổ thương yêu xa lìa, khổ ngũ uẩn thạnh suy… Bao nhiêu nỗi trầm thống đang vây quấn con người trong cõi nước tạm bợ nầy. Không phải thấy để bi quan yếm thế, mà thấy để tích cực tiến tu đạo đức y như Phật, thấy để thay vào tình cảm ích kỷ hẹp hòi bằng tình thương bao la rộng lớn. Thấy để biết một khi chọn đường tu Phật, chúng ta phải rũ bỏ tất cả, chứ không dương dương tự đắc với tiền tài danh vọng, không tự cao tự đại với mớ kiến thức phàm phu tục tử, không cuồng ngôn loạn ngữ để rồi thay vì tới chùa với tâm thanh tịnh, lắng lòng tu tập thì chúng ta lại tụ năm tụ bảy ngay trong chùa để nhàn đàm hý luận, làm loạn động mình và loạn động người khác. Làm như vậy mình có khác chi loài ma trơi Ba Tuần? Người con Phật nên nhớ rằng thói tự cao tự đại với mớ kiến thức tầm chương trích cú, rồi tự mãn đui tu mù luyện… chỉ là tự mình đào sâu hố thẳm tội lỗi, tự mình tự tận con đường thăng hoa hướng thượng của chính mình mà thôi. Người con Phật nếu không thấy như vậy để quay về y nương theo Phật, thì hết đời nầy sang kiếp khác, chúng ta chỉ là những sinh vật sống dật vờ, sống như bèo giạt hoa trôi, luôn bị nước cuốn, luôn bị cảnh dẫn. Trần cảnh vô tình, vô tri, vô giác, nhưng chúng ta là những sinh vật con người, hữu cảm, hữu trí, không lẽ chúng ta tiếp tục để cho vật vô tri khống chế người hữu cảm? Người con Phật nên luôn nhớ rằng ngoài ta ra không ai có thể kiểm soát được những hành động tạo tác của mình. Giáo lý nhà Phật nói “thậm thâm và sâu rộng đến vô lượng vô biên và vô cùng vô tận như pháp giới, nhưng nếu nói gọn lại thì giáo pháp ấy cũng có thể gói gọn trong một đời người an lạc, tỉnh thức, hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát. Người con Phật quyết không nhìn, không nói hay không hý luận với Phật pháp, ngược lại chỉ một bề thực nghiệm tự thân thì trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm không ở đâu xa, mà là ở ngay trong những phút giây an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc của cuộc sống nầy. Trong Kinh Trường Bộ, Đức Phật dạy: “Con đường an vui và hạnh phúc, này các Tỳ Kheo, là con đường từ bỏ sát sanh mà sống biết thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh mọi loài, là con đường từ bỏ lấy của không cho mà tự sống thanh tịnh, là con đường từ bỏ tà hạnh và dâm dục hèn hạ, mà tịnh tu phạm hạnh và sống giải thoát, là con đường từ bỏ nói láo và lừa gạt, mà chỉ nói những lời chân thật và đáng được tin cậy, là con đường từ bỏ nói lưỡi hai chiều, mà chỉ nói những lời đưa đến sự hòa hợp, là con đường từ bỏ nói lời độc ác mà chỉ nói nhữngt lời ta nhã dễ nghe và dễ thông cảm, là con đường từ bỏ nói lời ỷ ngữ mà chỉ nói những lời đúng với chánh pháp, những lời đáng được trân quí giữ gìn, những lời hợp thời thuận lý, là con đường không làm tổn hại một ai dù là cây cỏ.”

Tóm lại, muốn sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc, người con Phật phải luôn bỏ ác làm thiện; ở thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm; ở khẩu không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc ác hay thêu dệt; ở ý thì không tham lam, không sân hận, không si mê, tà kiến, biên kiến… Tuyệt đối không sa hầm vướng bẫy của bọn ma trơi “nhàn đàm hý luận,” nói hay làm dở, quyết không đến chùa với tâm ngã mạn cống cao. Người muốn đi trên con đường an vui và hạnh phúc nên luôn nhớ rằng đạo Phật và những giáo lý tuyệt vời của nhà Phật là để sống để tu chứ không phải để nhàn đàm hý luận. Người con Phật nên luôn nhớ hễ ai làm chủ được tâm mình lúc sống thì lúc mạng chung cũng sẽ làm chủ được tâm mình. Bên cạnh đó, cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc của người con Phật không thể thiếu vắng ân tình hiếu hạnh, ân cha, nghĩa mẹ, công thầy, và ân chúng sanh mọi loài. Người con Phật chơn thuần chí tâm chí thành tu tập sẽ không dừng lại ở cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc; không dừng lại ở ngũ giới, thập thiện, cũng không dừng lại ở những ân tình hiếu hạnh… Người con Phật phải nhận rõ chân tướng của khổ đau phiền não để dung nhiếp, thanh lọc và biến chúng thành những ao sen ngát hương ngay trong cõi Ta Bà nầy. Chúng ta phải thấy cho được bộ mặt thật của vô minh, mắc xích căn bản dẫn tới hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, hữu, thủ, sinh, lão tử… Vì vô minh mà chúng ta cho rằng những đối đãi giữa tâm và cảnh là thật, rồi từ đó sanh ra ưa ghét, từ ưa ghét dẫn đến muốn có và muốn bỏ, do tâm muốn có muốn bỏ nầy mà chúng ta cho rằng vạn vật hằng hữu (vật có, thân có, cảnh có… và có mãi mãi), do chấp hữu nầy mà chúng ta sanh ra, gây tội tạo nghiệp và tiếp tục lăn trôi. Người con Phật phải thấy vạn hữu đều do duyên hợp duyên tan, chứ không hằng hữu. Thấy để không chấp chặt cũng như vướng mắc, hay sa hầm vướng bẫy vào vạn hữu. Tiến trình từ người lên Phật hãy còn dài, nhưng khởi đầu không thể thiếu được trong tiến trình ấy của người con Phật phải là cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Mười phương ba đời chư Phật đều phải khởi điểm từ đây, chúng ta sẽ không có ngoại lệ. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã dạy tứ chúng về cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc như thế nầy: “Cho dù sống lâu cả ngàn năm mà thiếu đạo đức từ bi, sống mà không biết học hỏi để phân định chánh tà, không tu tâm cầu tiến, cuộc sống đó không được gọi là hạnh phúc thật sự.” Mục đích tối thượng của người tu Phật là giác ngộ giải thoát, tuy nhiên chính Đức Phật đã khẳng định: “Không có giải thoát trong cuộc sống không an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc.” Trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới, Đức Phật đã dạy hai chúng tại gia rằng: “Mục đích trước mắt của hai chúng tại gia là an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Tuy nhiên, không phải gom góp tiền của danh vị cho nhiều cho cao là hạnh phúc. Hạnh phúc chân thật của con người là con người ấy biết đem tâm lượng từ bi hỷ xả chan hòa vào tha nhân. Hạnh phúc chân thật là kính tin nơi nhân quả luân hồi tội phước. Hạnh phúc chân thật là biết lấy giáo pháp để gột rửa tâm hồn.” Người con Phật phải lắng lòng suy gẫm những lời Phật dạy ngay từ bây giờ để chấm dứt bước đường dong ruổi, chấm dứt những ham muốn truy cầu, chấm dứt những đuổi hình bắt bóng ngay từ bây giờ. Quý vị ơi! Thời gian thấm thoát thoi đưa, thoáng một cái là chúng ta đã già, tóc bạc, da nhăn, răng long, gối mỏi… Thoáng một cái mà thân phận bèo giạt hoa trôi nầy tan rữa, không lẽ chúng ta cứ mãi rảo bước làm khách phong trần? Không đâu những người con Phật! Mong cho ai nấy cùng mạnh dạn lên đường ngay từ bây giờ!

477. NGƯỜI BIẾT SỐNG VỚI CHƠN LÝ

Chơn lý là cái gì tuyệt đối và đúng mãi với thời gian vì thế ngôn ngữ và văn tự tạm bợ của thế gian sẽ không bao giờ chuyên chở được chơn lý. Dù có nói gì hay viết gì, không ai trong chúng ta có thể phơi bày được chơn lý đâu. Chính vì thế mà trong thời Phật còn tại thế Ngài đã nhiều lần khuyên tứ chúng nên nhớ lấy lời khuyên dạy của Ngài mà tu hành hơn là ghi chép vào lá bối rồi trân trọng cất giữ. Tuy nhiên, trong cõi trần giả tạm nầy nếu cứ mãi một bề chấp chặt như vậy thì làm sao chúng ta có thể cùng nhau chia xẻ những điều hay trong lẽ đạo. Chơn lý đối với các học giả hay thuyết giả có thể là những gì cao xa khó hiểu, khó nắm bắt, nhưng chơn lý đối với những người con Phật cầu tu cầu giải thoát chỉ là những nguyên lý sống tu đơn giản. Người con Phật chơn thuần chỉ cần sống tu triệt để với những nguyên lý đó tức là đã tìm được chơn lý giải thoát rồi vậy. Chơn lý thứ nhất của người con Phật chơn thuần là sự bố thí thù thắng, bố thí mà không còn thấy ai nhận ai cho, bố thí từ tài vật, lời nói, những lời hay trong lẽ đạo, đến những lý lẽ làm cho người bớt khiếp sợ hay không còn khiếp sợ nữa. Thật tình mà nói, chỉ có các bậc “nhất thế trí” hay Bồ Tát mới làm được việc nầy vì nó là giống của giác ngộ, nó có công năng kết thành quả đại giác. Ngoài ra, chơn lý bố thí nầy còn là con đường đưa đến quả báo an lạc xuất thế. Bố thí vô tướng như vậy là bố thí thù thắng và bất khả tư nghì từ tính mạng đến tài sản, chỗ nào cũng cho, lúc nào cũng cho, ai cũng cho bất kể thân sơ bạn thù… luôn bố thí với cái tâm bất động. Chơn lý thứ hai của người con Phật hành trì giới luật không thối chuyển vì những giới luật mà Phật Tổ đã đặt ra cho cả hàng xuất gia lẫn tại gia là không thể nghĩ bàn. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Giới luật là vô thượng Bồ Đề,” kinh Niết Bàn, Đức Thế Tôn bảo: “Giới là nấc thang leo đến tận cùng của lẽ thiện, và nó cũng là nền tảng cho tất cả lẽ thiện.” Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật lại khẳng định: “Giới luật chính là vị đạo sư sáng suốt nhất.” Đa phần các tông phái chủ trương hiểu rõ rồi mới tu tập, nhưng với giới luật Phật thì khác, đừng hỏi đừng rằng mà hãy thầm thầm trì giới một cách nghiêm chỉnh đi rồi sẽ thấy thân nầy đoan chính, và tâm nầy định tĩnh thanh tịnh như thế nào. Giới luật nhà Phật cũng giống như bánh lái tàu hay tay lái xe, nếu không giữ giới luật mà nói tu hành thì chẳng khác nào như những con tàu hay những chiếc xe không bánh lái. Dù thượng căn thượng trí mà không chịu trì giữ giới luật thì không sớm cũng muộn sẽ rơi vào vòng tay của lũ Ba Tuần. Ngược lại, kẻ hạ trí độn căn mà chịu tinh nghiêm trì giữ thì con đường về đất Phật sẽ không còn xa nữa. Cho nên bám chặt vào giới luật, ngay cả bám chặt vào mớ hình thức phiền toái là bám chặt vào Vô Thượng Bồ Đề, là bám chặt vào vị đạo sư sáng suốt để leo đến tận cùng của lẽ thiện mà Phật tử, nhứt là những đứa con tại gia nên bám vào. Trong thời cận đại, khi Thiền Tông phát triển mạnh, có rất nhiều người hiểu lầm về cả Thiền lẫn luật nên họ chê rằng giới luật Phật giáo phiền phức và không thích hợp. Họ cho rằng chỉ cần “thiền” một mạch là có thể “kiến tánh thành Phật,” nên lắm khi họ cứ “thiền” mà không biết mình đang thiền cái gì. Xin nhắc lại, Thiền, Tịnh, Mật… chỉ là những phương tiện mà Phật chế ra cho hàng đệ tử của Ngài “tự tịnh kỳ ý” chứ không phải là cứu cánh thành Phật. Muốn thành Phật phải giải thoát hết thảy mọi khổ đau, phiền não của trần thế. Dù sao thì giới luật nhà Phật là rất cần thiết để ngăn ngừa tội lỗi. Chính Đức Phật là một bậc đã đạt đến mức độ cuối cùng của thiền định, bậc đã nhìn thấy được chiều hướng của tâm lý nên Ngài đã đặt ra giới luật cho đệ tử của Ngài ngăn đón những cơn gió độc của trần thế. Người con Phật hậu bối phải trân quí những giới luật của Thế Tôn như một chơn lý sống tu tuyệt vời. Chơn lý thứ ba của người con Phật là nhẫn nhục. Theo đạo Phật, nhẫn là nhịn, là chịu đựng về cả ba mặt thân khẩu ý. Nhục là sự sỉ nhục hay xấu hổ. Nhẫn nhục là nhịn hay chịu đựng sự sỉ nhục hay xấu hổ về cả ba mặt thân, khẩu và ý. Nếu chúng ta chỉ nhẫn nơi thân và khẩu còn ý thì vẫn thầm thầm oán hận thì đó không phải là thứ nhẫn nhục mà Đức Phật muốn nói. Nhẫn nhục theo ý Phật là phải thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn, nghĩa là nơi thân không tỏ thái độ hay cử chỉ chống đối dù phải cam chịu khổ đau; nơi miệng không thốt ra lời độc ác; còn nơi ý thì phải luôn bình thản. Người con Phật phải tu tập nhẫn nhục sao cho không còn thấy ai làm mình khổ nhục. Ngược lại, luôn thấy thương cho mọi loài vì bị vô minh khống chế mà không thể nào nhẫn nhục được. Làm được như vậy mới xứng đáng là một con người biết sống với chơn lý. Ngoài ra, người có khả năng nhẫn nhục cao độ sẽ làm cho tha nhân cảm mến quí trọng vì dáng vẻ hiền hòa, lời nói hòa dịu và tâm trí luôn sáng suốt. Thân tâm con người ấy luôn khinh an hỷ lạc và cuộc sống luôn an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Trong gia đình, con người ấy luôn là mẫu mực làm gương cho mọi người; ngoài xã hội, con người ấy đi đâu đến đâu cũng kết tụ Bồ Đề quyến thuộc; trong cuộc tu hành giải thoát, con người ấy lúc nào cũng có khả năng trưởng dưỡng chủng tử Phật vì lúc nào con người ấy cũng vận dụng lòng từ bi hỷ xả, ánh sáng trí tuệ và tánh bình đẳng với mọi loài chúng sanh. Lúc còn tại thế, Đức Thế Tôn đã nêu cao gương nhẫn nhục khi bị Đề Bà Đạt Đa nhiều lần quấy phá như thả voi dữ và lăn đá từ trên núi cao xuống, dù bị thương nơi chân nhưng Thế Tôn không tỏ ra một chút bực tức. Có lần ngoại đạo sai một người đàn bà đến mắng chưởi Thế Tôn hết ngày này sang ngày khác, ngày nào cũng vậy, Thế Tôn cũng luôn giữ vẻ điềm nhiên, chẳng những thế hễ đến trưa là Ngài sai tôn giả A Nan dọn cơm cho chị ấy dùng, vì Ngài sợ chị đói. Đến ngày thứ bảy, Thế Tôn kêu chị đàn bà ấy lại và hỏi: “Này chị! Nếu chị đem cho ai món gì mà người ta không chịu lấy thì chị phải làm sao?” Chị ngoại đạo trả lời: “Thì tôi đem về.” Thế Tôn bèn đáp lại: “Ở đây cũng vậy, ta không nhận những lời nhục mạ của chị, thôi chị hãy đem về đi.” Sở dĩ Thế Tôn hành xử như vậy vì hơn ai hết, Ngài là bậc biết sống với chơn lý trong từng giây từng phút. Hơn nữa, nếu chúng ta không chịu nhẫn nhục mà để cho sân hận tự do phát triển thì công đức ngàn đời tu tập của chúng ta sẽ bị thiêu rụi. Người biết sống với chơn lý “nhẫn nhục” không phải để được đời ca tụng hay tán thán, cũng phải vì sợ sệt trước uy quyền của ai, cũng không mong được ai ban thưởng, cũng không phải vì yếu hèn buông xuôi hay đầu hàng hoàn cảnh. Con người ấy không nhẫn vì những lý do tham dục cho vị kỷ, mà nhẫn nhục với một mục đích duy nhất là “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Chơn lý sống kế tiếp là “tinh tấn.” Tinh tấn theo nhà Phật là siêng năng tu tập, siêng năng làm những việc thiện lành, siêng năng đoạn tận ác nghiệp, cũng như siêng năng thanh lọc thân khẩu ý. Người biết sống với chơn lý “tinh tấn” là người luôn hăng hái tu tâm dưỡng tánh, luôn thấy lỗi mình chứ không thấy lỗi người, luôn phát tâm trừ bỏ ác hạnh và phát triển thiện hạnh. Con người ấy luôn tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa sanh, luôn tinh tấn dứt trừ những điều ác đã sanh, luôn tinh tấn làm phát sanh những điều lành chưa sanh và tiếp tục phát triển những điều lành đã sanh. Chơn lý sống kế tiếp là “thiền định.” Chữ thiền là do chữ Phạn “Dhyana” và chữ Hán là “Thiền Na” mà ra. Thiền định có nghĩa là tịnh lự, nghĩa là để tâm vắng lặng chứ không khởi lên các vọng tưởng, mà chỉ tập trung tư tưởng vào một niệm hay một cảnh duy nhất chứ không cho nó tán loạn, nhờ đó mà tâm thể vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, cũng nhờ đó mà khả năng quán sát và suy nghiệm chơn lý cao hơn. Người biết sống với chơn lý “thiền định” là người luôn phá trừ mây mờ vô minh, nhờ đó mà tâm trí luôn sáng suốt, luôn minh tâm kiến tánh. Trong cuộc sống hằng ngày, nhứt là cuộc sống của những đứa con tại gia, thực tập thiền định không phải là chuyện dễ vì phải bận bịu với đủ mọi thứ. Người con Phật muốn được sống với chơn lý “thiền định” phải bằng mọi cách tự sắp xếp thì giờ để tìm đến một minh sư hay thiện hữu tri thức nhờ dẫn dắt và phải mất nhiều công phu cũng như thì giờ mới mong tu luyện thiền tập có được kết quả. Dù khó khăn gian khổ thế mấy mà Phật đã làm được, chúng ta quyết chí theo chân Ngài. Tuy nhiên, người con Phật biết sống với chơn lý “thiền định” luôn nhớ rằng không vì ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, không chỉ vì chấp vào cái “ngã không” mà tu thiền, cũng không vì chấp vào “ngã không, pháp không” mà tu thiền… Con người ấy luôn biết xưa nay tánh nầy vốn thanh tịnh mà quay trở vào phản quang tự kỷ để tu tập, nếu chưa trở về được với tâm tánh thanh tịnh của các Đức Như Lai thì ít ra con người ấy cũng luôn phát được đại hạnh đại nguyện “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.” Trong Trường Bộ Kinh, Đức Phật dạy: “Người tại gia biết sống với chơn lý là người không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc ác và không uống những chất cay độc. Người xuất gia biết sống với chơn lý còn phải đi xa hơn thế nữa, phải không làm tổn hại một ai ngay cả cây cỏ, chỉ ăn một ngọ, không ăn ban đêm, không ăn phi thời, không múa hát mà cũng không đi xem múa hát, không ca nhạc diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, không nằm giường cao rộng, không nhận vàng bạc, không nhận và không ăn thịt chúng sanh, không nhận nô tỳ dù trai hay dù gái, không nhận gia súc, không nhận đất đai nhà cửa, không buôn bán, không gian lận cân đo và tiền bạc, không cất chứa đồ ăn thức uống hay gia vị, không nhận vải vóc phi thời, không nhận xe cộ, không cờ bạc, không dùng những thứ vải vóc màu mè hay lông thú, không thoa dầu, không đấm bóp để tìm sự thoải mái khoái lạc cho thân thể, không nói chuyện nhảm nhí vô ích, không tranh chấp, không làm môi giới, không nói lời dèm pha siểm nịnh, không xem tướng hay bói quẻ đoán mộng, không xem tinh tú đoán vận hạn, không coi ngày lựa giờ, không xem đất đai phong thủy…” Đức Phật đã chỉ vạch quá rõ ràng về “con người biết sống với chơn lý,” sống theo hay không sống theo là hoàn toàn tùy thuộc ở chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đều biết rằng cứu cánh cao tuyệt của đạo Phật là giải thoát, nhưng lắm khi chúng ta lại mù mờ về đối tượng đích thực của giải thoát. Chúng ta chỉ một bề dong ruổi đó đây tìm cầu những thứ cao xa, chứ nào có ngờ rằng đối tượng đích thực của sự giải thoát là những khổ đau phiền não. Hễ sống được với chơn lý là không khổ đau phiền não, là giải thoát. Tuy nhiên, khổ đau phiền não luôn gắn liền với cuộc sống hằng ngày, vấn đề ở đây là phải làm sao vẫn sinh hoạt bình thường mà không vướng phải những khổ đau phiền não. Muốn làm được như vậy, người con Phật phải hằng sống với chơn lý để cho tâm thần không dao động trước những cám dỗ, chứ không phải chỉ tạo vẻ trang nghiêm bề ngoài. Có người cho rằng phải tu thiền như chư Phật, chư Tổ thì mới mong giải thoát. Nhưng hãy suy nghĩ kỹ lại mà xem từ sau Phật và những vị Tổ như Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Năng… có mấy ai được phong cách giải thoát của mấy ngài? Không có mấy ai. Vậy thì để thực hiện lời Phật dạy: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý,” vấn đề thiện ác vẫn là đạo đức chính yếu của người tu Phật. Đừng ai hàm hồ cho rằng “thiện ác” chỉ là phàm lệ của thường tình thế tục. Kỳ thật, vấn đề “thiện ác” đã chiếm hết hai phần ba giáo lý nhà Phật, phần cuối cùng chỉ là “tự tịnh kỳ ý.” Người con Phật không điên đảo theo lối “thiện ác” của thế gian, một tên tội phạm nếu có tiền mướn luật sư giỏi có thể không bị thế gian chê là ác; ngược lại, một người vô tội nghèo nàn có thể bị thế gian kết án là ác. Thế gian đang bị quay vòng trong điên đảo, chúng ta không thể nào để bị cuốn hút vào trong đó được. Người con Phật phải biết sống với chơn lý mà Đức Phật đã trao truyền để nhận ra đâu là thiện, đâu là ác, đâu là chánh, đâu là tà, đâu là chơn, đâu là ngụy… Người con Phật phải sống với chơn lý một cách chơn thật ngay trong nội tâm của chính mình. Và phải nhận rằng những hành vi nào trái với giới luật nhà Phật là ác, những hành vi nào đúng với giới luật là thiện.

Quý vị ơi, đời người như một giấc mơ, như ánh điển chớp, như hoa sớm nở tối tàn, hay như bóng câu qua cửa sổ. Chúng ta sẽ không có đủ thời giờ để mà tìm cầu những cái cao xa khó nắm bắt. Người con Phật chơn thuần luôn biết trân quý bất cứ thời gian nào mình có được để tu tập chứ không để cho thời gian luống qua một cách lãng phí. Đừng phí công vô ích chạy đông chạy tây tìm cầu chơn lý. Chơn lý không ở đâu xa mà ở ngay chính mỗi người chúng ta. Chúng ta có khả năng làm ma thì chúng ta cũng có khả năng làm Trời làm Phật, u mê ám muội cũng nơi ta mà ánh sáng chân thiện mỹ lại cũng nơi ta, tà kiến cũng ta mà chánh kiến cũng ta, ngụy lý cũng ta mà chơn lý cũng ta. Phật tử chơn thuần hãy mau quay trở về với chính mình, thắp sáng đèn tâm của mình bằng đuốc tuệ Phật, một khi mây tan thì trời trong và chơn lý hiện. Hãy luôn tỉnh thức rằng dù thân nầy có bôn ba đây đó nhưng tâm nầy vẫn bất động, dù cảnh không ngừng biến chuyển nhưng tâm chưa hề chuyển biến. Thế nên người biết sống với chơn lý luôn tự chủ chứ không nhân ngã thị phi. Người ấy luôn làm người trong cuộc cho cuộc sống cuộc tu của mình, chuyển lay lay chuyển hay không là tự mình chứ không do bất cứ ai. Người biết sống với chơn lý là người luôn biết điều tâm sao cho tánh của nó luôn như nước, thật nhu nhuyễn và có thể kinh qua mọi trạng huống với sức mạnh vô song. Tâm của người ấy phải là một mảnh ruộng tốt nơi chỉ mọc lên những cây lá đạo đức chứ không có cỏ dại tà kiến. Con người ấy luôn tự tại an nhiên trong chánh niệm chứ không suy nghĩ tà vạy, thế nên con người ấy đi đâu đến đâu cũng chỉ mang lại sự kiết tường cho mình và cho người.

Quý vị ơi, thân còn dễ tu chứ tu tâm thì quả là thiên nan vạn nan, nhưng chúng ta không có con đường nào khác hơn con đường “thiên nan vạn nan” ấy, vì đúng như lời Phật dạy: “Người biết sống với chơn lý là người biết tu tâm dưỡng tánh.” Thấy thế mới biết tâm tánh quan trọng hơn thân nhiều. Nói như vậy không có nghĩa là người biết sống với chơn lý không tu thân. Người biết sống với chơn lý luôn tinh tấn tu trì cả thân lẫn tâm cùng lúc. Con người ấy luôn tỉnh thức rằng thân chúng sanh chẳng qua chỉ là tứ đại duyên hợp mà thành còn tâm phàm phu thì luôn nhiễm trược với tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến… Thế nên người biết sống với chơn lý luôn dùng giới luật mà Phật đã chế ra để thúc liễm thân và tu trì những trợ đạo của Phật để giúp tâm đoạn tận tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Người biết sống với chơn lý, dù sống trong bất cứ thời nào cũng luôn gần gủi với chư Phật vì chơn tâm Phật tánh của người ấy luôn hiển lộ. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Tâm, Phật và chúng sanh không sai khác.” Tuy nhiên, chư Phật luôn hằng sống với chơn lý nên tâm các Ngài luôn thanh tịnh và giải thoát để làm Phật, còn chúng sanh tâm phàm ô nhiễm nên luôn vô vô minh minh chứ không còn thấy được bản mặt thật của mình nữa. Tuy nhiên, người con Phật chơn thuần biết sống với chơn lý không u mê ám muội cho rằng tu chỉ là tu tâm còn thân thì bỏ mặc. Đồng ý chúng ta không nên trau tria tríu mến thân nầy, nhưng như vậy không có nghĩa là chúng ta bỏ bê cho thân nầy ra sao cũng mặc kệ. Thân và tâm đâu phải là hai thực thể cách biệt, kỳ thật thân tâm thẩm thấu vào nhau. Hễ thân thể tráng kiện thì tâm thần linh mẫn. Ngược lại, thân mà bịnh thì tâm làm sao minh mẫn cho được. Nên nhớ thân tâm luôn đồng cảm, nếu tâm buồn thì thân khó mà an, nếu thân ương yếu thì tâm khó mà minh mẫn. Người biết sống với chơn lý không bao giờ cứng nhắc hành xác thân khổ hạnh hay để cho tâm thể dồn nén cảm xúc, hoặc từ chối không đếm xỉa đến thân thể của mình vì cho rằng nó bất tịnh. Nếu mình cho rằng tu là tu tâm tu tánh rồi làm ngơ với thân xác là vô hình chung muốn làm giảm thiểu cơ hội tu tập của mình. Thân nầy là thân tứ đại (đất, nước, lửa, gió) chứ không phải là một khối sắt mà vi trùng không thể xâm nhập được. Người biết sống với chơn lý phải luôn tỉnh thức như vậy để một khi thân nầy ương yếu mình cũng phải chăm sóc mà không trau tria hay tríu mến, chứ không u mê ám muội tụng kinh hay ngồi thiền cho nó tự lướt qua, không có ý chí tâm thức nào có thể khống chế được những con vi trùng lao phổi hay thương hàn… Người biết sống với chơn lý còn là người biết sống thuận lý với thiên nhiên. Chính vì thế mà cổ đức có dạy: “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong.” Thuận theo thiên nhiên thì tồn tại mà nghịch lại thì diệt vong. Nếu đốn rừng một cách bừa bãi mà không chịu trồng dựng rừng lại thì không lâu sau đó mình sẽ bị những cơn hồng thủy hoại diệt.

Ngoài ra, Phật tử chơn thuần cố tránh lối ngụy biện của tà ma ngoại đạo: tu tắt tu tóm. Chính Đức Từ Phụ đã khẳng định trong các kinh điển của Ngài về ba a tăng kỳ tu tập để đi đến Phật quả. Ai dám nói ngược lại với lời Phật dạy thì cứ nói, người con Phật chơn thuần sẽ không bao giờ làm chuyện đó. Con người ấy cứ thầm thầm sống tu với chơn lý dẫu biết 3 a tăng kỳ là vô tận vô biên với bao lần lên xuống xuống lên, con người ấy vẫn một lòng sống với chơn lý, luôn giác ngộ vạn sự vạn vật vô thường. Cõi nước mà chúng ta đang sống đây chỉ là tạm bợ chứ không có gì vĩnh hằng, con người tan hợp hợp tan. Con người ấy dù ở trong đời ô trược loạn động nhưng lúc nào cũng an nhiên tự tại chứ không bị vướng víu bởi bát phong, bát khổ. Con người ấy luôn trân quí hoa nở nhưng không hắt hủi hoa tàn. Một khi đã giác ngộ thế gian vô thường thì khi trẻ không háo thắng, khi già không thấy khổ, khi bệnh hoạn ốm đau không buồn muốn tự tận. Người ấy luôn an nhiên tự tại trước tiến trình “sanh trụ dị diệt.” Hễ có sanh là có trụ, hoại và diệt. Người ấy không bị “sanh lão bệnh tử” gây khổ đau phiền não nữa vì người ấy luôn biết rằng có thân là có bệnh. Tuy nhiên, muốn sống được với chơn lý chúng ta phải luôn đem lời Phật dạy ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày cho đến khi nào tâm có khả năng dứt bỏ vạn duyên, không còn mảy may chấp trước. Tuy biết rằng sanh tử là biển khổ, niết bàn là bỉ ngạn nhưng người biết sống với chơn lý vẫn đi thẳng vào biển khổ sống hòa mình với chúng sanh vạn loài, chứ không cầu Bồ Đề vì sợ sanh tử nữa. Người biết sống với chơn lý là người luôn có đầy đủ bi trí dũng, luôn phát khởi lòng thương yêu rộng lớn với muôn loài, luôn tâm nguyện cứu nhân độ thế. Con người ấy luôn tập trung tâm ý vào công việc tu tập đoạn tận phiền não tham, sân, si. Người biết sống với chơn lý là con người phước huệ song tu vì nếu không tu huệ để nhìn thấy rõ bản mặt thật của vạn hữu, chúng ta sẽ khó lòng thực hiện những công hạnh bố thí cúng dường, mà tập khí không bố thí cúng dường là những nhân của keo kiết bỏn xẻn. Chính vì thế mà trong thời Phật còn tại thế Ngài thường khuyên tứ chúng nên “phước huệ song tu,” vì cái nầy làm trợ duyên cho cái kia. Ngoài ra, người biết sống với chơn lý là người luôn thấy được thế gian vô thường, cõi nước nầy rất mong manh, tứ đại lại khổ không, ngũ uẩn là vô ngã vì luôn sinh diệt biến đổi và giả dối không chủ, tâm là nguồn của mọi việc ác, thân là rừng nghiệp tội. Con người ấy luôn thấy hễ ham muốn nhiều là khổ nhiều vì bao nhiêu sanh tử trầm luân đều do tham dục mà ra. Trong cuộc sống hằng ngày, người biết sống với chơn lý luôn “thiểu dục tri túc” vì nếu tâm không biết đủ mà chỉ lo việc tham cầu thì càng ngày tội ác càng chất chồng. Thế nên người ấy luôn “cư trần lạc đạo” và lấy trí tuệ làm tài sản ở đời. Vì thấy rõ “đời người như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay” nên người ấy luôn tinh tấn từng giờ từng phút sống theo lời Phật dạy chứ không cam tâm để cho ma quân phiền não khống chế. Người ấy luôn cảnh giác rằng tham sân si là đầu dây mối nhợ của cuộc trầm luân sanh tử nên lúc nào cũng y nương theo lời Phật dạy, luôn học rộng nghe nhiều trong tinh thần tu tập để tăng trưởng trí tuệ, xóa bỏ vô minh và thành tựu giác ngộ rồi đem niềm vui tối thượng nầy mà chia xẻ với mọi người. Người biết sống với chơn lý là người luôn thấy rằng ác duyên ác nghiệp thường được kết tạo bởi sự nghèo khổ bần hàn nên con người ấy luôn thực hành hạnh nguyện bố thí lợi tha, bố thí mà không phân biệt thân sơ, bạn thù… Con người ấy luôn nhớ rằng mọi tỵ hiềm, ganh ghét và đố kỵ đều xuất phát từ sự chấp ngã sai lầm thế nên trong bất cứ trạng huống nào con người ấy cũng luôn biết “phản quang tự kỷ,” luôn nhớ đến lỗi mình chứ không nhớ đến lỗi người, đi đâu đến đâu người ấy vẫn luôn tìm cách kết tụ Bồ Đề quyến thuộc chứ không ghét bỏ một ai dù cho kẻ đó có cùng hung cực ác thế mấy. Hơn nữa, những người con Phật biết sống với chơn lý phải luôn biết cẩn trọng về ngũ dục vì luôn biết rằng ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) là tai họa cho cả Tăng lẫn tục. Con người ấy luôn đi thẳng vào đời nhưng lúc nào cũng sống trong tịnh hạnh. Tiền tài của cải dù rất cần cho cuộc sống nhưng với người con Phật tiền tài của cải không là những thứ đem lại hạnh phúc nên chúng không bao giờ khống chế được những con người biết sống với chơn lý. Tình yêu nam nữ với người xuất gia là đoạn tận, riêng với người tại gia thì ngoài tình yêu ấy, chúng ta còn cả một trời “tứ vô lượng tâm” mà Phật Tổ đã trao truyền. Người biết sống với chơn lý luôn thấy rằng địa vị quyền uy, ăn ngon mặc đẹp hay ngủ nghỉ thái quá chỉ là những thứ luôn trì kéo chúng ta đi xuống. Người biết sống với chơn lý là nguời luôn thấy rằng “cây càng lớn tàng càng to thì càng dễ làm mồi cho gió to, cũng như vậy con người càng cao danh vọng thì càng dày gian nan.” Người biết sống với chơn lý luôn thấy được sự thiêu đốt của khổ đau phiền não và lửa sân hận nên luôn phát tâm “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh,” luôn phát nguyện gánh chịu vô lượng khổ cho chúng sanh mọi loài được an lạc. Người biết sống với chơn lý luôn chế ngự và giảm thiểu tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, phẫn, hận, não, phú, tật, xan, cuống, kiêu, siểm, vô tàm, vô quý, tổn hại, trạo cử, hôn trầm, tán loạn, phóng dật, bất tín, trây lười, thất niệm, bất chánh tri… Theo nhà Phật, tham đứng đầu trong mọi ác pháp của chúng sanh. Chúng sanh chẳng những tham cho mình mà còn tham cho gia đình quyến thuộc. Chính vì tham mà cá nhân tranh chấp, gia đình bất tín, xã hội băng hoại và thế giới luôn xãy ra những việc xung đột. Kế đến sân hận đứng hàng thứ nhì trong các ác pháp. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật đã ân cần dạy bảo: “Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai.” Nghĩa là một hành vi tạo tác do nóng giận nổi lên sẽ mở cửa cho hàng vạn nghiệp chướng. Chẳng những thế, sự sân hận còn xóa đi bao công đức đã được tích tụ từ muôn kiếp. Cũng theo Kinh Hoa Nghiêm: “Nhất sân chi hóa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi lâm.” Nghĩa là một đốm lửa sân có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Chính vì thế mà Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã ân cần nhắc nhở các thiền gia rằng: “Sân si nghiệp chướng không chừa, bo bo mà giữ tương dưa ích gì?” Người biết sống với chơn lý luôn thấy rằng dù có tụng trì thiên kinh vạn quyển, hoặc cúng dường trăm ngàn vị Phật, nhưng vẫn sân hận cau có với người thì chỉ là giởn chơi với địa ngục mà thôi, chỉ gây tội tạo nghiệp vào thân tâm chứ chẳng lợi ích gì cho ai. Ngược lại, người biết sống với chơn lý luôn sống bằng trí tuệ chứ không vô vô minh minh hay đui tu mù luyện, vì chính sự si mê làm cho tâm tính con người mờ ám, không có khả năng phân biệt phải trái, chánh tà, hay dở, lành dữ, lợi hại… Cũng chính sự si mê khiến cho con người hành động liều lĩnh mà tạo thêm nghiệp tội. Vì si mê mà con người mê tín mù quáng và gây nghiệp bất thiện. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đặt sự si mê lên trên cả tham sân nên Ngài thường nhắc tứ chúng rằng: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì.” Những người con Phật biết sống với chơn lý không bao giờ có tâm ngã mạn cống cao, không bao giờ ỷ mình có quyền thế tiền bạc mà hiếp đáp kẻ thế cô nghèo nàn, không bao giờ ỷ mình phú quý mà hiếp đáp kẻ cơ hàn… Người ấy luôn thấy rằng càng ngã mạn cống cao, tâm con người càng mờ mịt si mê, công đức càng tổn hại và nghiệp tội càng nặng và vì thế mà luân hồi không dứt.

Đức Phật đã dặn tứ chúng đừng vội tin bất cứ thứ gì ngay cả lời Phật dạy, nhưng đây chỉ là những gì mình chưa rõ hay chưa hiểu, hay những gì mà mình không thể nào áp dụng vào đời sống của chính mình, chứ giáo pháp thậm thâm của Phật là không thể nghĩ bàn, sông có thể cạn, núi có thể mòn, trái đất nầy, vũ trụ nầy có thể bị hoại diệt, nhưng những chơn lý ấy không bao giờ thay đổi. Người biết sống với chơn lý là người không bao giờ nghi ngờ đạo đức chơn chính, không nghi ngờ giáo pháp nhà Phật vì những ai tu theo Phật mà còn đem lòng nghi ngờ giáo pháp ấy, không chịu an trú vào giáo pháp ấy thì trước sau gì cũng chạy theo tà ma ngoại đạo. Người biết sống với chơn lý là người không bao giờ chấp thủ thân kiến vì luôn thấy rằng thân nầy là do tứ đại giả hợp chứ không phải là ta, hễ đủ duyên thì hợp, hết duyên thì hoại diệt, chính vì thế mà con người ấy không bao giờ lo toan bồi đắp cho thân nầy một cách thái quá. Con người ấy luôn hằng sống với chơn lý chứ không chấp thủ biên kiến, không nuối tiếc mãi sự hiểu biết thô thiển của mình, không chấp thủ quàng xiêng theo thường kiến (chấp cái ta còn mãi), đoạn kiến (chấp chết là hết), vân vân. Người biết sống với chơn lý không bao giờ hàm hồ cho rằng mình đúng người sai. Con người ấy luôn biết rằng tài mình chỉ là hạt cát nhỏ trong sa mạc mênh mông nên người ấy luôn biết lắng nghe ý kiến của mọi người, luôn sống hài hòa với tha nhân trong mọi hoàn cảnh. Con người ấy quyết không tin và làm theo những quy luật quái gỡ của ngoại đạo tà giáo như gieo mình vào lửa, giết vật cúng tế, hay tự tử tập thể để được cứu rỗi, vân vân. Người biết sống với chơn lý không bao giờ thờ phượng quàng xiêng như thờ trâu, thờ bò, hay ông táo bình vôi, xin xâm, bói quẻ, cúng sao, giải hạn, hay xem xét long mạch phong thủy… Con người ấy luôn tìm cách xóa bỏ tà kiến để tự tâm quay về với chánh kiến chánh đạo.

Ngoài ra, người biết sống với chơn lý chẳng những không sân, không tức giận một ai, mà cũng không uất hận nghẹn ngào làm mất đi tính ôn hòa, hoặc đi đến xô xát làm tổn hại cho mình và cho người. Con người ấy chưa bao giờ hờn dỗi một ai. Hễ cái gì trái với đạo lý là nói một cách thẳng thắn rồi thôi, chứ không để tâm hờn dỗi hay gây mưu lập kế báo thù, hay giận cá chém thớt bằng cách đem xung đột đến cho những người không dính dáng gì đến vấn đề của mình. Người biết sống với chơn lý không bao giờ phiền muộn ray rức vì con người ấy hiểu rõ luật vô thường của vạn hữu, cái gì rồi cũng sẽ qua đi có gì đâu mà phải buồn rầu bức rức hay nóng giận dỗi hờn không dứt. Người biết sống với chơn lý là người tu thiệt vì con người ấy luôn tỉnh thức tự thân tự tâm, luôn sám hối tội lỗi mà mình đã gây tạo chứ không che dấu. Con người ấy thắng không kiêu, bại không nãn, không ganh ghét đố kỵ với ai. Ngược lại, thấy ai hơn hay giỏi liền hoan hỷ vui theo chứ không khó chịu hay tìm cách làm giảm uy tín của người. Con người ấy lại luôn biết chia xẻ với tha nhân điều hay lẽ thiệt, luôn từ bi hỷ xả, luôn bố thí lợi tha. Hễ biết được cái gì hay bèn đem ra chia xẻ với người hay mách giúp người một cách thực tình. Người biết sống với chơn lý không bao giờ manh tâm lừa dối gạt gẫm người để cầu danh cầu lợi. Con người ấy cũng không ỷ quyền cậy thế hay tiền bạc mà bức hiếp người khác. Con người ấy lại càng không bợ đở nịnh hót hay nói lưỡi hai chiều để được người tín dụng. Mỗi khi làm việc gì sai trái hay tổn hại tha nhân, con người ấy luôn biết tàm quí. Nhờ vậy mà con người ấy ngoài thì luôn được mọi người tín nhiệm, trong thì tâm không hôn trầm tán loạn, hay bất chánh tri; thân không điệu cử (điên đảo không trầm tĩnh), phóng dật (không tự chế được bản thân) hay giải đãi (lười biếng).

Tóm lại, người biết sống với chơn lý là người biết dung hòa giữa thân và tâm. Tu không phải là trau tria những hình thức bên ngoài, vì chiếc áo không làm nên thầy tu, nhưng nếu chúng ta không khởi đầu cuộc tu hành bằng chiếc áo thầy tu thì chúng ta khởi đầu bằng cái gì đây hở quý vị? Nói gì thì nói, dù áo nào thì áo, người biết sống với chơn lý luôn tâm niệm tu là tập sống với tâm linh chứ không phải là vật chất. Con người ấy phải biết sống với tâm linh của mình, phải biết dung hòa thân tâm, phải biết sống thật với tình cảm mà không đi ngược lại lý trí chứ không đóng kịch hay mượn danh tu để khoe cái đạo đức giả của mình hay mượn đạo tạo đời. Người biết sống với chơn lý luôn thức tỉnh rằng sở dĩ bây giờ mình phải tu là vì tự thuở giờ mình chỉ biết kết tụ nội kết tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến, biên kiến, sát, đạo, dâm, vọng, vui, buồn, thương, ghét… tự thuở giờ mình chỉ là một tên kịch sĩ kỳ tài nên bây giờ mình muốn quay về sống thật với chính mình. Con người ấy luôn biết rằng nguyên nhân của khổ đau phiền não không phát sanh từ hoàn cảnh hay từ người khác mà là chính từ nơi mình. Đức Phật đã dạy hễ cái gì hợp với chơn lý, cái đó là Phật pháp, vì thế người biết sống với chơn lý không tự hạn hẹp mình trong giáo lý nhà Phật mà phải biết tung tăng bơi lội trong biển chơn lý để tự mình hài hòa với thiên nhiên vũ trụ, tự mình thong dong đi về cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt.

478. CƯ TRẦN LẠC ĐẠO

Thật tình mà nói, không riêng gì những người con Phật mà chúng sanh mọi loài đều phải thấy rằng nếu không chịu “cư trần lạc đạo” thì không chóng cũng chầy chẳng những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… sẽ biến chúng ta thành nô lệ cho chúng mà bè lũ tay sai của chúng là bát phong (còn, mất, được, thua, vinh, nhục…) và bát khổ (sanh, lão, bệnh, tử, thương yêu xa lìa, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm thạnh suy) sẽ vây quấn lấy chúng ta không rời nửa bước. Đức Phật dạy: “Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… là những nhân của khổ đau phiền não.” Nhưng do đâu mà chúng ta có thể tận diệt được những nhân khổ đau phiền não nầy? Nếu không chịu “cư trần lạc đạo” thì chắc chắn hết ngày dài rồi lại đêm thâu chúng ta tiếp tục trưởng dưỡng những nhân khổ nầy. Như vậy chuyện tu hành của người con Phật thật đơn giản, chỉ cần cư trần lạc đạo (sống trên đời mà vẫn vui với đạo) là đủ.

Quý vị ơi! Thái tử Sĩ Đạt Đa muốn tu thành Phật mà còn phải “cư trần lạc đạo” huống là chúng ta? Những chúng sanh đã lăn trôi từ vô lượng kiếp muốn tìm thấy đường về quê hương Phật, không có con đường nào khác hơn con đường “cư trần lạc đạo.” Thật vậy, an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc chỉ đến với những ai biết cư trần lạc đạo và thiểu dục tri túc mà thôi. Trên đời nầy có mấy ai “cao danh vọng” mà không “dày gian nan” đâu bao giờ? Cái hạnh phúc bên ngoài mà chúng ta đang chạy theo đó chỉ làm cho chúng ta thêm loạn động đảo điên chứ không giúp ích gì cho con đường tu đạo của chúng ta cả quý vị ơi! Cổ đức có dạy: “Sáng nghe được đạo, chiều tối mạng vong cũng cam.” Thật vậy, chưa nói chi đến tu hành, chỉ cần chúng ta chịu “cư trần lạc đạo” thì chúng ta đã đi được hơn một nửa đường về quê hương Phật rồi. Vì khi đã “cư trần lạc đạo” là dù sống trong bất cứ trạng huống nào, chúng ta vẫn vui với đạo, nghĩa là không còn nữa những còn mất, thịnh suy, lời lỗ, vui buồn, khen chê, thân sơ, bạn thù, thương ghét, lên xuống, vân vân. Tuy nhiên, “cư trần lạc đạo” nói dễ khó làm; nói không tham sân si thì dễ chứ thực hành được không tham sân si là khó vô cùng, vì bản chất cố hữu của chúng sanh là như thế đó, lúc nào cũng chỉ biết nói chứ không chịu làm. Khi nghèo đói hoạn nạn thì chỉ mong cho có được no cơm ấm áo và bình yên để tu tập, nhưng khi đã có tiền một lại muốn tiền hai, khi có nhiều tiền lại muốn có nhiều hơn nữa, cứ như thế mà quên mất chuyện tu hành. Khi lâm nguy thì phát tâm thương người, kính tin Phật pháp và ao ước có cơ làm việc phước thiện, nhưng đến khi hết hoạn nạn thì chỉ lo trau tria cho thân nầy, không còn nghĩ chi đến ai khác, còn nói chi đến đạo tâm tu hành. Quý vị ơi! Hãy bình tâm suy nghĩ lại đi, chúng ta như cá cạn nước, một ngày chúng ta sống là một ngày chúng ta đi gần đến nhà mồ. Mạng sống của con người chỉ trong hơi thở. Một hơi thở ra mà không thở vào là đã mạng một. Mạng sống nầy còn nhanh hơn đóa phù dung sớm nở tối tàn, sớm còn tối mất. Nếu chúng ta không sớm tỉnh thức lời Phật dạy mà tu hành, cứ chạy theo đuổi hình bắt bóng với những hy vọng hảo huyền, cứ để cho tham dục, ích kỷ, bỏn xẻn lôi cuốn thì một mai lìa đời còn kịp đâu nữa mà hối tiếc? Khi đã biết được thế nào là cư trần lạc đạo thì chúng ta sẽ biết thiểu dục tri túc, biết mở rộng lòng ra đón lấy tha nhân trong mọi tình huống, biết từ bi hỷ xả, biết bố thí lợi tha, biết phản quang tự kỷ để chỉ thấy những sai sót của mình chứ không bươi móc lỗi ai, để biết chúng ta đi đến cõi nầy với hai bàn tay trắng và một mớ nghiệp mang theo từ vạn kiếp, nếu không khéo chúng ta rồi cũng sẽ ra đi với hai bàn tay trắng mà nghiệp thì vẫn trĩu nặng thêm. Tình thâm phụ mẫu, thê tử không thể nào níu kéo được tử thần, cũng không chịu thế nghiệp được cho ta. Tiền rừng bạc biển, danh vọng quyền uy tột đỉnh cũng không lay chuyển được gió mưa vô thường. Người con Phật hãy lắng nghe lời Phật dạy, hãy nhìn thẳng vào cuộc đời và sống thực với chính mình để thấy rõ mọi hiện tượng thạnh suy, thành bại cũng như thực chất của sanh, lão, bệnh, tử, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… đều là những chất liệu xây dựng địa ngục ngay trong đời nầy kiếp nầy. Quý vị ơi! Phàm Thánh tại tâm chứ không do vật chất dư thừa hay quần là áo lụa mà thành. Chư Phật và chư Bồ Tát lúc nào cũng an vui vì các Ngài biết “cư trần lạc đạo.” Các Ngài sống nơi cõi trần mà luôn vui với nẻo đạo, luôn biết sống với tâm địa của chính mình chứ không mê hình chấp bóng. Các Ngài luôn biết xoay vọng thức về chơn tâm. Còn chúng ta thì ngược lại, chỉ biết ngày ngày dong ruổi đó đây nhàn đàm hý luận chứ không chịu hồi quang phản chiếu để về sống thực với tâm địa của mình. Chư Phật và chư Bồ Tát luôn gieo vào ruộng tâm của các Ngài những kỳ hoa dị thảo, còn chúng ta chẳng những bỏ trống tâm nầy cho cỏ dại phiền não tham, sân, si, ích kỷ tự do phát triển, thậm chí có khi chúng ta còn gieo trồng chúng một cách cố ý nữa là khác. Chư Phật và chư Bồ Tát biết “cư trần lạc đạo” nên các Ngài luôn an nhiên tự tại trước lẽ vô thường sanh, trụ, dị, diệt của chúng sanh và vạn vật, thế nên sự sống chết còn mất với các Ngài cũng chỉ như một cuộc lữ hành về quê cũ mà thôi chứ không làm cho các Ngài mảy may xúc động. Còn những phàm phu tục tử như chúng ta luôn ray rức khổ đau trước sanh ly tử biệt, luôn chất chứa sâu dầy những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Dẫu biết hơi thở ra nầy rồi sẽ chẳng bao giờ còn được thở vô nữa nhưng chúng ta vẫn trào dâng những ham mong huyễn ảo.

Phật tử chơn thuần phải luôn cẩn trọng, phải biết thực hành cuộc sống “cư trần lạc đạo” chứ đừng dong ruổi đó đây nhàn đàm hý luận. Trước khi nhập diệt, Đức Thế Tôn đã nói với chúng đệ tử rằng: “Suốt 49 năm hoằng hóa, ta chưa từng nói một lời nào.” Sao lạ vậy hỡ quý vị? Tam Tạng kinh điển của Thế Tôn dù học trong muôn kiếp vẫn chưa hết, sao Thế Tôn lại nói như vậy? Người con Phật phải cố hiểu chơn ý của Thế Tôn qua câu nói nầy. Phải chăng Thế Tôn muốn nhắn nhủ tứ chúng hãy nên sống tu như Như Lai, chứ đừng bàn đừng luận. Đạo Phật là đạo của những hành giả chứ không phải là đạo cho những thuyết giả. Thật vậy, tri thức phàm phu của những thuyết giả chỉ làm cho họ thành những con két nói tiếng người, làm cho họ thành những kẻ chỉ biết ba hoa chích chòe, khua môi múa mỏ, vọng ngôn lộng ngữ… để hết ngày dài rồi lại đêm thâu, họ đi khắp nơi nơi nhàn đàm hý luận, gieo trồng thêm tội ác. Họ chỉ biết nói chứ không biết mình đang nói gì và đang làm gì.

Phật tử chơn thuần phải luôn nhớ lời Phật dạy về tính ưu việt của con người: con người có thể tạo ra địa ngục, nhưng cũng chính con người ấy cũng có thể tạo ra thiên đường. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Con người là hơn cả, vì con người có khả năng làm nên các pháp lành.” Thật vậy, thánh thiện hay phàm phu, trầm luân hay giải thoát, vô minh hay giác ngộ đều do nơi con người. Cũng như vậy, cũng chính con người chạy theo những dục lạc trần thế hay trở về sống với “cư trần lạc đạo” để xây dựng đời sống thánh thiện an lạc trong ánh Từ Quang của Phật Tổ. Kỳ thật, sống trong cõi trần nhiễm trược nầy mà có thể vui được với đạo là điều hãn hữu vô cùng, nhưng chư Phật và chư Tổ đã làm được, chúng ta là đệ tử của các Ngài thì chúng ta cũng nên noi theo gương hạnh của các Ngài trong cuộc sống cuộc tu hằng ngày. Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ rằng nguồn gốc của khổ đau là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Tuy nhiên, những thứ nầy không khởi lên được nơi những người biết “cư trần lạc đạo.” Ngày trước vua Trần Nhân Tôn, sau khi liễu đạo đã nhường ngôi cho con mà lên núi Trúc Lâm tu hành rồi trở thành vị Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài đã dạy rằng:

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”

Thật vậy, sống trong cõi trần thế nầy mà muốn được vui theo đạo lý thì phải biết tùy hoàn cảnh mà ứng xử và phải ứng xử một cách bình thường như đói ăn, mệt ngủ nghỉ. Vạn vật vạn sự rồi cũng phải đi vào tiến trình sanh, trụ, dị, diệt, không có gì để cho chúng ta phải bận tâm lo buồn. Đừng dong ruổi tìm cầu đâu xa mà quay về ngay với chính mình vì trong mỗi người chúng ta ai cũng đều có của báu, đó là bản tánh chân thật hay chơn tâm. Hãy noi gương Phật Tổ năm xưa, đi vào đời mà tâm không vướng mắc, không lăng xăng lộn xộn, đảo điên, thị phi, hơn thiệt… thì chả cần nói chi đến thiền định, lúc đó con người thật của chúng ta sẽ hiển lộ. Lúc đó dù muốn hay không muốn, dù sống thanh bần hay phú quí, chúng ta vẫn luôn sống vui theo đạo lý. Kinh Pháp Hoa đã khẳng định: “Chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra nơi đời: khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật.” Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, quyền uy tột đỉnh để đi vào rừng sâu núi thẳm tu hành giải thoát. Ngài đã để lại cho Phật tử hậu bối chúng ta một thông điệp quá rõ ràng: “Cư trần lạc đạo.” Cư trần lạc đạo là phải từ bỏ hay giảm thiểu những tham dục. Đức Phật đã bao đời bao kiếp tu hành và đã thành Phật mà còn phải như vậy, huống là chúng ta, những chúng sanh đang hãy còn lăn trôi trong luân hồi sanh tử? Cả cuộc đời của Đức Phật là một thông điệp rõ ràng và hùng hồn nhất cho những ai muốn thoát khỏi mê lầm đau khổ để đạt đến cảnh giới vô thượng như Phật.

Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ rằng thế giới vô thường, đất nước tan biến, tứ đại giả hợp, hễ đủ duyên thì hợp mà hết duyên thì tan. Tất cả mọi hiện hữu trên thế gian nầy đều là giả tạm. Tuy nhiên, do bị vô minh che lấp chơn tâm mà vọng tâm trổi dậy nhận lầm các pháp hữu vi (sanh diệt) là thường còn vĩnh viễn, nhận thân nầy tồn tại mãi… rồi từ đó ta lê lết tấm thân nầy đi khắp đó đây qua bao kiếp luân hồi hết kiếp nầy qua đời khác, chúng ta cứ mãi chạy theo đuổi hình bắt bóng chứ chưa bao giờ biết “cư trần lạc đạo.” Phật tử chơn thuần muốn sống trong trần mà vẫn vui với đạo lý phải trước nhất chuyển mê thành ngộ bằng cách đoạn diệt vô minh. Vì vô minh mà chúng ta lăn trôi tạo nghiệp, gây khổ cho mình và cho người. Vì vô minh mà chúng ta tham đắm nhiễm trước, sân hận, ngã mạn, cống cao, nghi hoặc, giết chóc, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, vân vân… Nhưng diệt vô minh bằng cách nào? Thông điệp đơn giản của Đức Phật: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý.” Phật pháp nói dễ khó làm, dễ nói đến độ đứa trẻ lên năm lên bảy cũng có thể nói được, nhưng lại khó làm đến độ cụ già bảy tám mươi tuổi vẫn làm chưa xong. Phật tử chơn thuần nếu muốn thực hiện được thông điệp đơn giản nầy của Đức Phật phải cương quyết tu trì theo Phật, phải hằng sống hằng tu với 37 phẩm trợ đạo trong tiến trình “Tín Giải Hành Chứng.” Tín là tin sâu vào Phật pháp và Tam Bảo vì người Phật tử mà thiếu lòng tin vào Tam Bảo sẽ khó lòng mà tu trì trong bể Pháp mênh mông. Tuy nhiên, nếu tin mà không biết mình tin cái gì thì sự tin ấy cũng bằng thừa. Đức Phật đã từng khuyến tấn đệ tử đừng vội mù quáng tin ngay cả lời Phật nói, mà phải xem coi những lời ấy giúp gì được cho mình và cho người. Hãy xem cho kỹ những lời dạy ấy coi chúng có thể giúp mình chuyển mê thành ngộ hay chuyển khổ đau phiền não thành an lạc tự tại hay không. Phật tử chơn thuần cũng nên luôn nhớ rằng Phật pháp muôn đời vẫn là chơn lý. Đôi khi chúng ta gặp phải thầy tà bạn ác hành trì sai giáo lý thì Phật khuyên ta nên “y pháp bất y nhân” nghĩa là lúc nào cũng sống cũng tu y như pháp Phật đã dạy chứ không đui tu mù luyện theo thầy tà bạn ác. Một khi đã thấu hiểu những lợi ích của Phật pháp rồi thì người con Phật sẽ lên đường một cách tinh tấn, không thối chuyển không run sợ trước bất cứ một trở lực nào. Trên đời nầy có lắm kẻ tin nhận Phật pháp nhưng chỉ tin nhận để cho có mà chơi, hoặc để dong ruổi đó đây nhàn đàm hý luận chứ chưa một lần thật sự sống tu theo giáo pháp cao thượng ấy. Họ như những kẻ sống say chết mộng hay những khách lữ hành đang đói khát, vào nhà hàng chỉ mãi mê đọc thực đơn mà chơi chứ không chịu mua thức ăn để ăn cho no bụng. Phật tử chơn thuần một khi đã tin nơi giáo pháp cao thượng của Phật, một khi đã hiểu giáo pháp ấy lợi lạc cho mình và cho người, sẽ cương quyết tinh tấn hành trì chứ không để cho vọng tâm khống chế cuộc sống cuộc tu của mình. Làm được như vậy, con người ấy rồi cũng sẽ có khả năng “cư trần lạc đạo,” có khả năng buông bỏ tất cả những gì cần buông bỏ. Làm được như vậy, người con Phật sẽ luôn có khả năng đi thẳng vào đời mà vẫn vui với đạo lý cao thượng của đấng Cha Lành. Làm được như vậy thì còn nói chi đến thoát ly gia đình, họ hàng, thân thích và những sinh hoạt thế gian… Những con người ấy dù ở trong trần vẫn luôn có thể sống tu theo Phật chứ cần chi phải đi vào chốn sơn lâm cùng cốc. Tuy nhiên, nói gì thì nói, nếu ai có đủ cơ duyên xuất giất gia thì vẫn hơn vì người xuất gia đã vượt qua được vế đầu của “cư trần,” giờ thì chỉ tu hành sao cho lúc nào cũng vui với đạo mà thôi. Xuất gia là đã vượt qua được phân nữa đường tu vì không phải ai cũng làm được chuyện cắt ái ly gia xa lìa danh vọng, quyền uy, nhà cao cửa rộng để xuất gia. Như vậy phải là đại hạnh lắm mới có đủ cơ duyên xuất gia tu theo Phật. Chính vì thế mà Đức Phật đã từng khuyên dạy những Phật tử tại gia dù có quyền cao chức trọng thế mấy, cũng nên luôn đảnh lễ các vị sa môn dù vị đó chỉ mới xuất gia gia nhập Tăng Đoàn.

Nói gì thì nọi nói, Đức Phât vẫn luôn quan tâm đến những đứa con tại gia của Ngài vì thời nào cũng vậy số người xuất gia chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi. Trong Kinh Thi Ca La Việt, Đức Phật đã nhắn nhủ chúng tại gia rằng: “Nếu vì hoàn cảnh hay thiếu duyên xuất gia thì tại gia vẫn tu được ngay trong chức nghiệp mình đang làm, tu ngay trong gia đình mình đang sống, kết tụ Bồ Đề quyến thuộc ở bất cứ chỗ nào mình đi qua, tham gia công tác xã hội từ thiện bất cứ lúc nào mình có thể làm được. Nhưng quan trọng hơn cả là phải thọ Tam Quy trì Ngũ Giới. Thật vậy, Phật tử tại gia như những khách lữ hành đang dong ruổi trên bước đường vô định, nếu không có kim chỉ nam Phật Pháp Tăng và Ngũ Giới chắc chắn chúng ta sẽ bị lạc đường. Quy-y Phật là tôn xưng đấng giác ngộ hoàn toàn như Phật Thích Ca làm Thầy chứ không quy-y theo thiên thần quỷ vật. Quy-y Pháp là y theo giáo pháp do Phật nói ra để có khả năng “cư trần lạc đạo” và có khả năng ngăn ngừa các điều ác, làm các điều lành và thanh tịnh tâm ý để thấy đâu tà đâu chánh mà tu trì để được giải thoát như Phật. Quy-y Tăng là nguyện bước chân theo những trưởng tử Như Lai để tránh rơi vào hầm hố của thầy tà bạn ác. Ngoài ra, Phật tử tại gia muốn đi vào đời mà vẫn vui với đạo thì không thể thiếu sự hành trì ngũ giới, vì nhờ đó mà chúng ta biết tôn trọng sự sống và quyền sống chung, bảo đảm tài sản và quyền lợi chung; tôn trọng phẩm tiết, đức hạnh và hạnh phúc chung, tôn trọng sự thật và lòng thành tín, tôn trọng an ninh trật tự của tha nhân…

Tóm lại, nếu chưa đủ cơ duyên xuất gia để ngày ngày vui với đạo thì người tại gia vẫn có thể đi thẳng vào đời và vui với đạo được với một điều kiện là phải lắng nghe và hành trì những lời Phật dạy. Con người ấy ngoài việc tu trì 37 phẩm trợ đạo còn phải luôn thấy rằng tâm theo cảnh là tâm tạo nghiệp, là tâm của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến; người biết “cư trần lạc đạo” vẫn phải đi vào đời, vẫn phải nhìn thấy cảnh nhưng cương quyết không theo, con người ấy vẫn còn buồn thương giận ghét, nhưng chỉ xem chúng như gió thoảng mây trôi, hay nước chảy qua cầu chứ không da diết đến nỗi phải bi lụy cho mình và cho người. Dẫu biết rằng đi vào cõi “sanh trụ dị diệt” mà không bị “sanh trụ dị diệt” chi phối là điều khó, nhưng phật đã làm được và Ngài đã thành Phật, chúng ta há có con đường nào khác sao quý vị? Người con Phật phải làm đủ mọi cách để có được “cư trần lạc đạo,” từ trí huệ hữu học đến trí huệ Bát Nhã, từ sự biện biệt của phàm phu để phân biệt chánh tà đến công phu tu tập để tận diệt những chấp trước mê dại nơi chính mình. Trong bóng tối trùng điệp của si mê chỉ có ngọn đuốc Phật Pháp mới có đủ công năng soi đường dẫn lối cho chúng ta lần bước về nẻo sáng của trí tuệ và chỉ có nẻo sáng của trí tuệ chơn thật mới có thể giúp chúng ta phá tan bóng tối của vô minh phiền não để đi thẳng được vào đời mà vẫn vui với đạo. Mong cho ai nấy đều tinh tấn tiến bước để một ngày không xa nào đó người người đều có khả năng “cư trần lạc đạo” và cùng nhau thong dong nắm tay chư Phật đi vào cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt. Mong lắm thay!!!

479. ĐẠO PHẬT VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CON

NGƯỜI ĐẾN TOÀN THIỆN TOÀN MỸ

Chúng ta đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba với tuyệt đỉnh của nền văn minh vật chất. Khoa học kỹ thuật hiện đại đã thu hẹp thế giới thành một ngôi làng, không gian thu nhỏ, thời gian đến với nhau giữa Đông và Tây được thu ngắn lại với những phương tiện truyền thông và vận chuyển hiện đại. Con người đang sống và đang hưởng thụ đầy đủ các phương tiện tiện ích. Đáng lý con người hôm nay phải sung sướng hơn con người trong bất cứ thời nào trong lịch sử văn minh nhân loại. Thế nhưng nhân loại hôm nay đa phần phải mang nhiều khổ lụy hơn là sung sướng hạnh phúc. Hãy nhìn ngay trong thành phố của những thiên thần (Los Angeles) của tiểu bang giàu có nhất nước Mỹ thì chúng ta sẽ thấy nhan nhãn những người vô gia cư, những trẻ bụi đời, những vụ phạm pháp, nhà tù và nhà thương điên. Ngay cả những gia đình đang sống trong nhà cao cửa rộng cũng đang rạn nứt vỡ tan vì cha mẹ ly dị, con cái ly tán. Thật tình mà nói, nhân loại đang quằn quại trong thương đau bất hạnh hơn bao giờ hết.

Tại sao lại như vậy? Tại sao con người phải chết đói trên đống thực phẩm? Tại sao con người phải chết lạnh bên những tòa cao ốc ngất trời? Theo Phật, từ vô thỉ vô chung, tâm, chúng, sanh và Phật nào có sai khác. Chúng ta vẫn hiện tiền một tâm, vẫn đủ vạn pháp, vẫn có trí sáng… Tuy nhiên, do bởi vô minh nên vạn pháp biến thành hoa đốm trên hư không, trí sáng bị che mờ nên đối cảnh hôn mê mờ mịt và khởi lòng tham đắm chấp nhiễm, sanh trưởng vị ngã ích kỷ. Chính vì thế mà hết ngày dài rồi lại đêm thâu, con người dong ruổi đó đây, gom góp bất cứ thứ gì có thể gom góp được, còn thì sống chết mặc ai. Ngày trước khi còn là những sinh vật du mục, ngày ngày đi lượm hoặc hái những quả chín, chúng ta chỉ lượm chỉ hái vừa đủ cho nhu cầu của chính mình, nên không có cảnh chết trên đống thực phẩm. Còn bây giờ, những kẻ mưu trí dùng đủ xảo kế gom góp và xây dựng cho phần mình. Lại nữa, với dòng đời phát triển, chúng sanh, nhứt là con người, ngày càng ngã mạn cống cao, càng tà kiến, biên kiến, sát, đạo, dâm, vọng… cứ thế mà chúng ta lăn trôi và lăn trôi tạo nghiệp, vô lường vô ngằn, cho nên con đường trước mặt lúc nào cũng là tam đồ ác đạo.

Người con Phật nên luôn nhớ rằng tánh linh ở Phật như thế nào thì tánh linh ở chúng ta cũng như thế ấy. Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, Đức Phật đã thị hiện. Ngài đã xác quyết rằng mọi chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể thành Phật nếu chúng sanh chịu tìm trở về với chính mình. Đức Phật đã khẳng định: “Dù người tu hay người không tu, Phật tánh ấy vẫn sẳn có, vẫn tròn đầy. Tuy nhiên, người không tu vì bị vô minh khống chế nên Phật tánh không hiển lộ được trong cuộc sống hằng ngày, cũng như ngọc quí bị vùi dưới lớp bụi mờ.” Vì sao Đức Thích Tôn Từ Phụ đã thành chánh đẳng chánh giác mà chúng ta vẫn còn làm kẻ phàm phu tiếp tục lăn trôi trong hôn mê điên đảo? Đức Thế Tôn thì công đức trang nghiêm với đầy đủ thần thông trí tuệ, trong khi chúng ta vẫn tiếp tục chất chứa vô lượng khổ đau phiền não? Rõ ràng tâm, Phật, chúng sanh không sai khác; tâm ta và tâm Phật vốn chỉ một thể, nhưng vì mê ngộ nên khác nhau. Theo đạo Phật, sự phát triển của con người là sự trở về với chính mình, tập sống tập tu sao cho hòa hợp với chính mình. Sự phát triển của con người trong đạo Phật không mang vác hay cõng thêm bất cứ thứ gì của trần thế. Ngược lại, tự phát triển mình là tự buông bỏ; buông bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng và buông bỏ cả ngã chấp, tướng chấp, pháp chấp… Sự phát triển của con người trong đạo Phật là tự mình làm thanh sạch ba nghiệp thân, khẩu, ý để tự mình vượt thoát ra khỏi khổ đau và tìm thấy sự an vui của cuộc sống ngay trong đời nầy kiếp nầy. Phát triển tự thân là tự thấy rõ sự thật về chúng sanh và vạn vật, không bị cái ngã nó khống chế ta về cả tình cảm lẫn lý trí. Theo nhà Phật, sự phát triển con người đến toàn thiện toàn mỹ chính là cuộc cách mạng tâm linh vô cùng to lớn và vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, nếu ai trong chúng ta cũng làm được điều nầy thì thế giới khổ đau sẽ tự hoại diệt và nhường chỗ lại cho một thế giới an lành tốt đẹp. Tự phát triển là tự loại bỏ những mê tín mù quáng từ đó chúng ta có thể bớt lo âu, bớt sợ sệt trước những thử thách khó khăn của cuộc đời đồng thời cũng khiến chúng ta cởi bỏ được những trói cột phiền não và những hệ lụy của cuộc đời.

Theo đạo Phật thì chúng ta phát triển bằng cách nào? Đức Thích Tôn Từ Phụ đã chỉ dạy quá rõ ràng về sự phát triển con người đến toàn thiện toàn mỹ bằng cách rèn luyện đạo đức và tinh thần qua “giới định huệ.” Người con Phật dùng đại bi, đại trí, đại dũng cũng như những chất liệu bồi dưỡng cho cả thân lẫn tâm được tươi tốt. Rèn luyện đạo đức và tinh thần của con người không phải là cái gì cao xa không nắm bắt được. Nó đơn giản và thực tiển đến độ ít ai chịu nghĩ đến như việc “trở về làm chủ lấy chính mình.” Tự thuở giờ ai trong chúng ta vẫn cứ ngỡ mình là chủ chứ nào có ngờ đâu bấy lâu nay mình chỉ là nô lệ, nô lệ của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Chúng ta luôn bị hoàn cảnh hay tình cảm lôi cuốn và sai khiến. Chúng ta cứ mãi dong ruổi đi tìm, tìm chưa được cái nầy thì đã mất cái kia, lắm khi chính chúng ta còn không biết mình đang đi tìm cái gì nữa đây. Đạo Phật dạy cho chúng ta biết sống, sống không bị đời nghiền nát mà vẫn hợp với nhân nghĩa đạo lý của một con người. Phát triển con người theo cung cách đạo Phật là xa lánh sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ cũng như uống những chất cay độc. Muốn toàn thiện toàn mỹ con người, chúng ta không còn cách gì khác hơn là mỗi người chúng ta hãy thường xuyên tử tế với nhau và cùng nhau học hỏi những lời hay trong lẽ đạo. Phát triển con người theo đạo Phật là gột rữa những u muội si mê, vì chính chúng đã sanh ra vô vàn phiền não, rồi từ phiền não nầy sanh ra phiền não khác. Cứ thế mà chúng ta lầm lủi đi vào con đường gây tội tạo nghiệp. Vô minh sanh phiền, phiền sanh tội, tội chồng chất và hậu quả là một cuộc lăn trôi không ngừng nghỉ. Phát triển con người theo đạo Phật là lánh xa tất cả những ngu dốt, thù hằn, vọng động, dục vọng, tham đắm, truy cầu, là mọi người cùng sống với nhau trong tình tương kính, trong từ bi hỷ xả và thành tâm. Chúng ta đã và đang lặn ngụp trong biển đời đau khổ vì đã mê muội xem thường đạo lý nhân quả, đã ngu si không hiểu biết được sự hư thực của Ta Bà, nên chỉ thấy Phật qua hình tướng. Không ai chối cãi hình tướng rất cần cho những kẻ sơ cơ sơ tâm; tuy nhiên, nếu chấp chặt vào nó thì chẳng khác nào chúng ta tự đem thân tâm mình mà giao cho cát, đá, xi măng… Đạo Phật không chỉ dạy bằng những giáo điều cứng nhắc và mù quáng, mà bằng sự thực nghiệm tự thân để đạt đến giác ngộ chơn chính. Sự giác ngộ chơn chính chính là sự phát triển toàn vẹn của người con Phật, từ đó mà con người mới có khả năng đánh tan được mọi nghi hoặc, diệt trừ tận căn rễ của ái dục và tội ác. Người con Phật đi thẳng vào đời để phát triển nhân cách và tìm lại Phật cách của mình một cách ung dung tự tại chứ không lẩn trốn tránh né. Trong cuộc sống hằng ngày ai trong chúng ta cũng đều phải học hỏi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để tự tồn trong xã hội văn minh hiện đại, nhưng học để có kiến thức mà sinh tồn chứ không phải học để lấy bằng cấp cao chỉ với một mục đích là kiếm tiền. Những kiến thức mà chúng ta thu thập được về con người, xã hội, kinh tế và chính trị phải được đem ra áp dụng trong cuộc đời sao cho có lợi cho mình và cho người. Hơn thế nữa, những kiến thức ấy phải được mang ra phụng sự đồng loại. Mục tiêu chính của đạo Phật là phát triển con người bằng cách tự cải thiện qua đối trị các trở ngại và phiền não, đối trị từ lo sợ, thù ghét, nghi hoặc, thèm khát, nhục dục, đến trây lười, giải đãi… vì chính chúng là những nhân tố chính tàn phá sự an định của chúng ta. Công năng của sự phát triển toàn vẹn nơi con người thật thù thắng đến nỗi dù lòng mình có tán loạn thế mấy đi nữa, mà chịu phát tâm niệm một câu A Di Đà Phật thì từ hành động, nhãn quan đến sự suy nghĩ của con người ấy đều là siêu phàm. Siêu phàm ở đây không có nghĩa mơ huyền. Hành động, ý nghĩ và nhãn quan siêu phàm là vì chúng mang lại hạnh phúc và lợi ích cho con người và làm cho chúng ta rũ sạch mọi điều ô nhiễm để trở về với cái tâm lúc nào cũng tự tại, lúc nào cũng từ bi hỷ xả; làm cho chúng ta biết đâu là thiện ác chánh tà, đâu là mê tưởng vọng tưởng, còn đâu là sự yên tĩnh trong sáng. Sự phát triển của con người theo đạo Phật là sự trở về sống với chính mình để không vong thân, để thấy dòng đời luôn trôi chảy tuyệt vời trong từng phút giây hiện tại, quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa tới, có bám víu và mơ tưởng cũng bằng thừa. Sự phát triển toàn vẹn của con người trong đạo Phật tuyệt vời đến nỗi những thành bại, vinh nhục, hơn thua, được mất không làm được một gợn mây nhỏ trong bầu trời giác ngộ của người con Phật. Mỗi ngày với người con Phật là một ngày tuyệt vời, thắng không kiêu, bại không nãn; chứ không thành công thì tiếp tục chạy theo tham vọng còn thất bại thì tìm đường tự tận như thường tình thế tục. Dù sóng gió bên ngoài có làm cho biển dậy cồn, nhưng tâm tư của người con Phật luôn bình lặng và tinh thần thật bình đẳng. Sự phát triển con người theo đạo Phật là đưa con người trở về với chính mình, chứ không vong thân hướng ngoại cầu hình, là xây dựng và chuyển hóa con người qua kinh nghiệm tự thân chứ không qua giáo điều. Đây là sự phát triển đúng nghĩa của nó y như lời Phật dạy: “Các con chớ vội tin những gì người ta đồn đại, hoặc được lặp đi lặp lại nhiều lần, vì sự đồn đại có khi không đúng và sự lặp đi lặp lại làm sao tránh khỏi những điều thêm bớt. Các con cũng chớ vội tin những gì do truyền thống để lại vì truyền thống lắm khi mang nhiều thiển kiến chủ quan sai lầm. Các con cũng đừng vội tin những gì do kinh điển để lại vì kinh điển lắm khi bị chép sai, hoặc người chép tự sửa theo ý mình. Các con cũng đừng tin những gì do các bậc thầy nói ra vì các thầy vẫn còn là phàm Tăng chưa chứng ngộ nên vẫn không tránh khỏi sai lầm chấp trước. Và cuối cùng, ngay cả lời ta nói, khi chưa hiểu ý ta muốn nói gì, các con nên cân nhắc suy gẫm và chỉ tin nghe theo những gì nếu đem áp dụng vào cuộc sống thật sự mang lại an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc cho mình và cho người mà thôi.” Muốn đi đến toàn thiện toàn mỹ, người con Phật trước nhất phải thấy vạn sự vạn vật vô thường để không còn khư khư ôm chấp thiên kiến định kiến sai lầm của thường tình thế tục; phải thấy được vạn vật kể cả con người, không có tự ngã, để từ bỏ tánh ngông cuồng tự cao tự đại mà hòa mình vào dòng sống của mọi người mọi loài; phải thấy đời nầy sự khổ sự buồn luôn vây quấn lấy chúng sanh, thấy để nhanh chân vượt thoát khỏi vòng khoái lạc thế tục ngắn ngủi. Sự phát triển của người con Phật là sự cởi bỏ những vây quấn của bóng tối ngu si, sân hận và những chất ngất của đau khổ não phiền, hiểu biết ý nghĩa thịnh suy, đạo lý nhân quả, cũng như nguyên nhân cội rễ của những lo âu, khổ ải, sanh, lão, bệnh, tử… Sinh cũng khổ, bệnh cũng khổ, già cũng khổ, rồi chết cũng khổ, những gì mình không ưa mà cứ gặp mãi cũng khổ, những gì mình yêu thích mà phải xa lìa cũng khổ, cầu bất đắc cũng khổ (mong muốn mà không toại nguyện). Sự phát triển của người con Phật là một tiến trình hướng thượng. Con người vì không xa lánh được sự chấp nê nên khổ, không cưỡng được sự réo gọi của dục vọng, muốn nghe, muốn thấy, muốn nếm, muốn ngữi, muốn xúc chạm… nên khổ. Sự phát triển của con người đến toàn thiện toàn mỹ, đến vô ưu vô khổ, theo đạo Phật, con người ấy phải hằng sống với bốn chân lý khổ, tập, diệt, đạo; phải thấy vì đâu mà có khổ, cái khổ nó chồng chất lên chúng sanh từ muôn vạn kiếp như thế nào, làm sao diệt khổ để sống đời an lạc??? Con người muốn phát triển toàn vẹn để lìa phàm nhập Thánh phải sống với tám con đường cao cả mà Đức Từ Phụ đã vạch ra: hiểu đúng, nghĩ đúng, làm đúng, sống đúng, cố gắng đúng, nhớ đúng và giữ tâm cho đoan chính. Trong tiến trình phát triển nầy, thân tâm con người luôn thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, thân luôn khang kiện, tâm luôn tràn ngập với ánh sáng của từ, bi, hỷ, xả. Đi đâu đến đâu con người ấy luôn hành xử với mọi người bằng cái tâm không phân biệt, không khinh khi, không xu nịnh, không ghen ghét, không nóng giận. Ngược lại, con người ấy luôn từ bi lân mẫn, luôn bảo vệ chúng sanh mọi loài, luôn nhớ vạn vật vô thường, chúng sanh vô ngã, nên từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm đều tỏa chiếu một màu sáng an lạc xóa tan não phiền đau khổ của biển đời sanh tử tử sanh nầy. Con người được phát triển theo những lời dạy dỗ của Phật sẽ thấy rằng mưa rơi, gió thổi, hoa nở, hoa tàn, hoa rơi, lá rụng, và ngay cả sự có mặt và ra đi của con người đều do duyên mà có, rồi cũng vì duyên mà tan hoại. Vạn sự vạn vật trên đời nầy, không nhiều thì ít, đều có liên quan với nhau. Một giọt nước chẳng những có công năng làm lớn biển Thái Bình, mà cả bốn biển xung quanh đều lớn. Con người muốn phát triển đến nhân cách toàn thiện toàn mỹ để tìm về Phật cách mà mình đã một lần dại dột xa lìa, con đường duy nhất là phải hằng sống hằng tu với những lời Phật dạy. Hễ đủ duyên thì xuất gia, còn duyên chưa đủ thì tại gia tu cũng vẫn được, miễn là tu đúng với chánh pháp và thực hành đúng lời Phật dạy. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển phải thấy được kết quả hướng thượng thì mới được gọi là tu đúng đường hành đúng pháp. Thí dụ như hồi chưa tu thì làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… đến chừng tu rồi thì phải luôn cảnh tỉnh để kềm chế và làm chủ cho được bọn nầy, đó là tu đúng. Ví bằng càng tu mà tham, sân, si không bớt; mạn, nghi, tà kiến không giảm; sát, đạo, dâm, vọng không rời thì coi chừng mình đang tu theo tà ma ngoại đạo, chứ không phải tu Phật. Người chưa tu thì tham, sân, si vây quấn như những áng mây đen vầng vũ, sấm chớp có thể nổi lên bất cứ lúc nào. Khi đã tu như trời quang mây tạnh, thế mà sấm chớp vẫn còn nổi lên thì hãy coi chừng!!! Con người đang phát triển đến toàn thiện toàn mỹ là con người biết chế tâm chứ không khoe tướng. Nếu tướng vẫn khoe mà tâm không biết chế thì vẫn sống trong mê mờ và rồi đây cũng sẽ chết trong mê mờ tham luyến. Nếu tướng vẫn khoe mà không biết điều phục tâm mình thì nào khác chi những kẻ sống say chết mộng, sống thì lẩn quẩn trong chấp nê rồi thì khi chết cũng lẩn quẩn trong bế tắc của huyễn giả. Ngược lại, con người phát triển đúng theo giáo pháp nhà Phật, thì con người ấy sẽ sống trong an lạc, tỉnh thức, hạnh phúc và sẽ chết trong tận cùng của an lạc và giải thoát. Theo đạo Phật, muốn phát triển con người đến toàn thiện toàn mỹ, con người cần phải thực hành vô lượng pháp lành để đối trị mọi phiền não, nhờ có công tu đức mà tánh đức hiển lộ, cũng như viên ngọc minh châu đã được mài dũa và trân trọng để vào chỗ cao ráo sáng sủa vậy.

Người con Phật đã thấy chưa sự lợi lạc của sự phát triển đến toàn thiện toàn mỹ trong cung cách nhà Phật? Những người con tại gia vì duyên nghiệp chưa dứt nên vẫn phải lập gia đình, có vợ, có con, có sản nghiệp, có họ hàng quyến thuộc… Tuy nhiên, những thứ nầy không là nợ nần oan gia, ngược lại, tất cả đều là bạn đồng tu tuyệt vời. Tất cả đều đến và đi trong thong dong tự tại. Lúc đang sống, chúng ta cố sống một đời thật đáng sống, đến khi hết duyên hết nghiệp phải ra đi, cũng ra đi trong an nhàn tự tại. “Thôi cũng đủ rồi” tan hợp hợp tan. Sống tu được như vậy, cho dù Niết Bàn chưa tới, cũng không bị nghiệp lực dẫn dắt vào tam đồ ác đạo. Sống tu được như vậy là trở về với cái bản tâm thật sự, là làm chủ lấy mình, là hiểu được trọn vẹn chơn lý của Đức Từ Phụ, là tam nghiệp thân khẩu ý đều thanh tịnh, là từng niệm khởi lên chơn chánh, từng bước thảnh thơi, tâm trí lúc nào cũng trong sáng như trời quang mây tạnh. Không nói nhiều chúng ta cũng dư biết cõi nước sắp bước vào của chúng ta sẽ là cõi nước nào? Nếu không là Niết Bàn tịnh tịch, thì cũng phải là Tây phương Tịnh Độ, hoặc giả là cõi vô ưu vô sanh và vô diệt nào đó!!!

480. NIẾT BÀN CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Đạo Phật công nhận đời là bể khổ, nhưng không dừng lại ở đó, cũng không tiêu cực đầu hàng bể khổ. Ngược lại, những người con Phật tích cực xông thẳng vào cõi Ta Bà ngũ trược ác thế như những cánh sen vươn lên từ ao tù nước đọng tanh hôi mà vẫn tỏa ngát hương thơm thanh khiết. Ai trong chúng ta cũng đều biết mục đích tối thượng của đạo Phật là Niết Bàn tịnh tịch, nơi của vô ưu, vô sanh và vô diệt. Tuy nhiên, ai trong chúng ta lại không nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Hoa: “Ta thị hiện nơi đời vì một đại sự nhơn duyên: khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật.” Ngài cũng khẳng định trong các kinh điển rằng: “Nếu đạo nầy chỉ lợi lạc cho tỳ kheo mà tỳ kheo ni không lợi lạc thì không phải là đạo ta; nếu đạo nầy chỉ lợi lạc cho tỳ kheo và tỳ kheo ni mà không lợi lạc cho ưu bà tắc và ưu bà di, cũng không phải là đạo ta.”

Đức Thích Tôn Từ Phụ không đề xuất một triết lý siêu hình hoặc mơ hồ huyền hoặc, Ngài đã khẳng định: “Hễ ta tu thành Phật thì chúng sanh mọi loài đều có khả năng tu thành Phật như ta.” Lời dạy bất hủ của Ngài vẫn còn vang vọng đâu đây:

“Ta là Phật đã thành,
Chúng sanh là Phật sẽ thành.”

Gần hai ngàn sáu trăm năm về trước, Ngài đã thành Phật, Ngài đã nhập Niết Bàn, Ngài đã đi vào cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt… Hai ngàn sáu trăm năm sau, chúng ta vẫn còn đây, vẫn lăn trôi trong lục đạo, vẫn chưa tìm được Niết Bàn cho chính chúng ta. Niết Bàn của những người xuất trần ly thế trong giáo đoàn của Thế Tôn là cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt. Thế còn Niết Bàn của những đứa con tại gia là đâu? Câu nói của Thế Tôn vẫn còn văng vẳng chưa xa: “Nếu đạo nầy chỉ lợi lạc cho chư Tăng Ni mà không lợi lạc cho Phật tử tại gia, đó không phải là đạo ta.” Những đứa con tại gia luôn tin tưởng như vậy, hễ có Niết Bàn cho người xuất gia thì cũng có Niết Bàn cho người tại gia. Trong suốt 49 năm hoằng hóa Đức Từ Phụ đã không viết xuống một câu nào. Dụng ý của Ngài đã quá rõ. Đạo nầy không phải là một học thuyết hay triết lý suông. Đạo nầy là con đường sống tĩnh thức, an lạc và hạnh phúc; và là con đường tu giác ngộ và giải thoát. Đúng như vậy! Hễ đủ duyên xuất trần ly thế và tinh tấn tu hành thì con đường trước mặt là nẻo về giác ngộ và giải thoát, là Niết Bàn tịnh tịch. Tuy nhiên, nhân duyên chưa đủ, tại gia mà quyết chí dọn đường theo chân Thế Tôn, thì con đường trước mặt vẫn là tỉnh thức, an lạc và hạnh phúc. Con đường mà năm xưa Duy Ma Cật, Bàng Long Uẩn và Lục Tổ Huệ Năng đã đi và đã đến. Những người xuất trần ly thế vì không làm việc kiếm tiền và không chung sống với phàm nhân nên con đường diệt khổ có phần thênh thang hơn những đứa con tại gia. Trong thiền đường, nơi tự viện hoặc tịnh xá cô liêu, không đương đầu trực tiếp với thường tình thế tục nên những đứa con xuất gia dễ dàng vâng giữ những giới luật mà Thế Tôn đã đề ra. Nơi đó sự cám dỗ của ma vương cũng như những chướng ngại phàm tục không khủng khiếp như giữa chợ đời. Nơi đó các Ngài có thể sống đời phạm hạnh, xa lìa đắm say vật dục và ái nhiễm trần thế. Nơi đó các Ngài dễ dàng lắng đọng để nhìn thấu suốt sự vô thường của vạn vật, hay tính chất không có tự ngã của mọi loài, cũng như sự đau khổ vô cùng vô tận của biển đời. Nơi đó các Ngài có đủ duyên để quán chiếu về bản thể con người và sự sống chỉ là một tổng hợp liên tục của vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, đa phần những người tin Phật lại là những Phật tử tại gia, muốn hướng thượng song hãy còn duyên nghiệp hãy còn bận bịu với gia đình và xã hội… Đức Phật đã tận tường chỉ dạy rằng: “Châu báu nơi chính mình, hãy trở về tìm lấy, đừng tiếp tục dong ruổi hướng ngoại cầu hình.” Dù xuất gia hay tại gia, hễ thấu triệt được chơn lý “vạn vật giả hợp đều hoại diệt,” thì sẽ có khả năng buông bỏ tất cả mọi thứ để hướng về giác ngộ và giải thoát. Dù xuất gia hay tại gia, hễ nhận biết Thế Tôn chỉ là một bậc đạo sư đưa đường dẫn lối cho chúng sanh thoát khổ, sẽ có khả năng tự mình nương theo những giáo pháp của Ngài để hướng thượng. Dù xuất gia hay tại gia, hễ nhìn thấy được ánh sáng nơi giáo pháp của Phật là cần thiết cho sanh chúng trên đường trở về đất Phật, con người ấy rồi sẽ lần bước theo Như Lai.

Sự thật tối hậu trong đạo Phật là chơn lý của sự giải thoát, là tự mình tu tập chứ không hướng ngoại cầu hình, không bám víu vào bất cứ thứ gì vì có gì đâu để mà bám víu? Càng bám víu càng khổ, càng tom góp vật chất thì càng vướng mắc và càng đi ngược lại với chơn lý tu hành. Niết Bàn trong đạo Phật không phải là một danh từ trừu tượng mơ hồ. Niết Bàn là sự chấm dứt của khổ đau, là tương quan nhân quả không còn nữa. Hễ không gieo thì không gặt. Mọi sự mọi vật tự bao giờ vẫn vậy, trong ta hay ngoài ta, đều biến chuyển theo quy luật nhân quả, không có ngoại lệ! Hễ cam tâm chạy theo loạn động thì “cái nầy sanh rồi cái kia sanh, cái nầy có rồi cái kia có.” Một khi đã quyết tâm tu trì theo Phật, quyết trở về quê hương chân như mà chúng ta đã một lần dại dột xa rời thì phải quyết trở về hành trì cho bằng được lời Phật dạy: “Cái nầy không thì cái kia không, cái nầy diệt thì cái kia diệt.” Thấy và làm được như vậy thì cho dù biển đời có đau khổ và không chắc thật, con người ấy vẫn có cuộc sống an lành ngay trong những giây phút hiện tại. Nghĩa là bất luận xuất gia hay tại gia, một khi vô minh ái dục bị triệt tiêu thì sự an lành hạnh phúc sẽ xuất hiện ngay bây giờ và ở đây. Niết Bàn là trạng thái an lành. Tuy nhiên, muốn biết trà ngon thì phải pha và tự uống. Cũng như vậy, muốn biết Niết Bàn an lành và hạnh phúc như thế nào, con đường duy nhứt cho cả xuất gia lẫn tại gia phải là con đường tu tâm dưỡng tánh, hành thiện không hành ác và tự tịnh kỳ ý; phải diệt trừ ngã chấp, nghi hoặc, tà kiến, mê tín dị đoan; phải đoạn trừ tham dục và ác tánh; phải thanh sạch những kiết sử còn xót lại để không còn tham đắm một cõi nào, dù là cõi sắc hay cõi vô sắc.

Những đứa con Phật chơn thuần, dù xuất gia hay tại gia phải cố mà sống trong Niết Bàn, dù dư thừa hay không dư thừa, dù hiện đời hay ở đời nào. Con đường duy nhất để bước vào cõi nầy, nơi thiếu vắng khổ đau phiền não phải là con đường có đầy đủ giới, định, huệ. Phải kềm giữ thân tâm, phải tập trung và huấn luyện tâm trí sao cho khi nhìn sự vật, ta nhìn đúng như bản mặt thật của nó, phải hiểu biết đúng, luôn suy nghĩ về từ bi hỷ xả, luôn nói lời hòa ái chơn thật, luôn hành động có lợi cho mình và cho người, luôn sinh sống lương thiện, luôn siêng năng tu tập, luôn kiểm soát thân khẩu ý để chỉ nhớ nghĩ về các pháp lành, luôn tĩnh tâm và trau dồi trí tuệ. Quả là khó khăn cho tâm viên ý mã nầy được an trú ở tâm Bồ Đề mà không bị vọng niệm quấy phá. Tuy nhiên, Đức Phật đã từng dạy dỗ tứ chúng rằng muốn được như vậy khi bố thí phải bố thí với hạnh vô tướng; khi độ sanh phải độ với hạnh vô ngã. Nếu chúng ta không để cho hai thứ ngã chấp và pháp chấp vướng víu chúng ta thì tha nhân, ta và chúng sanh không còn ai trói buộc được ai nữa. Trên đời nầy không một người con Phật nào mà không nghĩ đến Niết Bàn, nhưng người con Phật phải vô cùng cẩn trọng vì nếu không khéo có những thứ huyễn giả mà ta cứ lầm tưởng là chân như, những thứ tạm bợ mà ta lại cho là trường cửu. Cuộc sống con người đáng trân quí ở chỗ biết sống đạo lý và luôn hành xử trong cung cách thăng hoa hướng thượng, phải biết tìm về với chính mình mà sống đúng với chơn lý và lẽ thật của sự sống. Đức Từ Phụ đã từng khẳng định trong các kinh điển của Ngài là chỉ có tự thân tự tâm mình là nơi nương tựa an toàn và tuyệt vời nhứt cho mình, luôn đem đạo vào đời mà sống mà tu trong mọi hoàn cảnh, luôn giữ cho thân khẩu ý, lục căn và tâm thanh tịnh. Nếu ai trong chúng ta cũng làm được như vậy thì pháp giới đều thanh tịnh.

Đời người như một giấc mơ, nhưng vì bị vô minh che mờ mà con người luôn cho đời là vĩnh hằng, từ đó chấp nê đủ thứ, từ sự giàu sang đến danh vọng quyền uy, công hầu khanh tướng. Chúng ta có ngờ đâu tất cả chỉ là huyễn giả, thấy đó rồi mất đó, có đó rồi không đó. Nói gì thì nói, những đứa con Phật chơn thuần phải luôn biết tận dụng những gì mình có được mà tu tâm dưỡng tánh vì rời bỏ thế gian hư ảo nầy thì cũng không có thế giới chân thực, vĩnh viễn hay bất biến nào khác. Thế nên muốn làm cho trống vắng đau khổ não phiền trong cõi đời ô trược nầy, người con Phật phải sống trong những cám dỗ của dục vọng mà không bị chúng lôi kéo vào vòng sa đọa. Phải làm được điều nầy một cách trung dung, nghĩa là không tự hành hạ thân tâm mình một cách quá đáng. Con người muốn tạo cảnh giới Niết Bàn ngay trong đời nầy kiếp nầy phải tận diệt những phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ). Muốn làm được điều nầy người con Phật phải thấu triệt nhân duyên, phải tu thập thiện nghiệp để tự cải thiện cá nhân, gia đình và xã hội bằng những hành động thiện lành, phải dùng trí tuệ Bát Nhã để ứng xử trong mọi hành động, phải can đảm thay đổi những gì mình có thể thay đổi được và phải cố thản nhiên chấp nhận hay điều chỉnh tự thân vào những việc mà mình không thể thay đổi được. Đạo Phật nói dễ khó làm vì chỉ làm được điều tốt hoặc giữ được tâm bình tĩnh trong thuận duyên thuận cảnh, chưa phải là tốt. Người con Phật chơn thuần, dù trong thuận duyên hay nghịch cảnh, vẫn làm được điều tốt, vẫn giữ được tâm bình tĩnh và tánh khiêm tốn. Dù trong trạng huống nào, người con Phật vẫn nói đúng, nói mềm mỏng, nói hiền hòa chứ không nói sai, nói cộc cằn thô lỗ hay nói lời hung ác. Khi nghe ai khen ai chê, vẫn điềm nhiên tự tại chứ không lộ vẻ thích chí mà cũng không lộ vẻ khó chịu hay hằn học. Người con Phật chơn thuần, muốn vào cõi Niết Bàn ngay trong đời nầy kiếp nầy, phải xem được vinh, nhục, khổ, lạc, lợi, hại, khen, chê, dè bỉu, mắng chuởi… như nước chảy qua cầu, như gió thoảng mây bay. Chúng đến rồi đi, đi rồi đến không hẹn kỳ. Làm được như vậy chẳng những ta không làm khổ mình, không làm khổ người khác, mà còn lánh xa được dục vọng và sống một đời bình yên nữa.

Chúng sanh đã triền miên lăn trôi, cũng như nhân loại đã oằn oại trong biển khổ chỉ vì không bao giờ biết thương yêu nhau, không có lòng từ bi hỷ xả, ngược lại cứ nuôi dưỡng mãi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến, biên kiến, sát, đạo, dâm, vọng, cứ phân chia giai tầng xã hội để đày đọa hành hạ lẫn nhau. Đức Từ Phụ thì xóa bỏ mọi cách biệt qua câu nói bất hủ của Ngài: “Không có giai cấp khi máu của chúng sanh cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau.” Thế nhưng chúng ta thì khác, chúng ta làm ngược lại tất cả những gì Phật dạy. Chúng ta phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn… Nếu chúng ta chịu lắng lòng nghe lời Phật dạy, chịu xóa bỏ những thành kiến phân biệt giữa ta với người thì vạn triệu nguồn thương yêu sẽ cùng tràn ngập vào biển khổ mà làm vơi đi nỗi trầm thống của chúng sanh. Lúc đó muốn tìm cảnh ghét bỏ cấu xé lẫn nhau không phải là chuyện dễ. Lúc đó đi đâu đến đâu, chúng ta sẽ chỉ thấy toàn là yêu thương nhường nhịn, an lạc và thái bình. Lúc đó tâm ta nào khác chi tâm của Thái Tử Tất Đạt Đa năm xưa. Cái tâm chỉ có vạn triệu nguồn yêu thương nhân thế ngự trị. Lúc đó dù ta đang sống trong cao sang hay nghèo khó, vinh hoa phú quí hay bần hàn rách rưới, chúng ta sẽ không còn bị giam hãm bởi cao sang quyền tước, dục vọng, vinh hoa, hay lao tù lục đạo nữa. Người con Phật phải luôn thấy rằng thái bình an lạc và hạnh phúc của Ta Bà chỉ là giả tạm, có chờ không, còn chờ hết, vui chờ buồn, hạnh phúc chờ khổ đau, trẻ chờ già, khang kiện tinh anh chờ bệnh hoạn lú lẩn, da thẳng má hồng chờ da nhăn má hóp… Dòng thời gian vẫn phủ phàng nghiền nát tất cả. Ngày xưa chính Thái Tử Tất Đạt Đa đã một lần sực tỉnh ngộ về bản mặt thật của những cuộc hoan ca, những tiếng đàn du dương trầm bỗng, những khoái lạc nhục dục… nào khác chi những tiếng than thở, rên rỉ cho một kiếp chúng sanh. Ngài đã thấy kiếp con người nào khác chi một kiếp phù du, sớm nở tối tàn, những vui sướng nếu có chỉ là tạm bợ trong một thời gian ngắn ngủi để rồi phải chịu một hậu quả thương đau trong muôn ngàn vạn triệu cảnh bẽ bàng và khổ não của một kiếp con người. Tất cả mọi người chúng ta đang phải đối đầu với những cuộc tan vỡ chia ly không ngừng. Chúng ta đang quờ quạng nếm mùi hạnh phúc vô thường và đang chạy theo ảo ảnh của đuổi hình bắt bóng. Nhà hiền triết Pascal đã ví nhân loại như đang ở trong một phòng tối khổng lồ, những người trí thì ở gần vách phòng, tay chân còn có thể nương theo bờ vách; còn những kẻ mê muội thì đang quờ quạng giữa phòng. Những kẻ mê muội như đang sống say trong bã vinh hoa phú quí để cho tham, sân, si… mặc tình khống chế để rồi lại chết đi trong cơn trường mộng của trần thế. Thật tình mà nói, trần gian là một giấc mộng hãi hùng, từ lúc sanh ra đến ngày tạ thế, con người có bao lần vui và có mấy lần sầu? Đời vui ít sầu nhiều, thế mà ít ai trong chúng ta tỏ chút kinh vì. Chim ăn sâu bọ, người ăn chim. Thú rình mồi, người rình thú. Cá ăn kiến, kiến ăn cá… Nhân loại trong cõi Ta Bà nầy luôn bị chìm ngập trong biển khổ hãi hùng, sinh ra để đón chịu bao cảnh khổ đau phiền não. Lúc sống thì tranh danh đoạt lợi, hơn thua nhau từ lời ăn tiếng nói, đến khi chết rồi thì thân thể rã rời theo cát bụi. Lúc sống thì rượu chè bài bạc, miệng thì oang oát ong óng, thế trí biện thông chứ quyết không chịu kém thua một ai, lặn ngụp trong muôn ngàn ảo ảnh, đến khi chết thì phải bỏ lại tất cả, phải nằm yên một đống như chồi cây khô. Muốn đạt được an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc, người con Phật phải luôn tắm mình trong tứ niệm xứ (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã). Thật vậy, khi chịu quán sát chúng ta sẽ thấy thân là một vật bất tịnh chứ không phải là “Ta” và không thường còn; tâm vô thường vì tâm viên ý mã luôn biến đổi và luôn vọng động với thất tình lục dục (vui, buồn, thương, ghét, giận, ham), chứ không phải là “ta”; vạn pháp vô ngã chứ không có chủ thể; những gì mà chúng ta đang có và đang gìn giữ đều là mầm mống của khổ đau phiền não, nhưng vì vô minh mà con người cứ “thọ” hết thứ nầy đến thứ khác. Thế nên Đức Phật dạy: “Muốn chấm dứt khổ đau phiền não, con người phải quán triệt chơn lý ‘thọ thị khổ’ để bố thí hết những gì mình đã có chứ không thọ lãnh bất cứ thứ gì.” Ngoài ra, Niết Bàn của người con Phật còn là cuộc sống tỉnh thức vì đó là cách chối bỏ vọng niệm hữu hiệu nhất. Hễ không tỉnh thức là thất niệm, là bóng tối, là tự lãng quên mình để tha hồ bị ngũ trần lôi kéo đi trong mịt mù thăm thẳm, từ đó tự buông mình trong biển ái hà tham đắm của giác quan. Người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ rằng sáu căn là cửa ngỏ để tâm ý phóng ra ngoại cảnh, từ đó gây ra bao vướng mắc vào tham đắm và tạo bao nhiêu nghiệp tội để hết đời nầy đến kiếp khác phải lăn trôi trong tam đồ lục đạo. Thế nên cổ đức luôn khuyến tấn chúng ta chí thành sám hối lục căn. Cơ hội được thân người là khó khăn hãn hữu, cơ hội được gặp Phật pháp lại càng khó khăn hãn hữu hơn, người con Phật phải thấy như vậy để không luống qua kiếp nầy trong vô ích. Người con Phật phải luôn sống tỉnh thức để thấy được sự huyễn mộng của trần thế, từ đó không còn u mê bám chặt vào vạn sự vạn vật, mà chỉ xem chúng như những phương tiện cho mình sống tu. Niết Bàn của người con Phật chỉ đến với những ai luôn sống tỉnh thức, sống phản quang tự kỷ để soi lại tâm mình, phải suy tư và thận trọng trong mọi hành vi của mình, chứ không để mặc cho lục căn khống chế. Con người ấy không bao giờ sống say chết mộng theo thói của thường tình thế tục.

Thế giới văn minh vật chất càng cao càng làm cho con người chúng ta lạc lỏng, tự đánh mất chính mình, chịu cam tâm làm nô lệ cho kim tiền vật chất, cũng như bị khuất phục trước uy lực của tham ái, trước mãnh lực của ái tình. Chúng ta những con người phàm nhân tục tử, đã có lại muốn có thêm, trọn đời chỉ biết mê say trong trụy lạc, trong bã vật chất phù hoa mà không bao giờ biết đủ để rồi hết kiếp nầy sang kiếp khác phải bị trầm luân thống khổ. Con người chúng ta dù khôn hay dù dại, dù học thấp hay học cao, dù cạn cợt hay uyên bác, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn… nếu không khéo đều là những kẻ nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Phải sớm biết như vậy! Phải tự nguyện hướng về ánh Đạo Vàng của Phật Tổ, tự đào luyện lấy và tự nương theo chánh pháp để tu hành giải thoát. Phật đã vì chúng sanh mà ban rãi tất cả những phương lương diệu dược, đã rưới nhuận cam lồ khắp nơi nơi. Ngài đã sắm sửa thuyền Bát Nhã cho chúng sanh vạn loài. Ngài đã dóng mạnh tiếng chuông tỉnh thức, tiếng Pháp Âm Chánh Pháp hầu thức tỉnh quần sanh đang còn sống say chết mộng trong biển đời sanh tử của nhục dục thường tình, của ái ân vị kỷ. Giờ đến phiên chúng ta! Hãy can đảm lên hỡi những người con Phật! Hãy bước ngay lên thuyền Bát Nhã! Niết Bàn không đâu xa, mà địa ngục cũng chẳng đâu xa. Niết Bàn có thể là đây, mà địa ngục cũng có thể là đây. Người con Phật còn chần chờ gì nữa mà chưa chịu tu tập? Tu tập để thực hành đời sống an vui tự tại trong mọi hoàn cảnh. Tu tập để từng giây từng phút ta sống là từng phút trống vắng khổ đau phiền não, ngược lại tâm trí lúc nào cũng tỉnh thức, trong sáng và thoải mái. Tu tập để không còn bị lục căn lục trần bức bách phải nghĩ, nói và hành động theo chúng để gây ra ác nghiệp. Tu tại gia hay tại chùa đều được, miễn sao ta tu với cái “tâm thành,” tu với cái tâm “hướng thượng,” muốn được gần gũi với chư Phật và chư Bồ Tát. Tu để không làm điều ác mà chỉ làm các điều lành. Tu để tự tịnh kỳ ý. Tu để thoát kiếp nô lệ cho tham sân si…Tu để tự biến chuyển những não phiền tiêu cực thành ra an lạc yêu đời. Tu để buông xả và buông xả tất cả. Tu để thấy rằng hễ nơi nào có ham muốn là nơi đó có u mê hờn giận, nơi nào còn ưa còn ghét, còn thị phi là nơi đó còn đầy đủ những vướng mắc của thường tình thế tục. Tu cho tới một lúc nào đó tâm mình chỉ còn duy nhất một màu “từ bi hỷ xả.” Đó chính là Niết Bàn của người con Phật. Niết Bàn không thể diễn đạt được bằng ngôn ngữ văn tự hay khái niệm, không phải ngôn ngữ bất lực mà do sự có mặt của ái và thủ của con người xuyên qua ngôn ngữ nên ngôn ngữ đành thúc thủ. Một khi ái và thủ diệt thì ngôn ngữ cũng chính là thật pháp. Một khi chúng sanh đạt được cái nhìn “như thực” nghĩa là nhìn được vạn pháp bằng “vô ngã” thì không có ngôn ngữ hay có ngôn ngữ, cái gì chúng ta nhìn cũng đều bằng “vô ngã pháp,” thoát ly mọi ý niệm và rời khỏi mọi tướng chấp thủ. Nói tóm lại, ngay trong cuộc sống hiện tại mà con người nỗ lực tự thân và tu tập đúng pháp sao cho vắng mặt ái trước và chấp thủ là chúng ta đang sống trong Niết Bàn. Như vậy Niết Bàn của người con Phật là sự giải thoát tham ái và chấp thủ trong cuộc sống hằng ngày mà không cần phải trốn chạy khỏi cuộc đời hay thế giới, nghĩa là không cần phải xuất trần thoát tục hay xuất gia ly gia. Nói như vậy không có nghĩa là cổ võ con người tránh né việc xuất gia, nhưng nói để cho mọi người thấy rằng ngay cả việc xuất gia cũng chỉ là những danh từ không hơn không kém, nên cũng đừng ai sanh tâm ái trước và chấp thủ vào cái danh từ ấy. Nói như vậy cũng không nhằm cổ võ mọi người nên tiếp tục cuộc sống trần tục bại hoại, mà nói để mọi người cùng thoát ly ái trước và chấp thủ ngay trong cuộc sống trần tục. Ngoài ra, muốn đi đến Niết Bàn người con Phật phải vâng giữ lời Phật dạy trong cuộc tu hành, đừng thái quá mà cũng không nên bất cập. Trong Kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật dạy: “Đạo ta là trung đạo, nó ở giữa sự khổ hạnh và sự sống phù phiếm xa hoa. Hai cách sống trái ngược nhau ấy, người đi tìm một đời sống tinh thần phải xa lánh. Đó là hai thái cực, một đàng là đời sống khoái lạc hướng về sự hưởng thụ, tìm những thú vui và thỏa mãn những dục vọng, đây là cách sống bẩn thỉu, hèn hạ, phù phiếm, trống rỗng, trái với tinh thần, không xứng đáng với người. Một đàng là đời sống khổ hạnh, tự đày ải, thực là đáng buồn, đáng thương, vô ích và cũng không xứng đáng. Hỡi các thầy Tỳ kheo, cả hai con đường ấy, bậc đại trí đã xa lánh từ bỏ; Như Lai đã tìm thấy con đường giữa, con đường làm sáng nhãn quang của trí tuệ, con đường đi đến an lạc, tỉnh thức, hạnh phúc, toàn giác, là con đường đi đến Niết Bàn.”

481. THEO ĐẠO PHẬT NÀO?

Đúng theo lời dạy của Thế Tôn thì giáo pháp của Ngài chỉ thuần một vị “giải thoát.” Ngoài ý nghĩa tối thượng là sự giải thoát, đạo Phật còn là một triết lý thực tiển nhắm giúp cho cuộc sống hiện tại hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Thế nhưng, trong thời mạt pháp nầy, giáo lý cao đẹp ấy không còn được con người dùng để chuyển hóa tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng nữa. Ngược lại, người ta dùng giáo lý ấy như một thứ đồ trang sức cho kiến thức phàm phu trong những buổi nhàn đàm hý luận. Nghĩa là thay vì dùng những hiểu biết chân chính để thấy được giá trị của chúng sanh là có thể thành Phật nếu tự tâm luôn ngời sáng, thì con nguời chỉ dùng những hiểu biết ấy giởn chơi cho vui qua bữa vậy thôi. Người con Phật chơn thuần nên ngày ngày tự vấn lấy lòng mình xem coi mình đang theo đạo Phật nào?

Nói là ngày ngày tự vấn vì không thể lơ là được trong vấn đề tu tập, một ngày trôi qua là mạng ta giảm dần như cá cạn nước, một ngày trôi qua là một ngày ta đi gần đến nhà mồ, nên không thể nào trì hoản được đâu. Người tu Phật phải luôn canh cánh bên lòng rằng: “Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Được thân người, gặp Phật pháp, mà lại cam tâm đem Phật pháp vào chỗ nhàn đàm hý luận thì quả là uổng cho một kiếp người. Một ngày trôi qua mà ta không chịu tu tập là ngày đó ta đi với ma.” Có người nói rằng họ đã xả bỏ tất cả mọi chấp trước, với họ không còn nhị biên thiện ác. Thế nên họ không cần phải làm chi điều thiện hay bỏ chi điều ác. Thật tình mà nói, ngoài chư Phật và chư Tổ ra, chưa ai trong chúng ta có khả năng “không thiện không ác” nầy. Thế mà có người chỉ đến chùa để nhàn đàm hý luận. Họ chuyên nói về Kim Cang, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Bất Nhị… hoặc giả những chuyện trên trời dưới đất, nhưng khi hỏi ra họ đang theo đạo Phật nào thì họ không có lấy được một chữ để trả lời. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giáo gần năm mươi năm và Ngài đã tùy cơ cảm hóa chúng sanh mọi loài. Pháp môn Phật tuy chia ra rất nhiều, nhưng cũng không ngoài “Giới Định Tuệ,” trong đó giới là tối quan trọng, nghĩa là người tu Phật dù theo bất cứ pháp môn nào cũng đều phải giữ giới. Rồi từ đó tùy theo pháp môn mình tu mà hoặc thiền, hoặc niệm Phật hay trì chú. Nghĩa là Đạo Phật được Phật Tổ Thích Ca khai sáng không có chỗ đứng cho nhàn đàm hý luận, đạo nầy lại càng không dung chứa những kẻ không “tri hành hợp nhất.” Trong đạo Phật, hiểu và làm bao giờ cũng phải đi đôi với nhau. Hiểu chỉ để nói mà không chịu làm ấy là nhàn đàm hý luận, hoặc giởn chơi cho qua ngày tháng. Người con Phật chơn thuần, bất luận kẻ ngu người trí, phải biết mình đang theo đạo Phật nào? Ngày xưa Châu Lợi Bàn Đặc, dốt đến nỗi không thuộc lấy một chữ, nhưng ngài vẫn đắc quả A La Hán. Tại sao ngài lại được như vậy? Tại vì Ngài biết Ngài đang theo đạo Phật nào. Ngài không phí thì giờ cho việc nhàn đàm hý luận. Với Ngài, đạo Phật là đạo của che chở, cưu mang và thương xót… Chỉ cần nhìn vào sự hoại diệt của tờ giấy hay tấm vải, cũng đủ cho Ngài thấy được luật “thành trụ hoại không” của vạn hữu. Từ đó nhìn về cái “sanh lão bệnh tử” của con người, Ngài cảm thấy tự thương xót mình và thương xót người, nên chi Ngài đã quyết tâm tu và chứng quả A La Hán chỉ trong một kiếp mà thôi. Đạo Phật và giáo pháp của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni để lại là một triết lý sống an vui hạnh phúc và tu hành giải thoát, không thể nghĩ bàn. Chánh Pháp chính là Phật. Chánh Pháp còn là Phật còn. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Hãy tuân theo Chánh Pháp mà tu, hãy giữ gìn giới luật mà sống thì lúc nào cũng cạnh kề Như Lai. Nếu không theo Chánh Pháp, không giữ giới luật, dầu có Như Lai bên cạnh cũng chẳng giúp được gì.” Đạo Phật của Phật Tổ Thích Ca là đạo Phật của hành trì chứ không phải là đạo để nói. Những ai tu hành chơn chánh, giới đức tròn đầy với cuộc sống cuộc tu phạm hạnh đều là trưởng tử Như Lai. Ngược lại, nói theo đạo Phật mà giới không giữ, lục hòa không trọng, cuộc sống không phạm hạnh, đó chỉ là những kẻ phá đạo hại pháp theo thói của tà ma ngoại đạo. Người con Phật chơn thuần phải luôn biết mình đang theo đạo Phật nào, chứ đừng để cho lũ ma Ba Tuần lôi kéo chúng ta vào những cuộc nhàn đàm hý luận. Phải biết đạo Phật mình đang theo là câu trả lời cho mọi khổ đau hay hạnh phúc của con người, là chìa khóa cho những ai muốn bước vào cửa Đại Giác, là phương tiện đưa chúng ta đến gặp mười phương ba đời chư Phật. Tuy nhiên, đạo nầy không nói suông mà được, hoặc giả không hành trì mà thành. Người tu Phật phải luôn nhớ rằng đạo Phật mà mình đang theo dạy con người quay về tự tâm mà phản quang tự kỷ, để từ đó có cơ hội gột rữa những trần lao phiền não. Nếu thấy mình hãy còn quá nhiều tham dục trong cuộc sống hằng ngày thì hãy cố mà tu bất tịnh quán; nếu thấy mình hãy còn quá nhiều sân hận thì hãy cố mà tu từ bi quán; nếu tự thấy mình hãy còn quá nhiều chướng nghiệp thì hãy cố mà tu theo pháp niệm Phật; nếu tự cảm thấy mình hãy còn nhiều u mê ám muội thì hãy cố mà quán nhơn duyên để thấy cho rõ được bộ mặt thật của vạn pháp. Làm được như vậy thì chẳng những với bản thân mình đã sống đúng theo cuộc sống hướng thượng, mà với tha nhân lúc nào chúng ta cũng mang đến cho người thông điệp tuyệt vời về từ bi hỷ xả của nhà Phật. Pháp môn tu dù có khác nhau về danh xưng, hoặc thiền, hoặc niệm Phật hay trì chú… Tuy nhiên, nếu chúng ta dụng công tu tinh tấn hành hành thì thế nào chúng ta cũng có khả năng “nhất tâm bất loạn” để nhìn lại được bộ mặt thật của chính mình, nghĩa là “minh tâm kiến tánh” và đi đến giải thoát. Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ rằng Phật bàng bạc ở khắp mọi nơi mọi chốn, nơi nào có từ bi hỷ xả trong cuộc sống hằng ngày, là nơi đó có Phật; nơi nào có tình thương là có Phật; nơi nào có chơn lý là có Phật… Dù xuất gia hay tại gia mà phát tâm Bồ Đề, tu hành tinh tấn, thực hành từ bi hỷ xả, lợi tha quên mình… thì con người ấy là Phật vì còn đâu nữa những vướng víu của thường tình thế tục. Ngày xưa Phật Tổ đã cắt ái ly gia không phải vì trốn chạy cảnh đời, cũng không phải vân du cho vui, lại cũng không phải nhàn đàm hý luận cho qua bữa. Mà Ngài muốn tìm ra manh mối của khổ đau phiền não. Chúng ta đang thừa hưởng gia tài Phật để lại, những gì Phật đã tu và đã thành là không thể nghĩ bàn. Ai muốn lăn trôi trong ba nẻo sáu đường thì cứ tiếp tục nhàn đàm hý luận, những người con Phật hậu bối chúng ta cương quyết nối chí Phật Tổ, quyết chỉ theo đạo Phật mà Ngài đã vạch ra năm xưa. Với Bát Thánh Đạo, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, cũng như Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo mà Phật Tổ đã trao truyền năm xưa. Người con Phật chơn thuần phải hiểu rõ vô thường, khổ, không, phải luôn tu tập Tứ Diệu Đế. Chỉ có vậy chúng ta mới mong dẹp được tham ái và vô minh là hai tên giặc dữ dẫn đến khổ đau phiền não. Người con Phật chơn thuần chấp nhận giáo lý nhà Phật và đem áp dụng vào cuộc sống khắp nơi, luôn tin rằng mỗi chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật để không còn dám sát sanh hại vật mà chỉ phóng sanh cứu vật. Con người ấy luôn tin Phật tại tâm nên chẳng bao giờ dám khởi lên những tư tưởng quàng xiêng sái quấy, từ đó mà không còn tà ngôn vạy ngữ hay những hành động tội lỗi. Con người ấy luôn quảng tâm bố thí để tận diệt lòng bỏn xẻn keo kiết; luôn khiêm cung từ tốn để đối trị ngã mạn cống cao… Làm được như vậy, cho dù chưa cắt đứt luân hồi sanh tử, cuộc sống cuộc tu của ta cũng là an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc lắm rồi vậy. Chúng ta sẽ không còn u mê chạy theo lục trần. Một khi chúng ta biết rõ chúng ta đang theo đạo Phật nào thì ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta đã là giải thoát. Chúng ta vẫn sống hòa nhập vào dòng đời mà không còn bám víu vào trần dục, chúng ta vẫn sinh hoạt bình thường với tâm vô nhiễm. Phật tử chơn thuần phải luôn nhớ rằng Đức phật cũng là một con người như bao con người, nhưng với quyết tâm kiên cường và chí nguyện tuyệt vời mà Ngài đã tu thành đạo quả. Nếu chúng ta quyết tâm theo đạo Phật Thích Ca thì chúng ta phải lấy đời sống và những lời dạy dỗ của Ngài làm kim chỉ nam cho cuộc sống cuộc tu của chính mình. Phật Tổ đã khẳng quyết hạnh phúc và giải thoát của con người phải bắt nguồn từ con người, chứ không từ bất cứ phía nào.

Người con Phật hậu bối, muốn chuyển mê khai ngộ, muốn ly khổ đắc lạc phải nắm cho được yếu lý nhà Phật: “đau khổ ở đây mà giác ngộ và giải thoát cũng ở ngay trong mỗi người chúng ta.” Theo đạo Phật Thích Ca thì tu bao lâu cũng được miễn là tu trúng. Trong Hội Lăng Nghiêm, Đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng chỉ có pháp môn “tham thiền” của Quán Thế Âm Bồ Tát là dễ tu dễ chứng cho chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy. Pháp Môn “Phản Văn Tự Tánh,” nghĩa là quán tưởng hay nghe trở lại tánh hay nghe của mình. Tại sao Đức Phật không nhắc đến pháp môn “Niệm Phật” của Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát? Nên nhớ trong đạo Phật Thích Ca, không có ai có đủ khả năng quán tưởng trở lại tánh hay nghe của ai hoặc có thể phá chấp cho ai. Ngay cả Phật Tổ mà còn phải im lìm trước thái độ khinh mạn của Đề Bà Đạt Đa, huống là ta? Trong đạo Phật, phá chấp là tinh thần cao tuyệt nhứt trong tu tập. Tuy nhiên, sự phá chấp phải được triển khai từ trong ra ngoài, chứ không bao giờ có sự pháp chấp nào có thể bắt nguồn từ bên ngoài mà tồn tại được trong đạo Phật. Chỉ có chất đề hồ Phật pháp, khi đã thấm vào tim óc chúng sanh, mới có đủ công năng phá tan cái bản ngã vị kỷ cứng nhắc cũng như sự bám víu vô vọng của chúng sanh. Hiểu như vậy để mỗi người chúng ta phải cố gắng dụng công thầm thầm tu tập, hãy đem phương pháp sống tu mà Phật đã trao truyền năm xưa để ít nhất dù chưa giải thoát, cuộc sống nầy cũng là an lạc, mọi ngu tối si mê cũng được chuyển thành trí tuệ hiểu biết, và những ích kỷ bỏn xẻn cũng phải lui bước để nhường chỗ cho vị tha hỷ xả. Như vậy dù tu theo bất cứ pháp môn nào, hễ dụng công tu hành đến chỗ rốt ráo thì thế nào cũng đến được chỗ “tịnh định,” rồi từ đó mà phát huệ và thấy rõ được đâu là nẻo về địa ngục còn đâu là giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Phật tử chơn thuần nên luôn tin tưởng lời Phật dạy trong Hội Lăng Nghiêm: “Thuần tưởng tức phi, thuần tình tức đọa,” nghĩa là nếu hoàn toàn quán tưởng sẽ lên các cõi trên, trái lại nếu chỉ sống theo dục tình và ái nhiễm sắc trần sẽ bị sa đọa xuống các cõi dưới. Trong Hội Lăng Nghiêm chỉ thuần là những bậc Thánh Tăng mà Đức Phật còn nhắn nhủ như vậy, huống là chúng ta, những kẻ đã gây tội tạo nghiệp trong nhiều đời nhiều kiếp, hôm nay muốn giải thoát khỏi vòng sa đọa, chúng ta phải dụng công bền chí tu hành, dù đến chết cũng không được thối chuyển, chúng ta phải vận dụng hết đại hùng đại lực và đại chí thoát trần mà tu tập mới mong dù chưa rốt ráo giải thoát thì đời sau cũng được tái sanh làm người mà tiếp tục tiến tu giải thoát. Chính vì vậy mà cổ đức có dạy: “Tu hành không Phật thì Tiên, dù chưa đại Thánh cũng thiền siêu nhân…” Cũng chính vì vậy mà trong suốt 49 năm hoằng hóa, Phật Tổ đã tùy duyên mà nói pháp. Thoạt đầu Ngài nói Hoa Nghiêm nhưng người đời không thấu hiểu nổi nên Ngài bèn nói pháp dễ hiểu như những bài thuyết giảng trong Kinh A Hàm, rồi Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn. Về “Thừa” cũng vậy, Ngài đi từ Nhân thừa, đến Thiên thừa, rồi Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Ngoài ra, người theo đạo Phật Thích Ca còn phải quy ngưỡng Tam Bảo, vì Tam Bảo là kim chỉ nam cho cuộc hành trình về đất Phật. Phật là đấng giác ngộ, là vị đạo sư cho trời và người, Tăng là những trưởng tử Như Lai nối truyền Thích Ca Chánh Pháp, Pháp là toàn bộ giáo pháp được Đức Phật trao truyền lại. Làm con Phật phải tuân theo lời dạy của Phật, phải hiểu rõ và thực hành những lời Phật dạy, phải luôn sống theo Chánh Pháp. Một khi đã nhập được bước với Pháp, nghĩa là thâm nhập được bản thể của vạn pháp là thấu triệt chơn lý. Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ lời Phật dạy: “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan.” Thật tình mà nói, ngôn ngữ văn tự của thường tình thế tục không bao giờ có khả năng chuyên chở được giáo pháp tuyệt vời của nhà Phật. Chính vì thế nếu không khéo, dùng văn tự ngôn ngữ, hay chữ nào nghĩa ấy để giải kinh thì e rằng chúng ta sẽ nói oan cho tam thế Phật. Thường thì chư Phật dùng những câu chuyện bình thường để dẫn dắt chúng ta đến những nghĩa bóng hay ẩn dụ đằng sau là những chân lý mà chư Phật muốn đề cập đến. Thật ra Pháp của chư Phật phải được tồn trữ vào những bộ kinh “Vô Tự” mới có thể chuyên chở hết sự thật tuyệt đối mà các Ngài muốn trao lại cho chúng ta. Chánh Pháp là chân lý tuyệt đối mà không một văn tự ngôn ngữ nào có thể chuyên chở hay diễn tả nổi, chân lý ấy vượt ra ngoài vòng tương đối và phân biệt. Xuyên qua lịch sử các vị Thánh đệ tử Phật, chúng ta thấy Ngài Ca Diếp chỉ mỉm cười, Ngài Duy Ma Cật chỉ lặng thinh, Tổ Bồ Đề Đạt Ma quay mặt lại nhìn tường những chín năm ròng rã mà không nói không rằng. Phật pháp là như vậy đó. Tuy nhiên, căn cơ chúng sanh đa phần cạn cợt nên bất đắc dĩ phải dùng văn tự ngôn ngữ mà chuyên chở giáo pháp, người con Phật phải luôn nhớ như vậy để không phải vướng mắc vào văn tự. Khi đọc tụng kinh Phật, chúng ta cần vượt qua nghĩa đen, phải không câu chấp vào danh tự tầm thường để thâm nhập vào ẩn dụ hay nghĩa bóng, rồi từ đó đem ra thực hành, sống tu đúng theo lời Phật dạy “tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.” Làm được như vậy thì không cần nói chi đến việc ra khỏi thế tục gia hay phiền não gia, cuộc sống cuộc tu của người con Phật quả là an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc lắm rồi vậy.

Đạo Phật đã được Phật Tổ Thích Ca khai sáng với thiên hình vạn trạng. Ngài đã tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh mà bày ra đủ thứ phương tiện thiện xảo với nhiều màu sắc đa dạng. Dù dưới hình thức hay phương tiện nào, đạo Phật không bao giờ dung chứa những con ma trơi suốt ngày chỉ biết nhàn đàm hý luận. Chính Phật Tổ đã khẳng định, ai tu theo Phật, dù dốt đặc như Châu Lợi Bàn Đà Già, vẫn có khả năng tu hành giải thoát. Tuy nhiên, những kẻ nhàn đàm hý luận sẽ không bao giờ vượt thoát khỏi những khổ đau phiền não. Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng sở dĩ mình còn lăn trôi đến giờ nầy là vì mình hãy còn vụng tu. Bây giờ muốn vượt thoát khỏi những hệ lụy của khổ đau phiền não, con đường duy nhất là phải tu theo đạo Phật mà Phật Tổ Thích Ca đã khai sáng, nghĩa là phải quay về tự tâm, phản quang tự kỷ, phải luôn nhớ rằng nhân quả tự tâm là chơn lý rạng ngời trong tiến trình thanh lọc thân tâm, phải luôn thấy rằng mọi sự mọi việc xãy ra trên cõi đời nầy, mọi tội lỗi khổ đau hay sung sướng đều phát ra từ ý nghĩ, lời nói và hành động của chính mình. Chính vì thế mà trước khi nhập diệt Đức Thế Tôn đã ân cần dặn dò tứ chúng: “Muốn trả ơn ta, hãy theo đúng lời dạy của ta là phải tự giác, giác tha. Muốn tự giác trước hết phải tự tu, tự học, chớ không phải là thăm hỏi, hầu hạ, hay cúng lạy đâu.” Thật vậy, người con Phật phải tự học tự tu, tự mình quán xét nội tâm, hồi quang phản chiếu và phát huy trí tuệ mới mong có ngày công viên quả mãn. Như chúng ta thấy đó, pháp môn tu Phật thì nhiều, ai muốn tu theo pháp môn nào cứ tu, nhưng luôn nhớ rằng, giáo pháp mênh mông của Đức Từ Phụ chỉ gom gọn về một mối “dứt hết các duyên là thành tựu Bồ Đề.” Về sau nầy các Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Năng cũng đã mở đường giải thoát cho hàng đệ tử bằng cách khai thị cho họ “dứt hết các duyên mà một niệm chẳng sanh.” Người con Phật chơn thuần hãy cố mà buông bỏ, buông bỏ và buông bỏ đến chẳng còn cái gì ràng buộc; hãy cố lấy lý trừ sự mà chẳng bị ràng buộc bởi cả lý lẫn sự thì chắc chắn một ngày không xa nào đó chúng ta sẽ thấy rõ được bản tánh vốn thanh tịnh xưa nay của chúng ta. Từ đó đối với chúng ta, Bồ Đề, sanh tử, Niết Bàn hay Tây Phương Cực Lạc… tất cả chỉ là giả danh, nguyên chẳng ăn thua gì đến tự tánh của chúng ta cả. Từ đó chúng ta sẽ thấy rõ vạn sự vạn vật đều là mộng huyễn, cho đến thân tứ đại nầy cũng là mộng huyễn. Ta và sơn hà đại địa âu cũng chỉ như là bọt nước nổi trong biển cả. Hiểu được như vậy thì chúng ta còn lòng dạ nào mà chạy theo những “sanh trụ dị diệt” của trần thế để khởi tâm vui, buồn, thương ghét, thủ, xả… Từ đó ngay cả thân ta ta cũng buông xả và xem nó như một thứ thây ma, thì làm gì căn, trần, thức, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… còn có khả năng vây quấn được chúng ta? Đó chính là cái mà Phật gọi là “vạn duyên buông bỏ.” Một khi vạn duyên buông bỏ thì vọng tưởng tự nhiên bị tiêu diệt và phân biệt chẳng còn khởi lên chấp trước. Làm được như vậy thì một niệm cũng chẳng sanh và tự tánh quang minh, toàn thể được tỏ bày, tức là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật vậy.” Đó là tánh mà Phật Tổ đã từng khẳng định rằng trong tất cả chúng sanh, ai cũng đều có khả năng nầy. Hễ ai nhận chân được tánh thanh tịnh ấy mà tùy thuận theo các duyên nhưng chẳng nhiễm, ngày cũng như đêm, trong đi đứng nằm ngồi, ấy là hiện tiền thành Phật. Tuy nhiên, người con Phật chơn thuần phải luôn cẩn trọng vì thấy được bản lai chơn diện mục nói dễ khó làm. Nói dễ khó làm đến độ từ sau Hội Linh Sơn với Ngài Đại Ca Diếp đắc được truyền tâm pháp đến nay, có mấy ai có được phong thái của chư Phật và chư Tổ? Phật dạy chúng ta buông bỏ thì chúng ta cố trì giữ nắm bắt, Phật bảo chúng ta tịnh định thì chúng ta loạn đoạn động, Phật bảo chúng ta nghĩ thiện thì chúng ta nghĩ ác, vân vân và vân vân, thì làm sao mà “kiến tánh thành Phật đây!” Dù đời nay chúng ta phước mỏng nghiệp dầy, căn cơ không bằng đời xưa, lại thêm tánh chạy đông chạy tây nhàn đàm hý luận và chấp trước vào ngôn cú danh tự. Nhưng quí vị ơi ai trong chúng ta rồi cũng sẽ một lần làm “cá hóa long,” người con Phật chơn thuần còn chần chờ gì mà không dụng công “hóa long” ngay từ những giây phút hãy còn linh mẫn nầy. Người con Phật chơn thuần quyết không nhàn đàm hý luận, cũng không ngồi lim dim cho qua ngày qua bữa. Chúng ta phải luôn nhớ rằng xưa nay ta và Phật nào có chi sai khác, chỉ vì u mê mà ta cứ mãi lăn trôi trong tam đồ lục đạo. Nay thấu rõ giáo lý nhà Phật và quyết tâm tu trì theo Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào cũng đi đến “kiến tánh thành Phật.” Thấy như vậy để biết rõ rằng dù mình đang tu theo đạo Phật nào, miễn là chánh tông đạo Phật, là trọn đời tu hành không thối chuyển. Tham thiền không thối chuyển như vậy mới gọi là tham thiền, niệm Phật không thối chuyển như vậy mới gọi là niệm Phật, trì chú không thối chuyển như vậy mới gọi là trì chú. Hãy tuần tự “Văn Tư Tu” cho đến khi thấy rõ vọng tưởng không thể tánh, nên chẳng sợ cũng chẳng cần phí sức hàng phục nó, mà chỉ cần làm người quan sát vô tư, vọng tưởng tự đến rồi tự đi chứ ta không mời, không thỉnh, cũng không xua đuổi. Chừng đó thì “chơn vọng đồng một thể,” chúng sanh và Phật chẳng hai, sanh tử Niết Bàn, Bồ Đề hay phiền não đều là bổn tâm bổn tánh, chẳng cần phân biệt, chẳng cần ưa, cũng chẳng cần nhàm chán, chẳng cần thủ, cũng chẳng cần xả. Như vậy tâm thanh tịnh nầy là gì nếu không phải là Phật? Mong cho ai nấy đều phát tâm tu theo Phật Tổ Thích Ca, cùng đi theo Ngài trên con đường “Từ Bi Hỷ Xả,” cùng hướng về thế giới của Ngài, nơi đó chỉ có khoan dung, độ lượng, từ bi, bác ái, vị tha, cùng hành xử với nhau bằng đức tính thanh khiết cao thượng… để một ngày không xa nào đó, chúng ta có thể cùng nắm tay chư Phật đi vào cõi vô ưu, vô sanh và vô diệt.

482. HÌNH TƯỚNG BÊN NGOÀI HAY TÂM ĐỊA BÊN TRONG

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Từ Phụ đã khẳng định với tứ chúng rằng: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe.” Lời Phật dạy thật đơn giản, nhưng rõ ràng và đầy đủ. Người con Phật không còn gì nữa để mà nghi nan hay vấn đáp. Lời dạy ấy đã trả lời thẳng cho câu hỏi: “Hình tướng bên ngoài hay tâm địa bên trong?” Trước khi nhập diệt, Đức Thế Tôn lại một lần nữa nhắn nhủ tứ chúng rằng: “Sở dĩ ta không muốn chỉ định bất cứ ai làm người truyền thừa là vì ta muốn rằng trong bất cứ tình huống nào, người tu theo Phật cũng nên luôn nhớ một điều: y pháp bất y nhân.” Lại một lần nữa Thế Tôn dùng chỉ một cụm từ năm chữ, nhưng chứa cả một triết lý sống tu thực tiển. Suốt dòng thời gian hành đạo bốn mươi chín năm của Đức Phật, Ngài luôn chỉ dạy cho chúng đệ tử những cái rất bình thường trong cuộc sống hằng ngày như đi đứng nằm ngồi, vân vân. Tuy nhiên, Ngài khẳng định oai nghi tế hạnh không có nghĩa là gò bó hay trau chuốc cho dáng vẻ bên ngoài, mà oai nghi tế hạnh phải toát ra từ phạm hạnh bên trong. Những lời vàng ngọc của Thế Tôn mới hôm nào đây hãy còn vang vọng thế mà hôm nay có lắm kẻ vừa mới biết phần nào giáo lý đã tưởng mình siêu đẳng, đi ngược lại với những lời Phật dạy, chỉ ngày ngày trau chuốc cho hình tướng bên ngoài cho oai nghi bệ vệ mà quên hẳn tâm mình đang chất chứa đầy những rác rưởi của thường tình thế tục. Chúng sanh trong cõi Ta Bà mang thân nghiệp khác nhau, nên hình tướng bên ngoài cũng khác nhau. Tuy nhiên, tâm vẫn làm chủ tất cả, tâm tạo tác, tâm gây nghiệp thiện ác. Trong trạng thái giải thoát của tâm, không có chỗ đứng cho hình tướng bên ngoài. Dù bề ngoài có “đầu tròn áo vuông” mà không chịu sống tu theo “tam thường bất túc” (ăn, mặc, ngủ nghỉ không được sung túc) thì những con người ấy vẫn còn tham dục tràn đầy. Ăn là để sống để tu chứ không phải để khoái khẩu; mặc làm sao cho đủ ấm chứ không phải cho đẹp cho sang nên cần chi quần là áo lụa; ngủ nghỉ để có sức khỏe sống tu nên cần chi chăn êm nệm ấm… Kỳ thật có sống được trong “tam thường bất túc” thì nội tâm chúng ta mới thao thức về sự giải thoát của mình và của người. Dù xuất gia hay tại gia, người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ rằng hình tướng bên ngoài không giúp chúng ta giải thoát, chỉ có tâm địa bên trong mới có khả năng đưa chúng ta đi xuống hay đi lên mà thôi. Chính vì thế mà Đức Phật thường dạy trong các kinh điển của Ngài: “Đệ tử Phật, dù xuất gia hay tại gia, phải tu hành tinh tấn, thượng cầu Bồ Đề, hạ hóa chúng sanh, phải buông bỏ danh lợi, phải ngày đêm nhớ luật vô thường, phải nắm lý vô ngã, phải cần tu như lửa đốt đầu, luôn sống thanh tịnh, hòa hợp, phải luôn giúp người hướng thượng, phải tự lợi lợi tha, phải tự giác, giác tha rồi đi đến giác hạnh viên mãn.” Chính Đức Phật đã nhiều lần nhắc nhở tứ chúng rằng đạo nầy được dùng để soi sáng tư duy, để khơi dậy nguồn sáng trong mỗi người, để chỉ đường vạch mở những gì đang che mờ tâm thức, chứ đạo nầy không nhằm mục đích trau chuốc cho con người được tướng hảo quang minh. Tuy nhiên, tướng hảo quang minh tự nhiên đến với những con người đã đi đúng vào đạo, những con người đã vượt thoát khỏi sầu bi khổ não của trần tục. Thấy thế mới biết dù bề ngoài uy nghi bệ vệ mà bên trong chứa đầy tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… những kẻ ấy vẫn là những con ma trơi chứ không là gì cả. Ngược lại, dù bên ngoài mang lốt ăn mày mà bên trong đạo đức tròn đầy với tâm nguyện mang lại an vui lợi ích cho mọi người, con người ấy vẫn là mẫu người tiêu biểu cho sự cao quý thánh thiện mà đạo Phật gọi họ là những vị Bồ Tát. Dù bề ngoài uy nghi bệ vệ mà tâm địa xấu xa ô nhiễm, mục hạ vô nhân, bươi móc lỗi người, ngã mạn cống cao, luôn so sánh phân biệt, luôn mang thành kiến định kiến, luôn đố kỵ ganh ghét, luôn tham lam bỏn xẻn… thì cái uy nghi bệ vệ đó chỉ là phong thái của loài ma trơi không hơn không kém. Người Phật tử chơn thuần phải luôn nhớ rằng: “nước biển chỉ thuần một vị mặn và giáo pháp Như Lai chỉ thuần một vị giải thoát.” Tuy nhiên, giáo pháp nầy chỉ giúp cho con nguời giải thoát nếu con người ấy biết quay vào bên trong để gột rửa, để phản quang tự kỷ hay để tu tâm dưỡng tánh. Giáo pháp nầy chẳng có ích lợi gì cho những kẻ hướng ngoại cầu hình, hay những kẻ chỉ biết ngày ngày trau tria bồi bổ cho cái thân nầy. Cũng như vậy, giáo pháp nầy chẳng giúp ích gì được cho những kẻ học kinh nhằm thỏa mãn óc tò mò, những kẻ lượm lặt được dăm ba mớ kiến thức trong nhà thiền rồi đem ra nhàn đàm hý luận chứ không chịu tu hành. Người Phật tử chơn thuần phải luôn nhớ rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu.” Nếu chiếc áo mà làm nên thầy tu thì tự cổ chí kim đã có hằng hà sa số chư Phật, hoặc giả thế giới nầy không còn mang tên Ta Bà nữa. Nhưng thế giới nầy vẫn mang tên Ta Bà và chúng sanh vẫn không ngừng lăn trôi trong ba nẻo sáu đường. Tại sao lại có trạng huống nầy? Tại vì chúng ta vẫn lấy hình tướng mà nhìn Như Lai, và vẫn lấy âm thanh mà cầu Như Lai. Chúng ta vẫn nhìn Như Lai với 32 tướng hảo, vẫn tưởng đến Như Lai với những tiếng pháp âm trầm bỗng. Chính vì thế mà chúng ta vẫn bị hình tướng và âm thanh lôi kéo để rồi mặt trời trí tuệ vẫn cứ rơi vào đất “có” và tâm trí vẫn mờ mịt vì đám mây mờ vô minh đã che lấp mất cửa “không.” Người con Phật chơn thuần phải thấy rõ điểm tối quan yếu nầy để tự quay lại nội tâm mình mà phản quang tự kỷ. Hãy luôn quán sát tự tâm từng giờ từng phút từ ý nghĩ, lời nói đến hành động. Ba đời chư Phật và chúng sanh không sai khác, ngặt nỗi chúng ta bị tập khí làm mờ ám và ngoại cảnh giao duyên khiến tự tánh đã mờ càng mờ thêm. Chúng ta mang danh Phật tử nhưng ít ai chịu nhìn thẳng vào những lời Phật dạy. Phật và chư Thánh Tăng ngày xưa nào có để ý gì đến hình tướng bên ngoài, nào có thờ cúng lễ bái thần quyền. Hơn nữa chính Đức Phật đã dạy rõ ràng trong các kinh điển của Ngài rằng về phần tâm linh thì chúng sanh và Phật đều bình đẳng như nhau, về cuộc sống thực ngoài đời thì không có giai cấp khi máu của chúng sanh đều đỏ như nhau. Như vậy ai có quyền bắt ai phải thờ cúng hay lễ lạy mình? Chúng ta, hàng Phật tử hậu bối, sở dĩ lễ kính chư Phật là để tỏ lòng biết ơn các Ngài đã vì thương xót chúng sanh mà thị hiện, ban cho chúng ta giáo pháp tuyệt vời, lễ bái là để tự nguyện noi theo gương các Ngài mà tu tập cho thành Phật như các Ngài, chứ đâu phải u mê chạy theo hình tướng bề ngoài, dù là hình tướng của các Ngài đi nữa cũng chỉ là những thứ huyễn giả chứ có gì đâu mà chúng ta chạy theo? Phật tử chơn thuần hôm nay quyết dùng trí dũng của người con Phật để phá tan bóng tối vô minh đã xô đẩy chúng sanh vào chỗ mê tín theo những tập tục quái dị và không cần thiết cho cuộc sống cuộc tu của chính mình. Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ lời Phật dạy về con người giải thoát là người không còn mê lầm bổn ngã chứ không phải là con người với tướng hảo quang minh; là người không còn nghi não chứ không phải là những kẻ chỉ biết u mê chạy theo chỉ vàng chỉ đỏ hay áo vàng áo đỏ; là người không còn ham mộ nghi lễ cúng kiến chứ không phải là kẻ ham mê chuông mỏ ngân nga trầm bổng của thường tình thế tục; là người không tham dục, không tham sắc, cũng không tham vô sắc, chứ không phải là kẻ chỉ một bề gom góp của bá gia bá tánh để trưởng dưỡng cái bản ngã của chính mình; là người không sân hận, không si mê, không tự cao tự đại, lại cũng không xao động trước bất cứ tình huống nào. Con người giải thoát đi thẳng vào trần tục không còn khiếp sợ một ai hơn là sợ thân khẩu ý của chính mình. Đối với các bậc nầy, phước báo vô lậu các Ngài còn không màng, huống là phước báo hữu lậu của cõi nhơn thiên nầy. Phật tử chơn thuần quyết không u mê mù quáng tín ngưỡng đạo như quyền lực thần linh, không dùng hình dong tướng hảo bên ngoài để che đậy tâm địa thấp hèn bên trong. Ngày xưa Đức Phật đã vì đại nguyện tự độ độ tha mà Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, từ bỏ hết thảy mọi hình tướng bên ngoài để tự quay về với bổn tâm bổn tánh mà tu hành, không lý gì hôm nay chúng ta lại đi ngược lại với bổn giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để chỉ một bề trau tria cho hình tướng bên ngoài mà quên mất bổn tâm cần thiết bên trong. Người con Phật quyết không lấy vải the che mắt Thánh, quyết tu sửa tâm địa bên trong cho hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh chứ không chỉ nói xuông, hoặc chỉ có hình tướng bên ngoài. Nên nhớ chiếc áo và cái đầu không làm nên thầy tu. Nếu chiếc áo cái đầu mà làm nên được thầy tu chơn chính thì thế giới nầy đâu còn mang tên Ta Bà nữa như đã nói ở phần trên. Bổn giáo của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy quá rõ về “Hình tướng bên ngoài hay Tâm địa bên trong,” ai tự nhận mình là con Phật chơn thuần, hãy mau quay trở về với tâm địa của chính mình mà sống mà tu, ví bằng ngược lại chỉ một bề ham chuông hình thức bên ngoài thì tốt hơn nên tìm đạo khác mà tu, chứ đừng tiếp tục ù lỳ làm cho mang tiếng và ô uế đạo. Đồng ý đường tu vạn nẻo, ai muốn trở lại làm người thì ăn hiền ở lành và hành trì ngũ giới, ai muốn hưởng các quả lành hoặc làm trời hưởng phước thì tu thập thiện, vân vân, nhưng mục đích tối thượng của người tu Phật là giải thoát rốt ráo. Như vậy người quyết tâm tu theo Phật phải có hùng lực lìa bỏ hạnh phúc tạm bợ mong manh của thế gian để hướng về giải thoát. Con người đó phải luôn canh cánh bên lòng là hình tướng bên ngoài chỉ là con số “không” trong nắng mưa giải thoát. Chỉ có tâm địa bên trong mới là nhân tố quan yếu trong cuộc hành trình về đất Phật. Chỉ có giữ giới thanh tịnh và tu hành các thiện hạnh như bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn và kiên trì thiền định… mới mong thoát khỏi những hệ lụy của khổ đau phiền não. Nếu những hệ lụy của khổ đau phiền não mà có thể được hình tướng bên ngoài che lấp thì Đức Từ Phụ đã không từ bỏ cung vàng điện ngọc để ra đi với chỉ ba bộ y bá nạp, một bình bát bể và một nhánh cây khô làm gậy. Nếu tụng kinh hay thuyết pháp mà có thể đoạn tận được khổ đau phiền não thì Đức Phật đã trở thành một tín đồ của Bà La Môn chứ Ngài không phải nhọc công nhọc sức tìm cầu. Cũng như vậy, nếu ngồi yên như khúc cây cục đá mà thành Phật thì Đức Phật đã là một tín đồ của Du Già (Yoga) chứ không cớ chi phải ngồi tịnh lự 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề. Chính vì thế mà trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật đã dạy tứ chúng lần cuối trong Kinh Di Giáo: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hải đảo để trú ẩn, đừng ỷ lại nhờ người khác tu dùm, ta chỉ là người dẫn đường, các con hãy tự cất bước, con đường tốt nhất là Bát Chánh Đạo trong Tứ Diệu Đế.” Dù bề ngoài có tướng hảo trang nghiêm thế mấy mà không chịu đi theo tám ngành Thánh Đạo của Thế Tôn thì cũng chỉ là giởn chơi cho qua ngày tháng vậy thôi, mà không chừng trạm dừng chân kế tiếp sẽ là A Tỳ hay Vô Gián địa ngục nữa là khác. Ngày xưa A Nan bề ngoài tướng hảo quang minh thế nào, thế nhưng bên trong chẳng chịu tu học mà chỉ ỷ lại vào Phật, mong nhờ Phật độ cho nên suýt nữa là vướng bẫy Ma Đăng Già. Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ rằng giải thoát là giải thoát khỏi mọi hệ lụy của trần thế, thành Phật tức là nhận ra ông Phật nơi chính mình, là trở về với bản tánh thanh tịnh sẳn có của mình, chứ không phải là thành tướng hảo như ông Phật xi măng mà ta vẫn thường thấy.

Người con Phật sơ cơ nên luôn cẩn trọng, đừng để cho hình tướng bên ngoài làm chóa mắt và che mất bầu trời giải thoát quang đãng. Sai một cự ly của trái đất nầy tức là sai đi hàng trăm dậm. Sai một cự ly trên hành trình về đất Phật là trật hướng hoàn toàn. Tu các thiện nghiệp mà quên mất Bồ Đề tâm còn rơi vào ma đạo, huống là tu hình tướng bên ngoài? Chính vì thế mà ai muốn lăn trôi cứ lăn trôi, người con Phật một khi đã quyết tâm tu hành giải thoát phải luôn hướng vào nội tâm mình mà trau sửa sao cho lòng từ bi luôn rộng lớn, vị tha bác ái, phải tu sao cho từ ý nghĩ, lời nói đến viêc làm luôn chơn chánh vì nếu ý không chơn chánh tất suy nghĩ và chứa chấp những điều bất chánh, lời nói không chơn chánh tất ong óng oang oát, thân không chơn chánh tất đi đứng nghênh ngang như con lật đật và không kinh vì những tổn hại cho tha nhân… để rồi cuối cùng phải đi vào tà đạo. Người con Phật chơn thuần hãy chấm dứt ngay việc nấu cát mà mong cho thành cơm. Mong cho ai nấy đều thâm nhập kinh tạng và trí huệ như biển, để một ngày không xa nào đó không còn thế giới nào mang tên “Ta Bà” nữa.

483. TU ĐẾN CHỪNG NÀO?

Hôm nay chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất và để thỏa mãn những nhu cầu vật chất con người phải làm lụng nhiều giờ và vất vả hơn nên thời giờ tu tập không có. Thế nhưng hễ có được giờ nào để tu tập thì mong cho giờ ấy trôi qua nhanh để còn làm những việc khác mà họ cho là cần thiết hơn. Người con Phật chơn thuần hãy bình tâm suy gẫm lại coi, còn giờ nào quan trọng và cần thiết hơn giờ tu tập? Nếu những giờ khác là cần thiết thì một bậc đại giác như Phật Thích Ca đã không từ bỏ ngôi báu, vợ đẹp, con ngoan, danh vị, quyền tước và của cải để đi tu. Ngài đã để lại cho hậu thế một thông điệp: “Không có thì giờ nào quan trọng và quí báu hơn thì giờ dành cho tu tập.” Tuy nhiên, vấn đề ở đây là chúng ta tu đến chừng nào mới thôi? Chúng ta đã lăn trôi tạo nghiệp từ vô thỉ thì chuyện tu tập cũng không phải là một ngày một bữa. Theo Đức Từ Phụ thì trung bình một chúng sanh muốn tu thành Phật phải mất ít nhất là ba a tăng kỳ kiếp. Nhưng trong trùng điệp tử sanh luân hồi, nào ai biết được mình đã tu được bao lâu? Có thể chúng ta chưa tu ngày nào, mà cũng có thể chúng ta đã tu gần đến ba a tăng kỳ. Ly đã gần đầy, chỉ cần một giọt nữa là tràn. Nói gì thì nói, người quyết tâm tu hành đến giải thoát không thể một phút nào dễ duôi hay khinh mạn được. Trong Bách Trượng Dã Hồ có tích rằng thuở xưa thời Đức Phật Ca Diếp có một Tăng sĩ tài ba, làu thông tam tạng kinh điển. Ông thường hay đăng đàn thuyết pháp để giáo hóa tứ chúng đi theo con đường hướng thượng. Một hôm có người đến hỏi ông rằng kẻ tu hành ngộ đạo còn rơi vào vòng nhơn quả hay không? Ông bèn trả lời “không.” Vì một phút sai lầm, trả lời càng bướng mà ông phải mang thân làm chồn đến 500 kiếp. Sau nhờ Bách Trượng Hoài Hải giảng giải rằng: “Không ai có thể ở ngoài vòng nhân quả,” ông mới giác ngộ mà hóa kiếp. Qua thí dụ điển hình trên, chúng ta thấy trong cuộc tiến hóa, chúng ta đã trải qua một cuộc hành trình dài. Nay được làm thân người và biết tu tập, không thể nào cam tâm tiếp tục để cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng dẫn dắt chúng ta làm cây cỏ, trùng dế, trâu bò, hay heo chồn nữa. Dù biết rằng ngày mai thành Phật, hôm nay vẫn luôn tỉnh thức rằng: “Chúng ta luôn chịu trách nhiệm về tư tưởng và hành động của mình trong luật nhơn quả.” Lại nữa, dù muốn hay không muốn, ai trong chúng ta rồi cũng phải tu và tu cho đến khi thành Phật. Trong một kiếp ngụp lặn, tu học chưa thông thì phải tiếp tục đi trong nhiều kiếp nữa, đi cho tới khi nào “phản bổn hoàn nguyên” mới thôi. Mục tiêu tối thượng của những người con Phật là tu hành giải thoát. Một khi đã phát đại nguyện giải thoát là phải cương quyết giải thoát cho bằng được trong kiếp nầy. Những tưởng chúng ta ai cũng phải biết là mình phải tu đến chừng nào rồi. Tuy nhiên, nói dễ khó làm. Chúng ta hay mắc phải căn bệnh trầm kha là chỉ ưa nói chứ không ưa làm. Hoặc giả chỉ hoạch định chứ không thi hành. Chúng ta thích vẽ cho mình một con đường để đi đến đất Phật, trên đó có đầy kỳ hoa dị thảo, vẽ cho thành một bức tranh tuyệt đẹp rồi treo để ngắm chơi cho vui chớ ít khi chịu bình tâm suy nghĩ muốn tới được đất Phật chúng ta phải tu từ những việc mình suy nghĩ, nói, làm…tất cả đều phải mang ý nghĩa, giá trị và lợi ích cho cuộc hành trình về quê cũ.

Thấy đời vô thường nên đi tu chưa đủ, thấy đời là biển khổ nên đi tu cũng chưa đủ, thấy chúng sanh vì nghiệp chướng sâu dầy phải lăn trôi nên đi tu lại cũng chưa đủ. Người con Phật lại càng không vì chán ngán cái nền văn minh vật chất và sa đọa trong hưởng thụ truy hoan mà đi tu, hay vì chán đời mà đi tu… Người con Phật thực tâm muốn tu vì thấy tất cả những thứ vừa kể nên quyết tâm tháo gỡ mọi hệ lụy của khổ đau phiền não. Mục đích duy nhất của người tu là tu cho tới chừng nào mình dứt bỏ được luân hồi sanh tử và đạt được phong thái đi về tự tại để thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh. Tuy nhiên, cuộc tu hôm nay hoàn toàn khác hẳn cuộc tu hôm qua. Người con Phật hôm nay phải đi thẳng vào cuộc đời, phải học phải biết và phải hiểu tất cả những phức tạp của cuộc sống hôm nay với tất cả đại hùng đại lực của một người quyết chí tu theo Phật. Người con Phật phải vô cùng cẩn trọng vì nếu không khéo chúng ta sẽ hành xử tệ hại hơn những con người của thường tình thế tục. Người tu theo Phật không phải không biết hưởng thụ, nhưng con người ấy đã thấy rồi bất cứ sự cảm thọ nào rồi cũng đưa tới khổ đau phiền não, nên tu cho tới chừng nào mình có khả năng khước từ không cảm thọ nữa. Con người ấy đã thấy rồi đắm nhiễm là nguyên nhân chính của luân hồi sanh tử nên quyết chí tu cho tới chừng nào có thể đi thẳng vào trần lao mà không bị trần lao đắm nhiễm. Thật tình mà nói, cái câu “tu tới chừng nào?” thoạt nghe đơn giản vì chỉ có 4 chữ ngắn gọn, nhưng kỳ thật không có bất cứ câu trả lời nào cho được ổn thỏa. Có thể một người hãy còn tại gia như Bàng Long Uẩn mà tâm tánh lúc nào cũng bình bình như như. Cũng có thể một người đã được nếm mùi vị thiền môn từ khi còn để chỏm, thế mà ở cái tuổi ngũ tuần, nghĩa là đã có trên bốn mươi mấy tuổi lạp hạ, tâm tánh vẫn quàng xiêng và lúc nào cũng chực xé rào bẻ lưới. Phàm phu tục tử như bầu trời vầng vũ mây đen nên sấm chớp có thể nổi lên bất cứ lúc nào là chuyện bình thường. Còn những vị đã cắt ái ly gia, đã từ bỏ tất cả, giống như trời quang mây tạnh, thế mà sấm chớp lại nổi lên là chuyện vô lý và không tưởng. Thế nhưng những chuyện như vậy vẫn xãy ra như cơm bữa trong thời buổi hôm nay. Thử hỏi chúng ta phải tu đến chừng nào đây? Hãy bình tâm suy nghĩ cho kỹ hỡi những người con Phật! Một phút sơ sẩy có thể phải làm chồn 500 kiếp chứ không vừa. Chùa to Phật lớn, tụng kinh niệm chú thanh tao, uy nghi bên ngoài, nói pháp lưu loát, vân vân, không trả lời được câu hỏi phải tu đến chừng nào? Con đường duy nhất của những người con Phật hôm nay là phải quay về với ông phật nơi chính mình, thực tâm giải quyết những bế tắc xung đột nội tâm của chính mình và tự mình tìm ra câu trả lời cho câu hỏi tu đến chừng nào. Chùa to không khéo trở thành chùa Bà Đanh, Phật lớn không khéo sẽ trở thành Phật ngủ, tụng kinh niệm chú thanh tao không khéo là phải một đời “dĩ âm thanh cầu Như Lai” trong vô vọng. Nói pháp lưu loát không khéo sẽ trở thành những thầy nói kiếm tiền chuyên nghiệp. Người con Phật chơn thuần phải luôn cẩn trọng! Phải tu cho đến chừng nào những cái “không khéo” ấy không còn lãng vãng được gần mình nữa mới thôi. Tu theo Phật là tự mình khép lại cái cổng đời và mở ra cái cổng đạo. Phải tu cho tới chừng nào mà cổng đời luôn đóng và cổng đạo luôn mở, dù trong bất cứ tình huống nào. Đồng ý người tu Phật phải có phong thái và uy nghi của một người tu, nhưng phong thái và uy nghi ấy không bởi gò bó tự thân mà được. Ngược lại, nó phải được toát ra từ bên trong. Do lòng từ bi hỷ xả mà có được ái ngôn ái ngữ, do ái ngôn ái ngữ mà không văng tục và thô lỗ như thường tình thế tục. Do tỉnh tâm thiền định mà đi đứng nằm ngồi đều đoan chánh trang nghiêm, do đó mà nhứt cử nhứt động gì cũng đúng theo oai nghi tế hạnh của một người có tu. Người tu Phật là phải tu cho tới khi nào không còn gò bó mà vẫn toát ra được những nét như như tự tại không phải là chuyện giản đơn, không phải học mà được. Chúng ta ai cũng biết rằng con người có tánh tốt mà cũng có tật xấu, có vui mà cũng có buồn, có an lạc mà cũng có lo âu, có lúc tinh tấn mà cũng có lúc giải đãi, có lúc thành công mà lắm lúc cũng sa hầm sụp hố… Thế cho nên chúng ta phải tu cho đến chừng nào chỉ còn cái tốt mà không còn cái xấu, chỉ tinh tấn chứ không giải đãi, chỉ an vui hạnh phúc chứ không còn lo âu khổ não, vân vân. Tu đến chừng nào sáu căn không còn bị sáu trần lôi cuốn mình vào chỗ sa hầm sụp hố nữa. Tu đến chừng nào không còn nhận thức sai lầm, không còn chấp trước vị kỷ, không còn chấp ngã, không còn chấp pháp. Tu đến chừng nào chúng ta vẫn sinh hoạt bình thường, nghĩa là mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, mũi vẫn ngửi, da vẫn xúc chạm… mà tâm nầy vẫn như như bất động. Mắt thấy sắc nhưng biết đó chỉ là giả hợp; tai vẫn nghe âm thanh nhưng biết đó là hư huyễn; mũi vẫn ngửi mùi nhưng biết đó chỉ là mộng ảo; lưỡi vẫn nếm nhưng biết đó chỉ là vô thường; thân vẫn xúc chạm nhưng biết đó là bất tịnh; ý vẫn tư duy nhưng biết đó là mê lầm vọng tưởng… Người con Phật cứ thầm thầm tiến tu, tu mãi, nếu kiếp nầy chưa được thì kiếp sau, đừng hoài công với câu hỏi “tu đến chừng nào?” Cũng đừng bận lòng với sự “chứng đắc.” Phật tử chơn thuần phải nhớ rằng tu là trải qua một quá trình tu tâm sửa tánh và thiền định lâu dài, người con Phật mới có khả năng làm chủ được tâm ý qua tư tưởng, lời nói và hành động. Quá trình nầy phải bằng thực nghiệm tự thân, chứ không nói mà được, cũng không học mà có.

Hơn nữa, người tu Phật lúc nào cũng phải coi chừng tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Chúng ở ngay trong ta chứ không ở đâu xa. Ông bác sĩ A mà nhở có ai đó chỉ gọi là ông A là đã phiền đã não rồi. Ông Thượng Tọa B mà bị kêu là Đại Đức B là không vừa ý rồi. Hãy coi chừng những tôn vinh sùng bái hỡi những nguời con Phật! Chúng là những viên gạch lót đường đưa ta vào địa ngục hồi nào không hay. Trong cuộc luân hồi trùng trùng mù mịt nầy, chưa chắc và chưa biết ai đã tu nhiều hơn ai. Vì thế một người dù lớn tuổi không thể nào khinh vì một chú tiểu còn để chỏm được đâu. Biết đâu chú tiểu 8 tuổi nầy đã tu từ ba a tăng kỳ trước, chỉ còn chờ giọt nước nhỏ nữa là tràn ly?

Ngày xưa trong tịnh xá Kỳ Viên Cấp Cô Độc, cư sĩ Cấp Cô Độc đã hỏi Phật: “Một cư sĩ như con phải tu đến chừng nào?” Phật đã ôn tồn đáp lại: “Này Cấp Cô Độc! Phật tánh nơi ông và Phật tánh nơi Phật không sai khác. Tuy nhiên, Phật tánh nơi Phật đã hiển lộ, còn nơi ông muốn Phật tánh hiển lộ, phải trước tiên quy-y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới. Ông phải có lòng nhân chẳng giết hại, ông phải thanh liêm, thọ dụng có chừng mực và không trộm cắp. Ông phải trinh lương, trong sạch và không ô nhiễm. Ông phải dốc lòng gìn giữ chữ tín, tánh tình ôn hòa không dối trá và cuối cùng ông không nên dùng những chất cay độc có thể làm cho ông cuồng tâm loạn tưởng. Ông hãy tu đến chừng đó rồi tính nữa!” Câu trả lời của Đức Từ Phụ đã quá rõ ràng cho những ai tu Phật mà vẫn còn tại gia. Đừng dong ruổi đông tây nữa. Hãy tu đến chừng đó đi rồi tính nữa. Sẽ không bao giờ Phật trả lời cho câu hỏi “tu đến chừng nào đâu?” Hãy tu đến chừng đó đi rồi tính nữa! Tuy nhiên, một khi đã quyết chí tu là phải tu thiệt chứ không lừng khừng, không thể nào vừa thọ giới mà tâm vẫn còn thích nghiệp tà nghiệp ác, chẳng biết kinh vì tội ác báo ứng, chỉ giả danh phụng sự đạo pháp để cầu danh cầu lợi cho riêng mình. Ngược lại, nếu không vâng giữ được chánh giới, chưa học rộng kinh luật, chưa tu được trí huệ và cứu độ chúng sanh thì ít nhất người con Phật chơn thuần phải tu cho đến chừng nào ngũ giới vẹn toàn và thập thiện hoàn mãn để làm thiện duyên cho đời tu kế tiếp. Vì tu được như vậy, cho dù chưa được giải thoát rốt ráo, những nguyên nhân lớn đưa đến khổ đau phiền não hầu như đã đoạn tận. Từ đó người con Phật đã có cơ bản vững chắc để tiến tu định tuệ. Do ngũ giới vẹn toàn và thập thiện hoàn mãn, người con Phật mới có khả năng thoát ly dục vọng đam mê và những tư tưởng bất tịnh. Sau khi thoát ly được dục vọng đam mê và tư tưởng bất tịnh, tâm thức người con Phật sẽ từ từ dừng hẳn mọi sinh hoạt, lúc bấy giờ tâm ta chỉ là tâm “phóng xả.” Lúc đó dù thân tứ đại vẫn còn nhưng vui buồn sướng khổ không còn một mảy may chướng ngại nào cho ta nữa. Thật là an lạc và hạnh phúc biết dường nào!!!

Ba a tăng kỳ quả là một thời gian quá dài so với đời người, nhưng thời gian nào rồi cũng sẽ tới nếu chúng ta chịu bắt đầu. Người con Phật chơn thuần nếu phải hỏi xem coi mình phải tu đến chừng nào thì cũng phải quay lại tự thân tự hỏi xem coi mình đã tu như thế nào rồi, tu đến chừng nào đã cải tà thành chánh, đã tu tập trọn vẹn 37 phẩm trợ đạo, đã thấy sự giả hợp của thân nầy, đã thấy tài sắc danh thực thùy trên cõi đời nầy chỉ như là mật dính trên lưỡi dao mà thôi… Người con Phật nên luôn nhớ rằng làm người đã khó, mà sanh ra vào những vùng có ánh sáng đạo phật và có được cơ duyên nghe pháp hiểu đạo cũng rất khó, nhưng hiểu đạo mà đem lòng kính tin và hành trì lại càng khó hơn; kính tin hành trì đã khó, nhưng kính tinh và hành trì mà còn phát được tâm Bồ Đề lại càng khó hơn nữa; phát tâm Bồ Đề đã khó, nhưng phát tâm Bồ Đề mà tu cho đến minh tâm kiến tánh lại càng khó hơn nữa. Hơn thế nữa, Đức Phật đã từng dạy rằng trên đời nầy không có cái gì dễ dàng trong cuộc hành trình hướng thượng, vì ngăn được lòng dục là khó, không mong cầu là khó, không sân hận là khó, không ỷ quyền cậy thế là khó, đối cảnh vô tâm là khó, không ngã mạn cống cao là khó, không khinh người sơ cơ là khó, không nói lời thị phi là khó, gặp việc mà như như bất động là khó, vị pháp vong thân là khó, học rộng hiểu sâu mà không nhàn đàm hý luận là khó, giàu sang mà chịu tu tập là khó, nghèo mà muốn làm phước bố thí là khó, gặp được thiện tri thức là khó, hiểu được phương tiện để cứu độ chúng sanh là khó, nghe được Phật pháp là khó, sinh ra nhằm thời có Phật là khó, tùy căn cơ mà hóa độ là khó, giữ tâm bình đẳng là khó, thấy chơn tánh mà học đạo là khó… Có người cho rằng học rộng hiểu đạo là đã đi được một phần đường giải thoát, nhưng học rộng hiểu đạo chẳng bằng bền chí tu hành vì chỉ có bền chí tu hành mới trả lời được câu hỏi “tu đến chừng nào?” mà thôi. Nói gì thì nói, xuất gia thoát trần dù sao cũng rút ngắn được thời gian cho câu trả lời “tu đến chừng nào.” Còn tại gia vì chung sống với gia đình và xã hội với đủ mọi cảnh đắm nhiễm vì thế mà khó giữ tịnh giới. Thấy thế mới biết con đường về quê hương Phật của người tại gia hãy còn xa xôi diệu vợi và thấy thế mới biết mình phải tu đến chừng nào. Chính vì thế mà Đức Thế Tôn đã ân cần dạy dỗ những người tại gia trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới: “Phương pháp giữ tịnh giới được tóm tắc trong 3 điều: đối với ngôi Tam Bảo và luật nhơn quả phải có lòng tin không thối chuyển, phải có lòng từ bi quảng đại và bình đẳng, phải có lòng lợi tha một cách bình đẳng và vô tư.” Chẳng luận là hạng người nào, nếu nguyện dụng công hành đạo, thì trước hết phải hết lòng tin nơi nhơn quả; nếu chẳng tin nhơn quả thì chắc chắn sẽ làm càng làm bướng và con đường trước mặt phải là “nẻo về địa ngục” không thể nghĩ bàn. Cổ đức dạy: “Muốn biết nhơn đời trước, hãy nhìn đời hiện tại của ta như thế nào? Muốn rõ quả đời sau thế nào, ta hãy nhìn lại cái nhơn trong đời hiện tai coi ta đang làm những gì?” Trong Kinh Trường Bộ, Đức Phật dạy: “Một khi đã tạo nghiệp thì nghiệp ấy chẳng bao giờ mất, khi nào nhơn duyên đủ đầy thì quả báo phải tự thọ lấy chẳng sai.” Và trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Nhơn địa bất chơn quả chiêu du khúc.” Nghĩa là chỗ tạo nghiệp nhơn không ngay thẳng, thì phải chịu quả báo cong vẹo. Thế cho nên hễ trồng nhơn lành thì gặt quả tốt; tạo nhơn dữ thì gặt quả dữ; trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, đạo lý nhơn quả rõ ràng như vậy đó. Người tu theo Phật đừng bao giờ mê muội về luật nhơn quả mà phải bị đọa lạc làm chồn đến 500 kiếp như một vị Tăng vì ăn nói quàng xiêng. Sau nhờ Ngài Bách Trượng Hoài Hải giải cho tỏ ngộ mới thoát được kiếp chồn. Người con Phật chơn thuần đừng nói đừng rằng mà hãy thầm thầm trì giới rồi sẽ thấy sự hiệu nghiệm của giới luật nhà Phật. Giới là nguồn gốc của đạo Vô Thượng Bồ Đề, nhơn giới mà sanh định tĩnh, nhơn định tĩnh mà phát sanh trí huệ. Dù có tu thiền trong vạn triệu kiếp mà không chịu giữ giới thì chỉ là giởn chơi với địa ngục mà thôi. Chính vì thế mà trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: “Nếu không trì giới mà tu thiền thì trần lao không ra khỏi; dù hiện tiền có nhiều trí huệ, rốt rồi cũng lạc vào tà ma ngoại đạo.” Trì giới là cách tu hành trọng yếu nhất của người con Phật. Người tu Phật trì giới sẽ được Long Thiên hộ pháp và tà ma ngoại đạo luôn kính sợ. Người phá giới, bất luận là tại gia hay xuất gia, chẳng những bị quỷ thần khinh khi mà tự thân những kẻ đó là những tên giặc phá nhà Như Lai. Giới là căn bản để dứt trừ tội lỗi và trì giữ cho tam nghiệp luôn được thanh tịnh. Đời nay có người chẳng chịu tu hành, thân thì trây lười trong giới luật, còn tâm thì lật đật như con vượn chuyền cây, thế mà miệng thì lúc nào cũng oang oác rằng mình là “thiền thầy,” “thiền sư” và đi đâu đến đâu cũng nhài nhại câu nói của Lục Tổ: “Tâm bình nào nhọc phải trì giới, hạnh trực đâu phải dụng tham thiền.” Phật tử chơn thuần hãy bình tâm suy gẫm xem coi tâm nầy đã bình, hạnh đã trực chưa? Xem coi mình đã không còn phân biệt thân sơ bạn thù, hay thắng không kiêu bại không nãn, hay không giận hờn khi có ai đó tự nhiên đến lăng nhục mình. Nếu thấy mình chưa có khả năng “bình chân như vạy” thì thôi hãy mau quay về với chính mình mà tu hành.

Người con Phật chơn thuần không nên rai rức với câu hỏi “tu đến chừng nào” mà nên quay về với chính mình tự hỏi xem coi mình đã “tu hành như thế nào?” Câu trả lời dù gói gọn trong năm chữ “ba a tăng kỳ kiếp” nhưng nó không đơn giản như vậy vì tiến trình quá dài và phức tạp của sự tu tập từ sinh ra làm được một chúng sanh con người, đến tin tưởng Phật Pháp Tăng, đến mở được tứ vô lượng tâm “từ bi hỷ xả” và tu tập được 37 phẩm trợ đạo, lục độ Ba La Mật, lục hòa… không phải là chuyện đơn giản. Với người oán thù mà dùng điều tốt lành để làm lợi ích cho họ không phải là chuyện dễ. Thấy người kinh sợ, hù dọa thêm thì dễ chứ nói lời an ủi khuyên lơn cho họ bớt sợ thì khó vô cùng. Thấy người đến xin, mắng nhiếc họ trây lười biếng nhác thì dễ chứ mở lòng bố thí quảng đại bình đẳng thì khó vô cùng. Đi xuống thì dễ chứ hướng thượng đi lên không phải là chuyện dễ. Nói một đàng làm một nẻo thì dễ, chứ nói sao làm vậy quả là khó. Biết các pháp hữu vi là vô thường biến diệt, nhưng lúc nào cũng cứ tưởng thân nầy là thường hằng bất biến. Biết mọi hành động đều phải trả quả nhưng vẫn cứ làm việc xằng bậy. Biết bố thí là dứt trừ được tâm tham ái và keo kiết bỏn xẻn, nhưng vẫn không chịu bố thí. Biết thọ nhiều là khổ nhiều nhưng vẫn cứ tiếp tục cảm thọ không chút kinh vì. Biết “nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai” nhưng tâm nầy vẫn cứ sân hận ngút trời. Phật dạy thân cận minh sư thiện hữu, nhưng mình cứ mãi gần thầy tà bạn ác… Dù Phật dạy vạn pháp giả hợp, nhưng chúng ta cứ cho là có thật và thường hằng. Đến như danh vọng, địa vị, tiền của, quyền uy… cho đến cái thân của ta cũng là giả chứ không có thật và không thường hằng. Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì mọi vật đều vô thường, theo Phật giáo Đại Thừa, mọi vật đều vô ngã chứ không có chủ thể, nhưng chúng ta cứ u mê chấp có. Chính vì thế mà khi cơn gió vô thường thổi đến, mọi sự đều thay đổi, trước có sau không, trước đẹp sau xấu… là khổ đau phiền não ập đến với chúng ta. Người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ lời Phật dạy: “Mọi sự mọi vật ở thế gian đều vô thường, thành trụ hoại diệt, có sanh là có tử, có hợp là có tan… không ai tránh khỏi định luật tất yếu nầy. Thấy để không buồn khổ, không oán trời trách đất mà gây thêm tội, tạo thêm nghiệp, như thế đã khổ lại khổ thêm. Đã từ bấy lâu nay chúng ta lăn trôi tạo nghiệp, không để ý gì đến chuyện tu hành thì nay không lý gì chúng ta phải gấp đến độ phải đặt cho chúng ta một câu hỏi ngớ ngẩn như vậy. Người con Phật chơn thuần phải luôn chuyển mê khai ngộ, luôn sống thuận theo lẽ đạo và thiên nhiên, luôn biết kinh vì nhơn quả…, không chạy theo vọng tưởng rồi lấy vọng làm chơn, lấy tối làm sáng, lấy khổ làm vui, không chạy lăng xăng bên ngoài mà quay về phản quang tự kỷ lấy mình, nên luôn nhớ rằng cái suy nghĩ phân biệt của lục căn luôn bị lục trần và lục thức chi phối, chúng chỉ là những vọng tưởng không hơn không kém. Người Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ tu và hành là hai người bạn đồng hành. Nói tu mà thiếu hành thì chỉ là chuyện “nấu cát mà muốn thành cơm” mà thôi. Thấy như vậy để luôn vâng giữ lời Phật dạy, luôn tự vấn lấy mình xem coi mình đã tu hành hướng thượng như thế nào. Làm được như vậy thì dù có trải qua bao nhiêu a tăng kỳ tu tập, người con Phật chơn thuần vẫn luôn quyết tâm tu tập cho đến khi thành Phật. Mong cho ai nấy đều phát tâm tinh tấn tu hành để một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo. Mong lắm thay!!!


484. NIỀM TIN NỖ LỰC VÀ SỰ GIẢI THOÁT

Đạo Phật chẳng những là đạo của niềm tin, mà còn là đạo của giác ngộ và giải thoát. Người tu Phật không với đơn thuần một niềm tin về tín ngưỡng. Ngược lại, niềm tin của người tu Phật được xây nền đắp móng vững chắc trên thuyết nhân quả luân hồi. Người tu Phật vững tin rằng mọi sự vui khổ trên đời nầy là kết quả của những hành vi thiện ác của chúng sanh trong quá khứ hoặc hiện tại. Nói cách khác, sự vui sự khổ không ngẫu nhiên mà có, cũng không do ai ban giáng mà được. Như vậy rõ ràng niềm tin trong Phật giáo là niềm tin của lý trí chứ không phải đơn thuần tín ngưỡng. Trong các kinh điển, chính Đức Thích Tôn Từ Phụ đã từng khẳng định về niềm tin của người tu Phật rằng: “Đừng vội tin một điều gì, dù đó là điều của Thánh nhân để lại; đừng tin một điều gì, dù đó là điều của một tu sĩ hay đạo sĩ kể lại, thuật lại về những giáo lý mà các vị ấy đã được nghe thuật lại hoặc tự họ chứng đắc. Đừng vội vã tin vào một điều gì, dù đó là lời của đấng Đại Giác. Các con nên hoài nghi trong tinh thần học hỏi, chớ không nên vội tin một cách mù quáng, mà cũng chớ nên vội bỏ trước khi suy luận. Các con hãy dùng lý trí quán xét mọi việc. Hãy bình tỉnh dùng lý trí của mình nhận định xem coi cái nào thích hợp thì tin dùng, cái nào không thích hợp thì bỏ ra. Các con cũng đừng vội tin những gì đã được nhiều người tán tụng, cũng đừng vội tin ngay cả những gì ta nói. Hãy lắng nghe và suy xét cho kỹ trước khi tin và áp dụng niềm tin ấy vào cuộc sống cuộc tu của mình.”

Người con Phật tin Phật và lấy cuộc sống cuộc tu của Phật làm gương soi cho cuộc sống và cuộc tu của chính mình. Đồng ý kinh điển Phật là vô biên vô lượng và ý nghĩa thậm thâm không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, suốt 49 năm hoằng hóa, Phật chỉ mỉm cười với những kẻ tìm đến Phật với chủ đích nhàn đàm hý luận. Những lời di giáo cuối cùng của Đức Từ Phụ trong Kinh Di Giáo đã khẳng định rõ ràng vị trí của niềm tin trong sự giải thoát: “Người tu Phật tin rằng đời là bể khổ không bờ không bến. Người tu Phật tin rằng muốn giải thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não phải không ngừng tu tập Phật; phải lấy gương hạnh và đạo đức của Phật làm gương hạnh và đạo đức cho chính mình.” Người con Phật luôn tin rằng kiếp làm chúng sanh là một dòng biến chuyển liên tục, đời nối tiếp đời, nhân quả nối đuôi nhau không ngừng nghỉ. Chúng ta chào đời vì những nghiệp nhân của đời quá khứ, rồi từ đó theo dòng thời gian chúng ta lại tiếp tục gây nhân cho nghiệp mới của đời kế tiếp. Cứ như thế mà chúng ta gây nghiệp trả quả, trả quả gây nghiệp không ngừng nghỉ. Người con Phật luôn tin rằng dù đời trước và đời nầy đã gây tội tạo nghiệp, dù phước kém duyên mỏng sanh ra trong thời không có Phật, nếu biết tái tạo nhân lành cho thiện nghiệp tức là giải thoát ngay trong đời nầy kiếp nầy. Ngược lại, dù đời nầy có hưởng quả lành do thiện nghiệp của nhiều đời trước mà không biết tiến tu, chỉ một bề dong ruỗi đó đây nhàn đàm hý luận thì cái quả phải gặt sắp tới chắc hẳn là a tỳ địa ngục. Người Phật tử luôn tin rằng tu tập tiến thối lên xuống đều do chúng ta có chịu dụng công tu hành hay không chứ không do ai ban thưởng hay giáng phạt. Thấy như vậy để chấm dứt ngay sự trau chuốc hình tướng bên ngoài và tu thiệt trong những giây phút còn lại của đời nầy. Thấy như vậy để chấm dứt ngay những cuộc dong ruỗi nhàn đàm hý luận ngay trong những phút giây mà thân tâm hãy còn linh mẫn. Người Phật tử phải luôn tâm niệm rằng dáng vẻ trang nghiêm thanh tịnh bề ngoài không làm nên một con người giải thoát. Con người thật sự giải thoát là con người mà trong chiều sâu tâm hồn không còn chất chứa những rác rưởi của thường tình thế tục. Con người ấy luôn soi rọi lại chính mình, luôn tự điều phục thân tâm mình. Người con Phật muốn tu hành giải thoát xin hãy chấm dứt ngay lối ngụy biện “coi bên ngoài tôi nhàn đàm hý luận và ăn to nói lớn vậy chứ bên trong tôi nhiếp tâm tịnh lặng lắm.” Thật tình mà nói, đó là lối ngụy biện của những con ma Ba Tuần không hơn không kém. Phật đã dạy rõ ràng ngoại trừ những vị Bồ Tát hiện thân để cứu độ chúng sanh nên lắm khi phải hét la cho chúng sanh tỉnh giác, còn thì tất cả đều là điên đảo vọng động. Nếu bên trong đã nhiếp tâm tỉnh lặng thì không cớ gì mà bên ngoài lại hiện ra hình tướng thô tháo điên đảo được. Người con Phật phải luôn nhớ rằng chùa và tịnh xá là những đạo tràng thanh tịnh, chúng ta tới chùa và tịnh xá cũng với mục đích tu hành thanh tịnh. Như vậy không cớ gì chúng ta lại mang điên đảo vọng động vào chùa. Nếu vào chùa mà làm cho mình và người thêm loạn động thì tốt hơn là đừng đến chùa, vì đến mà không giúp ích được gì cho ai thì đến để làm gì? Người Phật tử một khi đã thấy như vậy nên tìm cách tránh xa những kẻ tới chùa vấn sư phá đạo vì nếu không thì chóng chầy gì chúng ta cũng sẽ cùng với họ cá mè một lứa, và con đường kế tiếp phải là a tỳ hay vô gián ngục. Ngay cả những kẻ thế trí biện thông mà suốt ngày chỉ ham học rộng nghe nhiều, chứ không chịu hành trì cho tròn đạo lực thì con đường trước mặt vẫn là khổ đau phiền não. Người con Phật phải tin tưởng mãnh liệt nơi mười phương ba đời chư Phật đều do quay trở vào phản quang tự kỷ nên tâm luôn thanh tịnh, do đó mà tâm hạnh và lời nói luôn ngay thẳng. Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà Đức Phật đã trao truyền, Ngài đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần về tinh tấn. Đức Như Lai không nói để mà nói, hoặc nói để mà chơi. Sở dĩ Ngài nhắc tới nhắc lui hai chữ “tinh tấn” là vì trong các kinh điển của Ngài, tinh tấn là chất keo gắn liền niềm tin và sự giải thoát. Có niềm tin, dù là niềm tin sâu sắc và mãnh liệt thế mấy mà thiếu “tinh tấn hành trì” sẽ không có sự giải thoát. Đức Phật và các đấng Như Lai chỉ là những đạo sư, chỉ đường dẫn lối; đi hay không đi, hành trì hay không hành trì là hoàn toàn tùy thuộc ở chúng ta. Trong các giáo điển của Phật, Ngài luôn khẳng định với tứ chúng rằng: “Các con phải có niềm tin thật lớn là chính các con tự làm trong sạch hay ô nhiễm chứ không ai khác.” Người con Phật cầu tu giải thoát nên luôn nhớ rằng: “trăm nói không bằng một làm.” Lời di huấn cuối cùng của Phật Tổ chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: “Giải thoát là hãy tự mình liên tục tinh tấn tu tập và kiên trì nỗ lực trong mọi tình huống.”

Thật vậy, niềm tin trong đạo Phật thực tiển chứ không mù quáng, niềm tin ấy vừa là chất đề hồ dẫn chúng ta đến trạng thái định tỉnh, để biết ghê tởm kinh vì những uế trược của phàm tình thế tục, biết buông xả những luyến ái, biết nhàm chán khổ đau phiền não. Nói gì thì nói, giáo lý nhà Phật vẫn là nói dễ khó làm. Hơn nữa, bản chất cố hữu của con người là thích đi xuống hơn đi lên. Miệng nói tận diệt “tham sân si,” nhưng hằng ngày chúng ta vẫn chiêu mộ và nuôi dưỡng đạo binh “tham dục, sân hận và si mê” nầy. Muốn chấm dứt trạng huống nầy người con Phật không có con đường nào khác hơn là liên tục hành trì những lời Phật dạy một cách tự nguyện vì trong Phật pháp không có tín điều và cũng không có giáo điều. Người Phật tử phải luôn nhớ rằng muốn giải thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não, không đơn thuần tin mà được, huống là tin một cách mù quáng. Trong cõi Ta Bà ngũ trược ác thế với dẫy đầy khổ nạn, khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm thạnh suy khổ, vân vân và vân vân. Bấy nhiêu nỗi khổ đó cũng đủ làm cho chúng ta u mê ám muội, đụng đâu tin đó, bạ đâu theo đó. Trong thời Phật Tổ chưa thị hiện thì không nói làm gì vì chúng ta không có con đường nào khác để lựa chọn ngoài mê đồ tăm tối. Một tiếng sấm, tiếng sét, một cơn bão cũng làm cho chúng ta sợ hải liên tưởng đến một đấng thần linh với quyền năng tối thượng chứ chúng ta nào biết đâu rằng đó chỉ là những hiện tượng vật lý tất nhiên của sự va chạm của những điện tử hoặc sự thay đổi nhiệt độ một cách đột ngột trên không trung. Sau khi Phật thị hiện, Ngài đã mang đến cho chúng ta sự lựa chọn: hoặc mê đồ tăm tối, hoặc quang lộ thênh thang. Tuy nhiên, đã gần 26 thế kỷ nay, chúng ta có được bao người thong dong tự tại bước trên quang lộ của Phật Tổ? Ngược lại, cuộc sống của chúng ta ngày càng trở nên phức tạp và khổ đau phiền não hơn. Chúng ta đỗ thừa cho cuộc sống, vì cuộc sống mà chúng ta phải đấu tranh, phải lăn lộn theo những tham vọng dục tình, để rồi vẫn ngày ngày ôm tâm làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Phải thành thật mà nói rằng không người Phật tử nào là không tin tưởng nơi Phật một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, trở ngại lớn lao nhứt với chúng ta là chúng ta không chịu tinh tấn hành trì những lời Phật dạy. Thậm chí vì ngã mạn cống cao mà chúng ta đi ngược lại di ngôn của Phật. Nghĩa là thay vì văn, tư, tu thì chúng ta lại, văn, đàm, phiếm, luận… thử hỏi làm sao mà chúng ta không ngày càng sa lầy lún sâu vào vũng bùn tham dục? Thay vì tu theo Bát Thánh Đạo thì chúng ta lại chấp ngã, chấp kiến trong u u minh minh theo Bát Tà Đạo. Thay vì tín, tấn, niệm, định huệ thì chúng ta lúc tin lúc không, lúc tấn lúc thối, lúc niệm Phật mà lắm lúc lại niệm ma… như vậy thử hỏi chừng nào chúng ta mới có được cái định và huệ của chư Phật năm xưa? Nếu có chăng chỉ là cái định và cái huệ của loài ma. Người con Phật cầu học cầu tu giải thoát phải vô cùng cẩn trọng! Tin Phật mà không tinh tấn tu hành như Phật thì giải thoát đâu không thấy chỉ thấy lúc nào loạn động, điên đảo và khổ đau phiền não cũng vây quấn lấy mình. Người tin Phật, chẳng những luôn dùng a bệ bạt trí (bất thối chuyển) để tin, mà còn luôn dùng chất keo “tinh tấn” để gắn liền tự thân mình với kim thân Đức Phật. Tinh tấn là một trong tám con đường Thánh đưa chúng ta vào ngự tòa Như Lai. Trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới, Đức Phật dạy: “Người trí đã có niềm tin và thọ giới rồi, phải nỗ lực không làm những điều ác vì ba lý do, thứ nhất là vì mình mà nỗ lực không làm ác, thứ hai là vì đời mà nỗ lực không làm ác, và thứ ba là vì chúng sanh mà nỗ lực không làm ác.” Người con Phật một khi đã có niềm tin là nếu tu y theo Phật sẽ được giải thoát, phải biết hễ tạo ác nghiệp sẽ mắc quả dữ, tạo thiện nghiệp sẽ được quả báo lành, nghiệp dữ đã làm không có hư dối, quyết định phải chịu lấy quả báo khổ đau phiền não, nghiệp lành đã làm thì không chóng cũng chầy sẽ được quả báo an vui. Người con Phật không tự mình làm ác, không làm gì quấy ác cho người. Ngược lại, luôn tạo tác an vui cho người cũng như khuyến tấn người tạo tác an vui. Con người ấy nếu không giữ được đại giới cũng cố gắng giữ tiểu giới chứ quyết không phá giới. Tuy nhiên, khi thấy người phá giới chẳng những không sanh tâm ghét bỏ mà còn cố gắng nỗ lực lập nhiều phương tiện khéo léo để điều phục, nếu không điều phục được thì khởi tâm thương xót. Người có niềm tin nơi Phật luôn nỗ lực thâu nhiếp giữ gìn các căn, chẳng những không cho chúng buông lung tạo tội mà còn kham nhẫn được mọi cảnh khổ, không bao giờ sống theo lối tà ngụy, không để phiền não làm nhơ nhuốc tâm mình, luôn tu tập nhẫn nhục, nhẫn, nhẫn, nhẫn, nhẫn những điều đáng nhẫn và nhẫn cả những điều không đáng nhẫn, vì theo Phật thì trên đời nầy không có điều gì là không đáng nhẫn cả. Con người ấy luôn nỗ lực kết tụ Bồ Đề quyến thuộc; tuy nhiên, người ấy không ngần ngại tránh xa thầy tà bạn ác và xa lìa tà kiến, biên kiến, ác kiến. Khi bị người mắng nhiếc mạ lị không sanh ác tâm oán ghét, thấy người tạo tác việc lành thì phát tâm vui theo, không tiếc bất cứ thứ gì ngay cả thân mạng khi làm việc thiện lành để mang lại lợi ích cho người; tâm người ấy luôn nỗ lực hành trì vô tham, vô sân và khiêm cung từ tốn.

Dẫu biết trong thời ngũ trược ác thế với những nhiễu nhương, mê chấp và đầy dẫy những tham, sân, si… trong khi kiếp con người lại quá ngắn ngủi, ngắn ngủi hơn ánh điển chớp… quả thật khó cho chúng ta nhiếp tâm tinh tấn tu hành y như Phật. Nhưng quý vị ơi! Chúng ta sẽ không có con đường nào khác để lựa chọn. Nếu không tu bây giờ thì vạn triệu kiếp nữa chúng ta cũng phải tu. Trong cuộc sống hiện tại, nhứt là đối với những người tại gia, ngày ngày phải đương đầu với vô vàn chướng duyên nghịch cảnh nên cuộc sống cuộc tu không phải là chuyện dễ, thấy được Thánh nhơn không dễ, sống được với Thánh nhơn lại là chuyện hi hữu hơn nữa. Tuy nhiên, hãy cố gắng đừng giao du với những kẻ cuồng dại, những kẻ cống cao ngã mạn, những kẻ khinh Tăng chê Đạo, hoặc những kẻ chỉ tới chùa để nhàn đàm hý luận. Người tu tại gia kính tin Tam Bảo nên luôn nhớ rằng một khi hãy còn tại gia là chưa đủ duyên xuất trần thoát tục, nên chi lúc nào có cơ hội tới được chùa là phải làm cho được một chút gì lợi lạc cho mình và cho người, chứ không tới chùa để nhàn đàm hý luận. Chính Đức Phật đã từng dạy: “An vui không thể có trong điên đảo mộng tưởng vì điên đảo mộng tưởng là gốc rễ của khổ đau phiền não.” Người Phật tử cầu tu giải thoát phải hiểu vì sao giờ nầy mình còn ngồi đây nhàn đàm hý luận trong khi Thế Tôn đã Niết Bàn gần 26 thế kỷ nay. Biết đâu trong thời Phật còn tại thế chúng ta đã từng gia nhập vào Tăng đoàn của Phật Tổ, nhưng vì ngã chấp, kiến chấp mà chúng ta cam tâm dong ruỗi đó đây nhàn đàm hý luận, vì si mê ngu muội mà chúng ta tiếp tục làm nô lệ cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Bụi bậm thế gian tự lay động vẫn không ngăn ngại được thể tánh vắng lặng của hư không, và vọng tưởng sanh diệt cũng không làm trở ngại được tự tánh như như bất động của chúng ta. Nghĩa là hễ “nhất tâm bất sanh là vạn pháp không có.” Tự mình chẳng theo vọng tưởng lưu chuyển thì vọng tưởng không thể nào làm trở ngại mình được. Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ như vậy để đừng tiếp tục ngụy biện một cách mù quáng nữa, nghiệp báo ngàn đời dù có dai dẳng nhưng nếu tâm nầy không cam tâm làm nô lệ thì chắc hẳn một tương lai không xa nào đó chúng ta sẽ thong dong nắm tay chư Phật trong cõi vô ưu. Chúng ta đã có Phật Tổ với những giáo lý thậm thâm, những Tăng đoàn thanh tịnh, không lẽ chúng ta cứ mãi mê mờ chiêm ngưỡng dung nhan Phật Tổ mà không có lấy một ý thức giác ngộ giải thoát nào cho chính mình hay sao? Không đâu! Người con Phật chơn thuần cương quyết thực hiện cho bằng được cuộc sống giải thoát y như hạnh nguyện của Phật Tổ năm xưa. Đời xưa chư Phật chư Tổ có khả năng “trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật.” Đời nay nếu chúng ta chưa được cái phong thái đó, thì ít ra cũng không cam tâm một bề đi đếm của báu nhà người, còn mình thì vẫn nghèo nàn rách rưới.

Đã là con Phật, đã tin theo Phật thì ai trong chúng ta lại không thấy sự vô thường, đau khổ và vô ngã của vạn pháp. Chẳng nói đâu xa, ngay trong kiếp nầy từ quá khứ đến hiện tại, từ ấu niên đến thiếu niên, tráng niên rồi lão niên, ai trong chúng ta lại không thấy nguồn gốc của tham, sân, si, sanh, lão, bệnh, tử, ngã mạn, cống cao, nghi, hoặc, tà kiến, ác kiến, sát, đạo, dâm, vọng… đều gây ra bởi cái tâm si mê ám muội của chính mình? Phật Tổ với chúng ta có khác nhau ở chỗ nào? Thế mà Ngài đã đạt thành quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, còn chúng ta vẫn làm chúng sanh. May mà kiếp nầy được làm người, nếu không sớm biết đem tinh tấn hiện thực niềm tin sẳn có thì e rằng một khi mất thân nầy phải mang thân trâu ngựa, bò heo hay trùng dế. Phải chi đạo nầy chỉ dành cho Thế Tôn giải thoát thì không nói làm gì, đàng nầy chính từ kim khẩu Thế Tôn, Ngài đã khẳng định: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Tuy nhiên, với những chúng sanh nghiệp dầy phước mỏng như chúng ta, con đường thành Phật không phải là chuyện dễ. Nếu chỉ nói tin Phật suông mà không tinh tấn tu hành y như Phật thì sẽ không bao giờ về được xứ Phật, huống là ngày ngày chỉ biết dong ruổi đó đây đem tâm cống cao ngã mạn ra nhàn đàm hý luận. Người con Phật tin gì ở Phật? Thật tình mà nói, giáo lý vi diệu của Phật Tổ là không thể nghĩ bàn. Ở đây chúng ta không bàn đến chuyện tin hay không tin, mà chúng ta chỉ nói đến mức độ hiểu biết của chúng ta về những giáo lý giải thoát của Ngài như ngũ căn (tín, tấn, niệm, định, huệ), ngũ lực, thất bồ đề phần (lựa pháp, niệm, tấn, hỷ, khinh an, định, và xả), bát Thánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tin tấn, chánh niệm, chánh định), 12 nhân duyên (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử), và tứ diệu đế… Người con Phật cầu tu giải thoát phải thấy cho được căn cội của khổ đau phiền não, do đâu mà có khổ và con đường nào dẫn đến sự chấm dứt khổ. Chúng ta phải thấy cho được ngay trong những vui sướng, hạnh phúc và yêu thương tạm bợ của trần thế đã nẩy mầm đau khổ, chứ không đợi chi đến buồn ghét, chán nãn hay thất chí. Chúng ta phải tin tưởng mãnh liệt rằng dù ở đâu, dù ăn cơm hẩm, nằm trên đất… nếu chúng ta chịu tinh tấn thực hiện đúng lời Phật dạy thì cũng như chính chúng ta đang sống cạnh Ngài, đang nắm tay Ngài thong dong dạo khắp cõi vô ưu. Trong cuộc sống hằng ngày, dù là tại gia với dẫy đầy vướng mắc, nếu chúng ta chịu quán thân nầy bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã thì ít nhất ngay trong kiếp nầy chúng ta cũng bớt trau tria những cái không cần trau tria, bớt thọ dụng những cái không cần thiết, bớt dong ruỗi đó đây nhàn đàm hý luận và gây tội tạo nghiệp. Sự nghiệp giải thoát mà Đức Từ Phụ đã khai sáng năm xưa không tin suông mà được, không học mà có, cũng không nhàn đàm hý luận mà thành đạt. Sự giải thoát ấy phải được gắn liền giữa lòng tin, sự hiểu biết trong tinh thần tinh tấn liên tục, không mệt mỏi, không thối chuyển. Chúng ta phải ngày ngày công phu, phải dùng kinh nghiệm tự tâm, tự nhập vào thế giới chơn tâm để hàng phục vọng tâm, phải nhiếp tâm bằng tứ niệm xứ, tứ nhiếp pháp, tứ chánh cần, tứ như ý túc, không cho nó phát khởi bất cứ ham muốn mong cầu nào dù chỉ là những mong ham vi tế. Một khi đã dụng công tu tập thì chắc chắn phong thái phải hướng thượng, tâm thể phải định tĩnh, nghĩa là dù sao đi nữa thì vẫn ở trong cái gọi là “tịnh” so với cái gọi là “động” của trần thế. Tuy nhiên, người tu Phật không bao giờ câu chấp vào “động tịnh” mà phí đi thì giờ vốn dĩ đã không có của chúng ta. Vì càng câu chấp thì câu chấp càng tăng trưởng; cũng như vậy, càng vọng tưởng thì vọng tưởng càng nhiều. Người tu Phật phải cẩn trọng vì những vi tế của tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng hay làm chúng ta lầm lộn với đạo lý trong khi tu tập. Trong thời Phật còn tại thế, chính Ngài đã khẳng định về niềm tin và sự giải thoát rằng: “Nầy chư vị tỳ kheo! Như Lai không thể nào giải thoát dùm ai được. Như Lai cũng không thể nào cứu độ những con người thông minh mà chỉ biết nhàn đàm hý luận. Như Lai cũng không thể nào cứu độ những kẻ thế trí biện thông với tâm hãy còn dẫy đầy nghi hoặc và tà kiến.” Đức Từ Phụ đã khẳng định quá rõ ràng rằng đạo giáo của Ngài sẽ không bao giờ giúp giải thoát cho những kẻ cống cao ngã mạn với tâm thành kiến cố chấp.

Phật tử ơi! Trên đời nầy có lắm thứ không thể tránh được, xin đừng tin tưởng quàng xiêng nữa. Chúng ta sẽ không bao giờ có đủ thì giờ và nghị lực để nỗ lực hành trì quàng xiêng đâu quí vị ơi. Đức Phật đã dạy trong kinh điển của Ngài rằng không có cái gì ngẫu nhiên mà đến với chúng ta, tất cả sự cố xãy ra đều có nhân có duyên của nó mà người con Phật chơn thuần phải luôn tin như vậy. Theo Đức Từ Phụ, trong trăm ngàn triệu ức sự cố xãy ra trong đời chúng ta, có bảy điều không thể tránh được (thất bất khả tị).

Thứ nhất là sự “tái sanh” là điều không thể tránh được vì theo luật nhơn quả luân hồi, chúng sanh được sanh ra bởi những nhân đời quá khứ và tiếp tục được sanh ra bởi những nhân đời hiện tại, cứ thế mà chúng sanh phải luôn xoay vầng trong vòng sanh tử luân hồi trong tam đồ lục đạo. Tuy nhiên, nếu con người hiện tại chịu tin và nỗ lực tu hành y như lời Phật dạy bằng cách không sát, đạo, dâm, vọng và không uống những chất cay độc, con người ấy sẽ được tái sanh làm người để tiếp tục tiến tu giải thoát. Nếu chịu tin và hành trì theo thập thiện thì kiếp lai sanh con người ấy sẽ được sanh vào cõi trời. Ngược lại, ví bằng trong đời hiện tại mà suy nghĩ, nói năng và hành xử như súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục hay a tu la thì kiếp lai sinh không bao giờ tránh khỏi phải rơi vào những ác đạo nầy.

Thứ nhì là “già nua” là điều không tránh khỏi. Theo luật sanh trụ dị diệt thì không kể chúng sanh mà ngay cả những thiên hà và vũ trụ đều phải “sanh trụ dị diệt,” nghĩa là khi đã có sanh là phải có già, có thay đổi và hoại diệt. Người con Phật nên luôn tin rằng không phải năm mười năm sau chúng ta mới già, mà từng phút giây ta sống là từng phút giây ta già nua lão hóa. Từng ngày ta sống là từng ngày ta đi gần đến nhà mồ. Tin như vậy để chúng ta vận dụng hết tất cả những thì giờ mà chúng ta đang có để nỗ lực tu hành giải thoát.

Thứ ba là “bệnh hoạn” là điều không thể tránh được. Không ai trong chúng ta có thể tránh được bệnh hoạn. Theo Đức Phật, sanh lão bệnh tử là bốn định luật tất yếu mà không chúng sanh nào có thể tránh được. Hơn thế nữa, ngũ uẩn của chúng sanh chính là cái kho chứa bệnh tật, không phải chỉ có năm mươi ấm ma (mười về sắc ấm, mười về thọ, mười về tưởng, mười về hành, và mười về thức ấm) mà là cả vạn triệu các loài “ma bệnh,” nào là thân bệnh, tâm bệnh, thức bệnh, thọ bệnh, tưởng bệnh, hành bệnh, vân vân. Chỉ cần trở trời trái gió, hay nóng lạnh, hay mưa nắng bất thường là thân nầy đã bệnh. Ngoài ra, còn rất nhiều thứ góp phần tích cực vào việc bệnh hoạn của chúng sanh nữa như thiên tai, hỏa hoạn, vệ sinh cá nhân hay đi đứng nằm ngồi không đúng cách, vân vân. Người con Phật luôn tin rằng chỉ có nỗ lực tu tập những lời Phật dạy mới mong hóa giải được nghiệp chướng sâu dầy và thâm căn cố đế của chính mình, mới mong có ngày được giải thoát khỏi vô minh phiền não cũng như những hệ lụy của trần thế.

Thứ tư là “chết” là điều không thể tránh được. Chết là điểm chuyển tiếp của một kiếp làm chúng sanh mà không một ai có thể tránh được. Tất cả chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy đều phải theo luật “sanh trụ dị diệt” mà sanh, già, bệnh, chết. Người con Phật phải tin theo Phật và nỗ lực tu hành để khi phải đối diện với điểm chuyển tiếp “chết” nầy chúng ta không phải lo âu sợ hãi, mà ngược lại chúng ta có thể thản nhiên và bình tĩnh ra đi. Làm được như vậy là gì nếu không là giải thoát?

Thứ năm là “quả báo tội lỗi ác nghiệp” là điều không thể tránh được. Đây là định luật “nhân quả” không thể nào nghĩ bàn của Phật giáo. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Không cớ gì gieo nhân địa ngục mà lại gặt quả thiên đường. Trên cõi đời nầy, tất cả đều bị bỏ lại sau lưng cái điểm chuyển tiếp “chết” nầy, duy chỉ quả báo thiện ác sẽ là hành trang mà chúng ta phải mang theo cho kiếp lai sanh mà thôi. Theo Phật giáo, việc ác dù nhỏ thế mấy, không chóng thì chầy, quả cũng phải trổ là điều không tránh được.

Thứ sáu là “phước báo” là điều không thể tránh được. Trải qua mười phương pháp giới, muốn đến cảnh Phật, chúng sanh trong pháp giới đã từng trải qua những cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhơn, thiên… Nhân dù ác hay dù thiện đều có quả báo của chính nó. Chính vì vậy mà Đức Phật đã nhấn mạnh và tóm gọn Phật giáo trong một câu ngắn: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Người con Phật nên luôn tin rằng nếu chưa có đủ khả năng “tự tịnh kỳ ý,” để tránh quả báo ác nghiệp thì nên từng phút từng giây nỗ lực không làm những điều ác mà làm những điều lành. Ngay cả Đức Khổng Phu Tử mà còn nhắc nhở nhân sinh về “Tích ác phùng ác, tích thiện phùng thiện” trong xã hội nho giáo. Mà thật vậy, nếu chưa có đủ khả năng tu hành giải thoát thì nên chấp nhận cái điều không thể tránh khỏi thứ sáu nầy, vì chính đây là con đường đưa chúng ta về các cõi trời an lạc. Tuy nhiên, người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ rằng dù là cõi trời, phiền não khổ đau dù ít, nhưng chúng vẫn còn đó, một khi hết phước là lập tức thọ sanh vào một trong những cảnh giới thấp hơn mà trả nghiệp. Chính vì thế mà cổ đức có khuyên “Phước bất hưởng tận,” nghĩa là nhờ thiện nghiệp những đời trước mà đời nầy được hưởng phước báo thì cũng nên nghĩ đến tha nhân để tiếp tục tích tụ nhân lành, chứ không nên hưởng tận. Chính cái “nghĩ đến tha nhân” nầy sẽ giúp ta trưởng dưỡng Bồ Đề tâm của chúng ta mà tiếp tục tiến tu giải thoát vậy.

Thứ bảy là “duyên sanh” là điều không thể tránh được. Theo Đức Phật, không có thứ gì trong mười phương pháp giới có thể tự nhiên hay ngẫu nhiên mà sanh ra và ngẫu nhiên hay tự nhiên hoại diệt. Thân chúng sanh duyên hợp bởi tứ đại, hễ đủ duyên là hợp mà hết duyên là tan. Nhân duyên không bắt đầu cũng không chấm dứt hay dừng lại ở đâu, mà chúng cứ trùng trùng duyên khởi, cứ tiếp tục duyên nhau không ngừng nghỉ. Nhân của cái nầy là quả của cái kia và quả của cái kia là nhân ủa cái nọ, cứ thế mà trùng trùng duyên khởi xãy ra trong pháp giới. Người con Phật phải nên thấy rõ điều nầy để nỗ lực tiến tu giải thoát trong mọi trường hợp, không lo sợ, không thối chuyển. Trên đời nầy có nhiều thứ mà chúng ta không thể tránh được chứ không riêng gì bảy thứ vừa kể trên. Người con Phật chơn thuần cầu sống hạnh phúc và tu giải thoát phải luôn nhớ rằng chúng ta sẽ không có thì giờ đâu để tầm chương trích cú cho việc nhàn đàm hý luận, đừng đem lời nói của cổ nhân làm chỗ hiểu của mình rồi tự cho là không ai hơn mình, từ đó mà ngã mạn cống cao. Có chút đạo tâm phải lo hạ thủ công phu chứ đừng học thói của thầy tà bạn ác dong ruổi đó đây nhàn đàm hý luận và vấn nan đạo pháp thì chẳng những chẳng dứt trừ được vọng tưởng, mà ngày càng chất chứa thêm phiền não và chướng nghiệp, đến lúc lâm chung dù có ăn năn thì đạo tâm đã thối mất, đâu còn kịp nữa. Trên đời nầy có lắm kẻ chỉ biết ngày ngày giởn chơi với địa ngục. Ngồi tịnh được một vài phần nhang bèn sanh tâm ngã mạn cống cao.

Tóm lại, giáo pháp của Phật Tổ Thích Ca có đủ đầy công năng chuyển hóa chúng sanh mọi loài, có khả năng đưa chúng sanh lên làm Phật. Tuy nhiên, muốn được như vậy chúng sanh phải liên tục tinh tấn tu hành y như Phật trong từng sát na hiện tại. Dù thượng căn hay hạ trí, dù giàu hay dù nghèo, dù quí tộc hay cùng đinh… nếu tin tưởng và thọ trì giáo pháp của Phật, sẽ được Ngài khai ngộ để trở thành một chúng sanh hoàn toàn sáng suốt, thấy ánh đạo vàng giải thoát mà tránh xa bờ mê bể khổ. Người Phật tử nên luôn vững tin nơi giáo pháp của Thế Tôn và luôn tâm nguyện hành trì y theo Ngài thì dù duyên kém phước mỏng thế mấy, sẽ có sự giải thoát trong đời nầy kiếp nầy. Hãy cố gắng lên hỡi những người con Phật!!!

485. HÀNH TRÌ TRONG ĐẠO PHẬT

Kinh điển nhà phật từ Đại Bảo Tích, Hoa Nghiêm, Đại Tập, Phương Quảng, Pháp Hoa, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Tạp A Hàm, Thập Tụng Luật, Tứ Phần Luật đến Niết Bàn có trên 500 quyển. Dù cả đời dành hết cho việc ôn tầm bối diệp cũng không đọc hết được những giáo lý thậm thâm vi diệu nầy. Phải thừa nhận giáo điển nhà Phật không thiếu bất cứ thứ gì từ vũ trụ quan đến nhân sinh quan, từ nguyên nhân luận đến hệ quả luận, từ chúng sanh đến Phật… Tuy nhiên, nói gì thì nói giáo lý nhà Phật không bao giờ dành cho học giả, vì cho dù có làu thông thiên kinh vạn quyển mà chẳng chịu hành trì thì còn tệ hơn người bị bại xụi, chẳng đi đến đâu cả. Người bại xụi còn có thể dùng xe lăn để di chuyển đó đây nếu người ấy muốn, chứ học Phật mà không hành trì chẳng những không đi lên mà còn đi xuống nữa là khác.

Thật vậy! Người tu Phật mà tri hành hợp nhất sẽ luôn thấy giáo pháp nhà Phật là lương dược không thể nghĩ bàn. Lấy hạnh đại từ đối trị chấp ngã; lấy vô thường, khổ và vô ngã đối trị sự tríu mến tứ đại; lấy vô úy đối trị sanh, lão, bệnh, tử; lấy Bát Thánh đạo đối trị tà đạo; lấy từ bi hỷ xả đối trị tham sân si; lấy khiêm cung từ tốn đối trị cống cao ngã mạn, vân vân và vân vân. Phật giáo nhìn vào vũ trụ nhân sinh không phải là duy vật, cũng không duy tâm hay duy thần, mà Phật giáo nhìn vào con người bằng duyên hợp duyên tan của ngũ uẩn và tứ đại qua ba trạng thái tâm, sinh và vật lý. Từ nơi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sáu thức. Thức tạo tác vọng động tạo thiện ác nghiệp để lăn trôi trong ba nẻo sáu đường. Thí dụ như mắt thấy sắc tâm liền khởi say đắm, từ đó mà tạo nên hành nghiệp. Cũng như vậy, tai nghe âm thanh du dương, mũi ngửi mùi thơm, lưỡi nếm vị lương hảo, thân xúc chạm vào những cái êm dịu, và ý suy nghĩ, vân vân khiến tâm tạo nghiệp. Chính vì thế mà trong các kinh điển Đức Phật đã dạy tám pháp hành trì căn bản (Bát Thánh Đạo). Sau khi chứng đạo giác ngộ cao cả, Đức Phật đã đến vườn Lộc Uyển, gặp năm người bạn cũ và tại đây Ngài đã chuyển Pháp Luân. Ngài đã lăn bánh xe Pháp và để lại cho đời một giáo lý tuyệt luân. Lời dạy đúng sự thật của Thế Tôn như xe chở tâm trí ngu muội của chúng sanh đến kinh thành sáng tỏ của giác ngộ, giải thoát, tỉnh thức, an lạc, và hạnh phúc. Nhưng chúng ta phải quay bánh xe ấy ở đâu? Đức Phật đã khẳng định với chúng đệ tử của Ngài là mỗi người phải tự quay tự chuyển, nghĩa là mỗi người phải hành trì, hành trì và hành trì cho đến khi nào tâm thức của mình hòa lẫn vào bản thể của vũ trụ. Hành trì trong đạo Phật là hiện đời thu thúc thân tâm không cho chúng tạo nghiệp bằng cách tu tập không cho lục căn chạy theo trần cảnh cho tâm nầy tiếp tục gây tội tạo nghiệp nữa. Hơn nữa, hành trì trong đạo Phật là một tiến trình thanh lọc không ngừng nghỉ của thân khẩu ý. Trong tiến trình nầy, người tu Phật phải có đủ đầy tam quy ngũ giới, phải tín tâm mà tu trì vì nếu không tín tâm thì dù có là Phật tử trên danh nghĩa nhưng thực chất vẫn là những kẻ cầu Thần lạy Thánh những mong có được chút ít phước báo vậy thôi. Còn nếu đến chùa mà không quy-y Tam Bảo thì nào có khác gì những du khách viếng ngoạn cảnh chùa. Người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ rằng muốn tu trì theo Phật mà không thọ giới quy-y, không lấy giới luật làm kim chỉ nam thì khó lòng mà tu đúng hướng trì đúng đường lắm. Nếu không thọ trì ngũ giới thập thiện thì dù cho có tu tập thiền định đến vạn triệu kiếp cũng không tránh khỏi lạc vào ma đạo. Sau khi thanh lọc thân khẩu ý cho được thanh tịnh, người con Phật phải dùng trí tuệ mà quán chiếu vạn pháp để hiểu rõ thực tướng của chúng và phá trừ vô minh, để từ từ đi đến giác ngộ và giải thoát. Nhưng giác ngộ và giải thoát cái gì? Và giải thoát cho ai? Giác ngộ là biết ra và giải thoát là mở ra hay gỡ ra khỏi sự trói buộc, nhưng biết ra cái gì và gỡ ra khỏi sự trói buộc cái gì đây? Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ Đức Phật luôn nhấn mạnh đến những hệ lụy của khổ đau phiền não là lăn trôi trong tam đồ lục đạo, và những nguyên nhân đưa đến khổ đau phiền não là tam độc tham sân si. Như vậy Đức Từ Phụ đã nói quá rõ về giác ngộ cái gì và giải thoát cái gì rồi. Ai muốn giác ngộ và giải thoát theo kiểu nào tùy ý, người con Phật tu trì để biết ra những nguyên nhân đưa đến khổ đau phiền não là tam độc tham sân si và tự gỡ mình ra khỏi sự trói buộc của sự lăn trôi trong tam đồ lục đạo. Hiểu được như vậy và tu trì được như vậy thì còn nói làm gì đến Thiền, Tịnh, Mật, xuất gia, tại gia, Đại thừa, Tiểu thừa, Tiệm giáo, Đốn giáo, vân vân. Đạo Phật nói dễ khó làm vì giáo pháp nhà Phật là thuốc đắng. Thuốc đắng dã tật, nhưng khó uống vô cùng. Cổ đức dạy: “Biết không khó, làm mới là khó.” Nghĩa là học và hiểu những lời Phật dạy không phải là khó, hành trì cho được những lời dạy dỗ ấy mới thật là khó. Tiến trình “Từ người lên Phật” đòi hỏi nơi chúng ta sự hành trì liên tục, không mỏi mệt, không thối chuyển. Nhiều khi chúng ta mang danh Phật tử, đi chùa bấy lâu nay, tất cả kinh điển Tiểu thừa, Đại thừa đều trì đến thuộc làu… mà cách hành xử của chúng ta xét ra còn tệ hơn những người chưa biết đạo. Thấy như vậy để biết rằng kinh điển không giúp gì được cho sự giác ngộ và giải thoát của mình nếu mình không chịu tu trì. Tuy nhiên, tu trì ở đây không phải là ở bề ngoài hình tướng mà là tâm tánh bên trong. Người con Phật tại gia học Phật mà bảo: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,” hay “giữ tâm sao cho không ngằn mé với hư không” quả là thiên nan vạn nan. Nên nhớ chúng ta là loài hữu tình hữu cảm, chứ không phải là những con người máy hễ muốn “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” chỉ cần bấm nút “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là được ngay. Tu trì trong đạo Phật phải là sự dung hòa tuyệt diệu giữa lý trí và tình cảm vì nếu chỉ có lý trí mà thiếu tình cảm thì lắm khi chúng ta tự biến những giáo lý tuyệt vời của Phật thành những món ăn khô khan khó nuốt; ngược lại, nếu có tình cảm mà thiếu lý trí thì chúng ta sẽ trở thành những con người đa tình đa cảm, dễ dàng đi ngược lại những lời dạy của Đức Từ Phụ. Đối với phàm phu tục tử như chúng ta mà bảo hiểu cho được pháp thân ba đời bình đẳng (quá khứ, hiện tại và vị lai) quả là khó khăn vô cùng. Tuy nhiên, dù độn căn thế mấy làm gì chúng ta lại chẳng biết bố thí, trì giới, nhẫn nhục…; làm gì chúng ta không biết cái tai hại của tham sân si và cái lợi của vô tham, vô sân, vô si? Làm gì chúng ta không thấy sự lợi lạc của thiểu dục tri túc; làm gì chúng ta không thấy sức mạnh của sự nhẫn nhục, của khiêm cung từ tốn? Nhưng phàm tánh khó bỏ cho nên chúng ta vẫn chứng nào tật nấy, vẫn ngày ngày cố học cho được một chút hiểu biết về Phật pháp, không phải để hành trì, mà để dong ruổi đó đây nhàn đàm hý luận. Ai dám bảo những người tới chùa lập công bồi đức là hạ trí và ai dám tự xưng hành giả tu thiền là thượng trí, thế mà những con ma Ba Tuần vẫn ngày ngày oang oát ong óng như vậy. Ngay từ thời Phật còn tại thế, Ngài đã từng dạy cho lũ Ba Tuần những bài học để đời, thế mà chưa đầy 26 thế kỷ, chúng đã vội quên. Trên đời nầy ai là người cầu phước bằng Phật? Phải chăng vì hạ trí mà Ngài đi cầu phước? Câu hỏi tự trả lời. Lúc còn tại thế, khi thấy A Na Luật đã mù mà phải vá áo và vất vả khi phải xỏ kim. Phật đã đến nơi xỏ từng mũi kim cho A Na Luật đến khi áo được vá xong. Sau đó A Na Luật bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, con tưởng chỉ có người thế gian mới cầu phước, nào ngờ Thế Tôn là một bậc Chánh đẳng Chánh giác, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Thiên nhơn sư, Phật… mà cũng cầu phước. Xin Thế Tôn mở lòng thương xót giảng giải cho con được tận tường.” Đức Thế Tôn bảo A Na Luật rằng: “Người cầu phước ở thế gian không ai hơn ta. Như Lai đối với vạn pháp không thấy chán và thấy đủ từ bố thí, giáo giới, nhẫn nhục, thuyết pháp, giúp đở chúng sanh, chí đến cầu đạo vô thượng.” Một bậc chí Thánh như Đức Thế Tôn, một bậc đã vượt thoát khỏi bờ mé của tham ái và sanh tử mà vẫn lấy phước làm đầu, há là chúng ta? Đức Thế Tôn đã đoán biết càng về thời xa Phật sẽ có lắm kẻ thế trí biện thông chỉ biết làu thông Phật pháp rồi dong ruỗi đó đây nhàn đàm hý luận về pháp tối thượng thừa, nên Ngài đã tự thân làm gương “lập công bồi đức” cho mọi người thấy. Con đường thắp sáng trí tuệ là con đường thầm thầm tiến tu, kể cả lập công bồi đức như Phật đã từng làm, không có đường tắt, không có ngoại lệ. Lúc Thế Tôn còn tại thế, nhân khi nghe mấy vị tỳ kheo bàn luận về vô thường, khổ, vô ngã, thường, lạc, ngã, tịnh, vô thường không phải thường, vô ngã không phải ngã, khổ không phải lạc, bợn nhơ không phải tịnh… Phật vì thương xót nên chỉ dạy rằng: “Vô thường, khổ, vô ngã, cũng như thường, lạc, ngã, tịnh, phiền não hay niết bàn… chỉ là những danh từ trống rỗng vô nghĩa. Càng bàn luận về những danh từ nầy chẳng những không giúp cho mấy ông giải thoát mà càng làm cho mấy ông loạn động thêm. Hãy quay vào tự hỏi coi mấy ông đã bố thí, trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn tu hành tới đâu. Chỉ cần quay vào thanh tịnh thân miệng ý của chính mình, đó mới đích thực là yếu nghĩa của pháp tối thượng thừa.” Ngay cả các bậc A La Hán mà Phật còn bảo là tập khí chưa hoàn toàn thanh tịnh, nghĩa là những tập khí ấy vẫn còn biểu hiện một cách vi tế và còn cần phải tiếp tục hành trì cho đến khi rốt ráo, huống là chúng ta, những phàm nhân tục tử!

Người tu Phật luôn tỉnh thức về sự biến hóa luân hồi của chư pháp. Vạn pháp đều phải thành trụ dị diệt chứ không thường còn; tuy nhiên, chúng sanh nhứt là con người cứ mãi trầm mê trong biển khổ vì chấp nê tham ái. Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật đã vạch rõ cho chúng ta thấy sở dĩ chúng ta mê lầm điên đảo trong biển khổ trầm luân là vì từ vô thỉ chúng ta đã vọng nhận tứ đại là mình, nhận sáu căn là mình, rồi từ đó mang thân khẩu ý vào đời gây tội tạo nghiệp. Bây giờ muốn tu hành giải thoát phải từng sát na thanh tịnh thân khẩu ý, từng phút giây sống trong chánh niệm, xa lìa tà niệm vọng niệm. Quý vị ơi! Hãy bình tâm suy gẫm để thấy rằng hơi thở nầy thở ra mà không thở vào là đã mạng một, thì thân xác mà bấy lâu nay chúng ta tríu mến đã trở thành một thây ma. Sở dĩ chúng ta gặp trở ngại trong việc hành trì là vì chúng ta không chịu buông bỏ mà còn chấp chặt vào thân xác nầy, xem nó là quý trọng nên mới sanh ra đủ thứ nhơn ngã, thị phi, thương ghét… Hành trì trong đạo Phật có nghĩa là tự chúng ta vén màn vô minh đã bao trùm lấy thân phận nầy từ vô thỉ. Một khi đã vén được bức màn ấy là giác ngộ, từ giác ngộ đến giải thoát chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi. Trong Kinh Chuyển Pháp Luân, đức Phật dạy: “Khổ và Tập có quan hệ làm phát sinh lẫn nhau. Không phải chỉ do Tập mà sinh Khổ, Khổ cũng có khả năng khởi Tập. Hết thảy mọi sự tồn tại trên đời nầy đều do nhân duyên mà khởi lên. Cái nhân duyên ấy lại do cái nhân duyên trước nữa mà sanh ra.” Như vậy hành trì trong đạo Phật là tu tập làm sao cho không còn nhân để giao với duyên mà sanh ra đủ mọi thứ chướng nghiệp. Người con Phật chơn thuần phải hiểu cho rõ rằng từ phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng…) gây nên nghiệp, rồi nghiệp chiêu cảm quả khổ, rồi từ quả khổ lại sanh ra những phiền não khác. Hành trì trong đạo Phật là tu tập để đoạn tận phiền não, nghĩa là chặt đứt một mắc xích trong vòng “phiền não, nghiệp, quả khổ, phiền não” vừa nói trên. Trong Kinh A Hàm, đức Phật dạy: “Vô minh che lấp, ái ràng buộc, đó là tự thể của thức.” Như vậy hành trì trong đạo Phật cũng có nghĩa là xóa trắng vô minh để thấy rõ sự ràng buộc của ái, từ đó thức tự động tan biến. Tuy nhiên, làm sao xóa trắng được vô minh? Trong Kinh Chuyển Pháp Luân, phần Đạo đế, đức Phật dạy: “Nếu không có chánh niệm thì thức phải theo duyên mà bị mê hoặc, hoặc khổ, hoặc lạc… sanh ra ái, rồi từ ái sanh thủ (chấp thủ tự ngã, chấp thủ những kiến giải sai lầm, chấp thủ vào giới cấm sai lầm, chấp thủ vào ngũ dục…), thủ lại sanh hữu (dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu), hữu sanh ra sanh, lão, bệnh, tử… Hành trì trong đạo Phật là diệt trừ mọi căn nguyên của thống khổ để giải thoát luân hồi sanh tử. Chúng ta không thể diệt trừ thống khổ bằng ngoại giới hay tự hành xác. Người con Phật chơn thuần phải nhận rõ rằng chính phiền não là nhân tố chính khiến cho chúng ta gây tội tạo nghiệp, nếu chúng ta đoạn trừ được phiền não thì vô lượng chủng nghiệp cũng phải khô héo mà không phát sinh ra tác dụng nữa. Chính vì vậy mà đức Phật dạy trong các kinh điển rằng hành trì trong đạo Phật là tu tập để diệt trừ mê hoặc não phiền, vì một khi mê hoặc não phiền đã bị diệt rồi thì nghiệp không còn được thành lập nữa, do đó khổ quả sanh tử cũng sẽ khô héo một cách triệt để. Với người con Phật, nhứt là những đứa con tại gia, hành đạo là sống thật với những gì mình có trong cuộc sống hằng ngày; sống thiểu dục tri túc; sống không tham đắm truy cầu; sống không tranh danh đoạt lợi; sống không tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng. Con người ấy vẫn sống và vẫn qua cầu vận mệnh của mình bằng quả nghiệp do chính mình tạo ra; tuy nhiên, quả nghiệp của người biết hành trì đạo Phật nếu có, cũng chỉ là những quả nghiệp thiện lành. Người nào hiểu được chơn thiệt nghĩa của chữ “hành trì trong đạo Phật” thì cho dù đang ở đâu hay trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người ấy vẫn “hành trì Phật pháp.” Ngược lại, nếu không hiểu thật nghĩa của 5 chữ ấy thì cho dù đang ở chùa hay ở bất cứ nơi trang nghiêm thanh tịnh nào, con người ấy vẫn đang đi trên đường Ma đạo. Thế nào là chơn thiệt nghĩa của “Hành trì trong đạo Phật?” Trong các kinh điển Phật, chính Đức Từ Phụ đã khẳng định:

“Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.”

Theo Đức Thế Tôn thì hành trì trong đạo Phật thật đơn giản và vỏn vẹn trong một câu nói. Tuy nhiên, đem câu nói ấy ra biến thành hiện thực không phải là chuyện dễ. Chỉ chuyện “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề phải đem hết đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, cũng như ba mươi bảy phẩm trợ đạo của nhà Phật ra mà hành trì một cách rốt ráo, không mỏi mệt, không thối chuyển mới thực hành được hai điều nầy. Con người phải quan sát thật sâu vào vạn pháp để luôn được “tự tịnh kỳ ý, luôn được an nhàn tự tại trong cảnh vô thường và khổ đau phiền não của cõi Ta Bà ngũ trược ác thế nầy. Làm được những điều nầy, chúng sanh nhứt là con người, dù dang ở trong bất cứ tình huống nào, vẫn là những con người tỉnh thức, chứ không lúc mê lúc tỉnh, lúc tỉnh lúc mê. Thât vậy, người tu Phật phải vô cùng cẩn trọng để không bị vướng mắc vào những trạng huống lẩn quẩn nầy. Lúc mê, nhờ Pháp Phật mà được tỉnh giác; đến khi tỉnh giác rồi, nếu không khéo thì lại vướng vào cái cảnh mê pháp, chấp pháp, rồi lại tiếp tục xà quần trong trong cảnh người say nhàn đàm hý luận. Người con Phật muốn tu hành giải thoát nên luôn nhớ lời Phật dạy: “Trong 49 năm hoằng hóa, ta chưa từng nói một lời.” Nói như như vậy, Phật muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng Phật pháp chỉ là chiếc bè đưa người từ bờ mê sang bến giác. Người nào chịu hành trì là chịu sang bờ, thế thôi. Người biết hành trì trong đạo Phật là người thấy rõ bản mặt thật của khổ, tập, diệt, đạo; biết phăng lần 12 mắc xích của nhơn duyên để phá tan bức màn vô minh. Con người ấy cũng đói ăn khát uống, nhưng không ham ăn hóc uống. Con người ấy vẫn sống một đời sống như mọi người, nhưng không tham đắm truy cầu, không tranh danh đoạt lợi, không ngã mạn cống cao… Con người ấy ở ngay trong cõi dục giới nhưng không tham gia vào các hành động gây tội tạo nghiệp; trong cõi Ta Bà ngũ trược nhưng không nhiễm trược bởi ma ngã, ma kiêu mạn, ma lợi danh, ma ái dục…

Hành trì Phật pháp là thầm thầm làm theo những lời Phật dạy, không khen chê, không yêu ghét, không học thói “năng thuyết bất năng hành.” Phật còn không độ tận được chúng sanh, huống là chúng ta? Thôi thì hãy ráng mà tu lấy thân nầy chứ đừng nên xuẩn động khen chê ai. Tự mình bố thí, trì giới, nhẫn nhục, chay lạt được thì càng tốt cho cuộc tu hành, chứ đừng biếm nhẻ khen chê, kẻ nầy trường chay, kẻ kia một ngọ, kẻ nọ ăn cá ăn thịt. Kẻ nào có thế nào cũng không ảnh hưởng đến mưa nắng giải thoát của chính mình. Một niệm khen chê thị phi nổi lên, ai được ai thua đâu không thấy, chỉ thấy tự tâm mình nhơ nhuốc loạn động hơn thêm. Hãy thầm thầm biến những điều Phật dạy thành hiện thực thì không cần phải nói, không cần phải bàn luận, con người đó đi đâu đến đâu cũng chỉ toát ra đủ đầy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, từ bi hỷ xả, công bình, bác ái, khiêm cung từ tốn… Tu trì trong đạo Phật là áp dụng những lời Phật dạy vào cuộc sống hằng ngày để tu tâm sửa tánh, để tỉnh thức tâm ý. Phật tử chơn thuần đến chùa tụng kinh lễ Phật, học đạo, nghe pháp, làm công quả, trì chú, niệm Phật, ngồi thiền… cốt để hiểu đạo và tự giải thoát mình ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Tu trì không tính được bằng hình thức bên ngoài, cũng không tính được bằng những năm tháng đến chùa hay ở chùa. Phật tử chơn thuần nên luôn tỉnh thức về sự tu trì của chính mình. Mình tu tâm sửa tánh vì tâm tánh mình hãy còn quá phàm phu tục tử; mình tu trì vì nội kết chưa được giải tỏa; mình tu vì mình hãy còn quá nhiều phàm phu tánh, hãy còn phân biệt ghét ưa; nhưng trên hết, mình tu là để có cơ sống thật với chính mình chứ không phải là hình tướng giả tạo bên ngoài. Đạo nầy chỉ được gọi là “thật đạo” khi hàng hậu bối chúng ta chịu tri hành hợp nhứt mà thôi. Ngược lại, nếu chúng ta chỉ một bề đem những điều học được trong sách vở ra để nhàn đàm hý luận cho qua ngày qua tháng, chúng ta chỉ là những con kéc học tiếng người không hơn không kém. Cũng như vậy, Kim Cang, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn… chỉ là những danh từ vô nghĩa, đã không có lợi mà lắm khi còn có hại cho những kẻ chỉ biết làm kéc học tiếng người. Người con Phật chơn thuần phải luôn tỉnh thức về chơn nghĩa của sự “hành trì” trong đạo Phật. Tri hành không hợp nhất trong đạo Phật đồng nghĩa với trầm luân trong địa ngục a tỳ. Với đạo Phật, ác nghiệp ví như mây đen vầng vũ, thiện nghiệp ví như mây trắng, tâm tịnh ý lặng ví như hư không không một vẩn mây dù đen hay dù trắng. Nếu không khéo, thì mây trắng mây đen có thể kéo đến chiếm lấy hư không. Ví bằng gió lên đúng lúc, cả mây trắng lẫn mây đen có thể tan biến trong hư không. Cũng như vậy, nghiệp và nhân quả trong đạo Phật không cố định. Gió có thể thổi tan mây đen mây trắng trong hư không thì sự hành trì trong đạo Phật cũng có thể hóa giải ác nghiệp, mang lại thêm thiện nghiệp, hoặc có thể đạt đến mức tối thượng thừa là không thiện không ác. Như vậy hành trì trong đạo Phật đồng nghĩa với chuyển nghiệp; chuyển tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng thành từ bi hỷ xả, khiêm cung từ tốn, bố thí lợi tha, ái ngôn ái ngữ, chánh kiến chánh tâm… Người chịu hành trì trong đạo Phật là người biết đem công đức của mọi thiện pháp của chính mình ra nhằm xoa dịu nỗi khổ đau trầm thống của tha nhân. Con người ấy luôn đem những gì mình có ra ban phát cho tha nhân, không đong đo, không tính toán. Thật tình mà nói, trong xã hội văn minh vật chất hôm nay làm được những điều nầy không phải là dễ. Tuy nhiên, người con Phật nên luôn nhớ rằng không phải vật chất giam hãm hay khống chế chúng ta, mà chính dục vọng và thành kiến ngay trong lòng ta khống chế và xúi dục ta lăn lộn trong bã vật chất, mùi vinh hoa phú quí. Chính vì thế mà khi còn tại thế, Đức Phật đã luôn nhấn mạnh đến kết quả thù thắng của sự hành trì trong đạo Phật. Hành trì trong đạo Phật đồng nghĩa với bỏ mê lìa vọng, bỏ tà lìa ngụy, bỏ sanh lìa tử, bỏ tham sân si lìa mạn nghi tà kiến, bỏ sát đạo lìa dâm vọng. Hành trì đồng nghĩa với đoạn trừ khổ đau phiền não. Hành trì trong đạo Phật là con đường mà mười phương ba đời chư Phật đều kinh qua để vào nơi không sanh không tử. Mong cho ai nấy đều nhiếp tâm hành trì, xa lìa nhàn đàm hý luận, để một ngày không xa nào đó, pháp giới chúng sanh đều thong dong đi vào cõi nước thanh tịnh nơi thường trú của chư Phật. Mong lắm thay!!!

486. HIỆN ĐỜI GIẢI THOÁT

Đạo Phật với những giáo lý vi diệu có khả năng giúp chúng sanh, nhứt là con người, phá sạch mọi kiến chấp sai lầm, nhờ đó mà lần bước về quang lộ của chánh kiến. Ai trong chúng ta cũng đều biết Phật chúng sanh vốn đồng một thể tánh. Tuy nhiên, nơi các đức Như Lai thể tánh ấy thanh tịnh. Các Ngài đã giác ngộ rốt ráo. Trái lại, nơi chúng ta, thể tánh lu mờ với dẫy đầy cáu bợn trần thế, nên chúng ta cứ mãi trầm luân trong ba nẻo sáu đường. Hãy nhìn Đức Từ Phụ với cuộc sống thật bình dị, sáng đi khất thực, trưa về độ ngọ xong, tự Ngài rửa bát xếp y, rửa chân, rồi trải tọa cụ ngồi kiết già thuyết pháp. Ngài đã khẳng định với tứ chúng rằng cuộc đời tu hành của Ngài chỉ có vậy, chỉ là những việc thật bình thường. Chơn lý trong đạo Phật cũng là những việc bình thường chứ không huyền bí mơ hồ. Với người tu Phật, thấy và làm những việc bình thường là thấy đạo. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Thế Tôn hỏi A Nan rằng: “Trong nhiều kiếp luân hồi sanh tử, ông đã tìm ra cái tâm của ông nằm ở chỗ nào hay không?” Tuy nhiên, sau bảy lần chỉ điểm về tâm, A Nan đều bị Phật phản bác. Tâm là sự thấy biết suy nghĩ, tâm ở trong thân, tâm ở ngoài thân, tâm ở sau con mắt, tâm ở giữa, tâm không dính vào đâu… Chính chỗ quảng học đa văn nhưng kém phần tu tập nầy mà suýt chút nữa là A Nan đã mắc nạn Ma Đăng Già. Thật tình mà nói, ai trong chúng ta lại không từng đem cái biết suy nghĩ của chính mình làm tâm theo sở kiến của chính mình. Nhưng Phật đã khẳng định với tứ chúng trong Kinh Lăng Nghiêm rằng: “Cái biết suy nghĩ mà chúng sanh lầm chấp là tâm của mình thật ra chỉ là cái tưởng tượng những tướng giả dối tiền trần, làm mê lầm chân tánh của chúng sanh.” Từ vô thỉ chúng ta đã u mê lấy động làm tâm, lấy động làm thân, lấy động làm cảnh, từ đầu đến cuối, niệm niệm sinh diệt, niệm niệm dời đổi bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược rồi từ đó nhận vật, nhận cảnh, nhận đủ thứ làm mình, làm sao mà không trôi lăn trong tam đồ lục đạo?

Như vậy “Tâm” là cái gì? Trong Kinh Kim Cang, Đức Thế Tôn đã giảng cho Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát về cái tâm như sau: “Tâm nầy ai cũng có, không người nào không. Ấy là cái tâm bình đẳng, chúng sanh tự hiểu lấy biết lấy. Vì tất cả các việc lành việc dữ đều do tâm mình tạo ra. Tâm thiện thì an vui, tâm ác thì khổ não. Tâm là chủ của thân, thân chỉ là công cụ của tâm. Phật cũng do tâm thành, đạo cũng do tâm học, đức cũng do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm tạo, họa do tâm chiêu. Tâm tạo thiên đường, tâm làm địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh. Tâm chánh thành Phật, tâm tà thành ma. Tâm từ là người của cõi trời, tâm ác là người của La Sát. Tâm là hạt giống cho mọi tội phước. Người giác ngộ luôn làm chủ tâm mình, luôn hành thiện không hành ác, luôn giữ cho tâm ấy thanh tịnh và luôn tu trì y như Phật. Người giác ngộ chẳng sợ vọng tưởng và không có cái gì bắt người ấy phải phân chia “động tịnh.” Vì còn biết “tịnh” tức là có “động,” còn suy nghĩ về “không” là đã trải qua cái “có,” vân vân. Con người ấy luôn lắng nghe lời của chư Phật chư Tổ là bên ngoài dứt hết các duyên và bên trong tâm kiên cố như tường vách. Người nầy rồi sẽ thành Phật. Tâm là cái gì mà có khả năng đưa chúng sanh lên Phật hoặc kéo chúng sanh xuống A Tỳ địa ngục? Tâm chẳng những thay đổi họa phước, mà tâm còn có khả năng biến đổi cái tướng hữu hình của chúng ta trong những giây phút hiện tại. Tâm La Sát thì tướng La Sát sẽ hiện ra ngay. Tâm tạo tướng, tâm diệt tướng. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật chỉ về tâm trong phép tu nhân rằng: “Tâm con người ở trong từng lời nói, trong việc làm, trong suy nghĩ, trong cung cách cư xử với tha nhân, trong thất tình lục dục.” Người Phật tử tại gia hãy lắng lòng nghe lời Phật dạy, hãy chấm dứt thói tánh phàm phu với dẫy đầy những kiến chấp cống cao ngã mạn, hãy chấm dứt dong ruỗi tìm cầu. Phật đã khẳng định quá rõ ràng về cái tâm của con người, nó bàng bạc qua từng lời nói việc làm. Thấy người nghèo khổ túng thiếu bèn thương xót bố thí, tâm là ở chỗ đó. Thấy ai kinh khiếp sợ hãi bèn tỏ lời khuyên lơn an ủi, tâm là ở chỗ đó. Nếu từ ý nghĩ, lời nói, đến hành động và cách cư xử nhứt nhứt đều y nương theo Phật pháp thì cả kiết sử (trói buộc) và lục dục thất tình đều tan biến ngay trong những phút giây hiện tại. Người con Phật chơn thuần nên luôn nhớ rằng, nếu chưa phải là Huệ Năng hay Bồ Đề Đạt Ma, hoặc chưa thành Phật thành Tổ thì đừng bao giờ mang câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ra mà nhàn đàm hý luận một cách vô nghĩa. Các Ngài có thể “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,” chứ chúng ta những chúng sanh loạn động thì biết đến a tăng kỳ nào mới được cái phong thái đó mà đàm với luận. Kiếp nầy được làm người đã là một đại hạnh, nếu không khéo tu thì chưa chắc gì kiếp sau đã làm được con trùng con dế đâu quý vị ơi! Miếng ruộng phước điền của chúng ta bấy lâu nay vô tình hay cố ý chúng ta đã để cho cỏ dại ác nghiệp mặc tình xâm chiếm. Bây giờ biết tu rồi thì phải lắng lòng nghe Phật, phải sửa đổi từ lời nói, hành động đến sự suy nghĩ sao cho trong ngoài đều y như Phật.

Với phàm phu tục tử chúng ta còn phân biệt thượng căn, hạ trí, trung trí, chứ với Phật thì chúng sanh đồng đẳng. Ai thích hợp với pháp môn nào thì tu theo pháp môn nấy. Đừng ai hàm hồ cho rằng chỉ có người thượng căn mới tu thiền, còn người hạ trí phải lập công bồi đức. Có lắm kẻ thế trí biện thông mà chỉ biết ngày ngày dong ruỗi đó đây nhàn đàm hý luận, hoặc chỉ biết nói thiền nói tu, chứ chưa bao giờ thử tu lấy một phút một giây. Kẻ đó đang hành trình về địa ngục, chứ không có con đường nào khác. Ngược lại, có những người một chữ cũng đọc không ra, thế mà ngày ngày vẫn thầm thầm tiến tu pháp môn tối thượng thừa, ngày thấy Phật của kẻ đó sẽ không còn xa nữa. Người con Phật phải cố noi theo gương Phật. Phật cũng thương cha, thương mẹ, thương vợ, thương con, thương xóm giềng bà con làng nước, nhưng Ngài thương bằng trí tuệ chớ không u mê. Ngài đã khẳng quyết rằng Ngài ra đi tầm đạo giải thoát là vì mọi người. Chính vì thế mà Ngài có một thái độ thật dứt khoát. Một người đã đến bờ mé giải thoát như Thái Tử Tất Đạt Đa mà còn phải cương quyết và dứt khoát như vậy, huống là chúng ta? Nếu chúng ta không có thái độ dứt khoát ngay từ bây giờ thì e rằng chúng ta sẽ không còn cơ hội nào nữa để mà dứt khoát. Hãy nhìn hình ảnh của Đức Từ Phụ, một phen cất bước, Ngài nguyện không trở lại nếu không thành đạo. Trong cõi Ta Bà ngũ trược ác thế nầy, an lạc, hạnh phúc và khổ đau phiền não lẫn lộn. Chính vì thế mà lắm khi lăn lộn trong khổ đau não phiền mà chúng ta cứ tỉnh bơ cho rằng ta đang an lạc hạnh phúc. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã khẳng định rằng nếu không thấy được “tâm” sẽ không bao giờ thấy được an lạc. Theo đạo Phật, đau khổ gồm hai phần chính là khổ đau do cảm thọ và khổ đau do lòng tham ái. Tuy nhiên, tất cả đều không chạy ra ngoài cái ý suy nghĩ, cái miệng phát ngôn và cái thân hành hoạt. Từ sanh, già, bệnh, chết đến ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội, ngũ uẩn thạnh suy, vân vân cũng không chạy ra ngoài ba điều vừa kể. Như vậy hiện đời giải thoát của người con Phật là giải thoát cái gì? Tất cả mọi hệ lụy của khổ đau phiền não không ngẫu nhiên mà đến với chúng ta, cũng không do ngoại cảnh, lại cũng không do sắc thanh hương vị xúc pháp… Hãy tự hỏi lòng ta xem coi ý ta nghĩ gì, miệng ta nói gì và thân ta làm gì trước khi đỗ thừa cho hoàn cảnh. Nếu ý không ưa dong ruỗi, miệng không ưa nói điều xằng bậy, tranh cãi, hơn thua; thân không buông lung tự tác thì làm gì có nghiệp quá khứ cũng như nghiệp hiện tại? Do đó không có quả đâu để mà hái. Thật vậy nếu không vì bản tánh ngã mạn cống cao, không mê lầm bản ngã, không chấp nê thì chúng ta sẽ không bao giờ khư khư cho rằng ta đúng người sai, ta hay người dở, ta đẹp người xấu, ta phải người quấy, ta sang người hèn… Một người làm được như vậy và người người đều làm được như vậy thì cả vũ trụ nầy luôn đồng điệu, sẽ không có đấu tranh giành giật, hơn thua và đau khổ sẽ dần dần tan biến. Vẫn biết rằng mang thân làm kiếp con người thì bản tánh xấu tốt lẫn lộn, lúc siêng lúc lười, khi công thành mà cũng lắm phen sa hầm sụp hố. Tuy nhiên, người tu Phật vẫn có khả năng hiện đời giải thoát bằng cách thầm thầm tiến tu, thầm thầm chuyển thức thành trí, từ đó gạn lọc loại bỏ những sai lầm gây ra bởi kiến chấp, ngã chấp và pháp chấp. Mười phương ba đời chư Phật đều phải trải qua tiến trình tự giác, giác tha, rồi mới đi đến giác hạnh viên mãn. Chúng ta há có con đường nào khác sao quý vị? Phật tử đi chùa, lễ Phật, tụng kinh… đều tốt. Tuy nhiên, hiện đời giải thoát vẫn là ước mơ của mọi người. Hiện đời giải thoát là hiện đời thoát ly khỏi những hệ lụy của khổ đau phiền não, nghĩa là phải tự mình tu sửa sao cho những thói hư tật xấu thành những đức tánh tốt, sao cho ác thành thiện, sao cho loạn động thành thanh tịnh. Phật tử tới chùa để tụng kinh là phải hiểu lý kinh sao cho có thể mang ra hành trì trong cuộc sống hằng ngày, chứ không đọc tụng như kéc mà chẳng biết kinh nói gì; tới chùa lễ Thầy học đạo chứ không tới để gặp bạn bè nói chuyện nhảm nhí hay nhàn đàm hý luận. Thậm chí còn có người coi Phật như một thần linh ban phước giáng họa, thế nên họ tới chùa để cầu tài cầu lộc, cầu tình cầu duyên, cầu con cháu đỗ đạt, vân vân. Nếu may mắn được như ý thì tiếp tục đi chùa, bằng ngược lại thì không tới nữa. Thật là phi lý cho chuyện “nấu cát mà muốn thành cơm” nầy! Người con Phật hãy tự biết lấy mình, hãy tự giác lấy mình, hãy can đảm cầm đuốc lên mà vê lấy chân mình trước khi vê chân người. Đồng ý tâm, Phật và chúng sanh không sai khác; tuy nhiên, lúc tâm hãy còn mê muội thì cho dù có nói gì, có bàn gì cũng chỉ là hý luận. Khi Lục Tổ Huệ Năng nói: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi đó là lúc rõ bổn lai diện mục của chính mình.” Ngài có thể nói như vậy vì nơi Ngài gạo đã trắng, nước đã trong thì còn gì nữa mà thiện với ác. Đời nay có lắm kẻ cuồng tâm loạn tánh, nhơn câu nói đó mà lấy hóa thành (chỗ tạm) làm bảo sở (chỗ quí báu) hay nhận ngón tay chỉ trăng làm trăng, rồi ngồi như khúc cây cục đá chứ chẳng biết mình đang ngồi làm cái gì đây. Người tu Phật phải luôn cẩn trọng, dù ở nhà, ở chợ, ở sở hay ở chùa, luôn quay nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý vào bên trong mà tu cho trọn những lời Phật dạy. Tâm tức là Phật, Phật tức là giác. Giác tánh nầy, Phật và chúng sanh đều bình đẳng, không sai khác. Giác tánh ấy hoàn toàn không tịch, không có một vật gì, không theo một pháp nào, không còn tu còn chứng, mà tự nó có đầy đủ vạn đức, tự nó với hằng sa diệu dụng. Thế mà chúng sanh vì si mê nên chìm đắm trong sanh tử, trải qua nhiều kiếp nên để cho tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, ác kiến, biên kiến, hỷ, nộ, ái, ố, vọng tưởng, chấp trước, nhiễm ô ăn sâu vào tâm thức, nên bất đắc dĩ Đức Phật mới nói tu nói chứng, chứ kỳ thật là trở về tìm lại cái “chơn tánh” mà một lần mình đã dại dột xa rời. Như vậy người tu theo Phật nên luôn nhớ tu không phải do học mà được, cũng không do đa văn hay nói suông mà được, vì chỉ có kẻ mê mới nói mình tham thiền nhập định, chứ người trí chỉ một bề thầm thầm tham thiền nhập định mà thôi. Dù thiền hay tịnh độ, ai trong chúng ta cũng phải luôn nhớ, niệm Phật là niệm tâm, hay tâm niệm Phật; tham thiền là tham tánh hay tánh tham thiền. Làm được như vậy thì lúc nào chúng ta cũng cảm thấy an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Mong lắm thay!!!

487. ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

Chúng ta chọn đường tu Phật để sau khi chết được vãng sanh Cực Lạc hay để được giải thoát ngay từ bây giờ? Ai muốn chờ đến chết để về Cực Lạc thì cứ chờ. Riêng những người con Phật chơn thuần phải luôn dồn hết tâm niệm của mình vào cuộc sống hiện tại, phải trở về tự tánh Di Đà nơi chính mình trong những giây phút hiện tại để giải thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não ngay trong đời nầy kiếp nầy. Nhiều người tự an ủi rằng dù đời là vô thường giả tạm, không có thứ gì gọi là bền vững, nhưng thôi cứ xem nó như một vườn hồng tươi đẹp và quăng gánh lo đi mà vui sống. Tư tưởng như vậy thì cũng được; tuy nhiên, hãy suy gẫm lại mà xem có mấy ai trong chúng ta có khả năng quăng được gánh lo âu để vui sống? Một ngày ta sống là một ngày ta có nhu cầu cho cuộc sống, hễ có nhu cầu thì có ý muốn thỏa mãn nhu cầu, và khi cầu bất đắc thì sanh khổ đau phiền não. Cứ thế mà hết ngày dài rồi lại đêm thâu ta cứ mang ngũ uẩn rày đây mai đó, hết lên rồi xuống, hết xuống rồi lên trong luân hồi vô tận, mà quên rằng trong ta cũng có tự tánh Di Đà với đầy đủ Thân Quang, Tâm Quang, Trí Quang và Tánh Quang. Kỳ thật tự tánh Di Đà là vô lượng quang chứ không phải chỉ có “tứ quang” như vừa kể. Tuy nhiên, người con Phật chỉ cần tu sao cho thân sáng, tâm sáng, trí sáng và tánh sáng, thế cũng là đủ lắm rồi!!! Muốn được như vậy thì trong những giây phút hiện tại, người con Phật chơn thuần phải sống phải tu như thế nào cho thân, khẩu, ý đều thanh tịnh. Sống trong xã hội vật chất nơi mà nhứt nhứt đều được tính bằng tiền, trong đó con người cố chấp, cuồng tín, ngã mạn, cống cao, hận thù, ganh ghét, đố kỵ… đi đâu đến đâu chúng ta cũng chỉ chứng kiến một màu tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng… thế mà người con Phật vẫn giữ cho thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm thì thân ấy là gì nếu không phải là “Thân Quang?” Từng bước chân khoan thai, an lạc, chậm rãi, ung dung và đôi môi luôn nở nụ cười hàm tiếu dù trong bất cứ tình huống nào bao nhiêu lo lắng phiền muộn đều buông bỏ thì thân nầy là gì nếu không phải là “Thân Quang”? Nơi thân chỉ cần giữ được ba điều nầy thì hào quang nơi thân lúc nào cũng rực sáng. Trong cuộc sống bận rộn hôm nay, chúng ta luôn bị áp lực thúc đẩy đi về phía trước như những cuộn sóng sau đùa sóng trước, không có cách chi mà chúng ta có thể dửng dưng được trước mọi tình huống. Chúng ta thường phải rảo bước trong vội vã, nhưng ít khi chúng ta tự hỏi coi mình đang đi đâu và sẽ đến đâu, đi để làm gì và đến để làm gì? Người con Phật chơn thuần nếu vẫn phải làm việc để mưu sinh mà biết rõ mình đang làm gì và hậu quả của những việc làm nầy sẽ ra sao, làm việc chơn chánh và lương thiện, làm bằng tất cả sự trong sạch của mình, không gian tham, không bẻ bảy tám làm mười, không cân non đong thiếu để làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác, không lường gạt hay gian lận làm cho người khổ đau phiền não, không ăn nói khoác lác, thêu dệt, không đâm bì thóc thọc bì gạo, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời đâm thọc hay chưởi rủa hung ác. Làm được như vậy thì tâm lúc nào cũng trong sáng không vẩn đục. Cái tâm như vậy nếu không gọi là “Tâm Quang” thì không còn tên nào khác khả dĩ đúng hơn. Cái tâm mà lúc nào cũng hướng về Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát để học lấy cái hạnh biết lắng nghe và trái tim hiểu biết thì đèn tâm ấy chẳng những soi sáng chính mình, mà những người quanh mình cũng được sáng lây. Trong suy tưởng hằng ngày luôn hàm chứa những ý niệm cao đẹp, dù trong bất cứ tình huống nào, dù được hay dù không, dù thắng hay dù bại, dù vinh hay dù nhục, người tu Phật cương quyết không khởi lòng sân hận oán trách. Ngược lại, người tu Phật cương quyết giữ tâm như như bất động trước những thúc bách của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, người con Phật không mù quáng u mê thỏa mãn những đòi hỏi của tứ đại. Ngược lại, người tu Phật luôn thiểu dục tri túc (ít ham muốn mà thường hay biết đủ). Người tu Phật lúc nào cũng hướng về Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi để tập hạnh nhìn sâu vào lòng sự vật một cách vô tư, không phân biệt, không thành kiến. Lúc nào và đi đâu đến đâu người tu Phật cũng tự xét lấy mình, không cầu sướng thân ấm cật mà chạy theo những dục lạc trần thế, không cầu bất cứ quả vị nào trong tương lai, không cầu được nổi tiếng cũng không ham danh lợi. Ngược lại, lúc nào người ấy cũng thầm thầm tiến tu, quyết đem con mắt và trái tim để tu tập theo hạnh Bồ tát của Phật Tổ năm xưa. Dù trái ý nghịch lòng hay thuận duyên thuận cảnh, người con Phật quyết giữ sự bình tĩnh điềm đạm làm gốc, không để cho ngọn lửa dữ đốt cháy công đức ngàn đời tu tập. Việc dù lớn dù nhỏ, trước khi hành xử phải luôn biện biệt và phán đoán rõ ràng, đúng đắn, chứ không câu chấp theo thiển kiến hạn hẹp. Việc thiện dù nhỏ thế mấy cũng quyết làm, việc ác dù nhỏ thế mấy cũng quyết tránh, luôn giữ cho lòng thẳng ngay, vân vân. Làm được như vậy thì chưa nói đến thiền, ý nầy đã tự tịnh, ngay trong đời sống hiện tại dù có “Trí Quang” hay không, thân tâm mình đã là thanh sạch lắm rồi. Làm được như vậy, chẳng những tránh được khổ đau phiền não mà hiện đời Trí Quang sáng ngời. Một khi thân đã sáng, tâm đã sáng và trí đã sáng thì con người ấy luôn thấy thân nầy bất tịnh nên còn tham lam ích kỷ nữa để làm gì? Lúc dó mọi vọng thức phân biệt cố chấp theo thiển kiến sẽ được chuyển hóa thành trí huệ sáng ngời để thấy rõ bản chất vô thường của vạn sự vạn vật và bản chất “vô ngã” của vạn pháp. Lúc đó mọi dục vọng trong ta sẽ vĩnh viễn đoạn tận, không còn một ham muốn nào có thể làm cho chúng ta ray rức được, không một mong cầu nào có thể phát sinh, không một phiền muộn nào có thể áp chế được ta nếu không muốn nói là “vô sở cầu,” không một thiện ác nào còn có thể làm vướng mắc đường về đất Phật của ta nữa. Lúc đó những từ ngữ hay những trạng thái khoái lạc, khổ đau, ham muốn, buồn khổ, lo sợ, vân vân đều là những cụm từ vô nghĩa vô vị, hoặc giả chúng không còn tự do duyên nhau để khống chế ta nữa. Lúc đó dù đời sống nầy là một trường đấu tranh thác loạn với dẫy đầy những tham vọng ác gian, đường giải thoát của ta vẫn thênh thang rộng mở như bầu trời xanh trong, cao vút, không một gợn mây, không một vướng mắc. Lúc đó từng phút ta sống, từng niệm phát ra đều là Chánh niệm. Lúc đó ba nẻo sáu đường ta đi không còn là lao ngục hay oan gia nghiệp báo nữa, mà ngược lại chỉ một bề ngước lên cầu đạo vô thượng, cúi xuống lân mẫn và hóa độ tha nhân. Lúc đó tâm ta đã hoàn toàn thể nhập vào bản thể trong sáng của vũ trụ. Bản thể ấy sáng suốt, thanh tịnh và đầy đủ các đức thường, lạc, ngã, tịnh. Bản thể ấy không phải chết lặng mà là sống động và có đầy đủ công năng, một sự sống động trong vắng lặng, nghĩa là “vắng mà thường soi, soi mà thường vắng” (tịch nhi thường chiếu, chiếu nhi thường tịch.” Đó là con đường giải thoát của Tứ Quang Bồ Tát, trong cõi đi về mà không thấy đi về, trong sanh diệt mà như không sanh diệt, trong giải thoát mà chẳng lìa chúng sanh, nơi công đức mà chẳng trụ vào công đức. Lúc đó, dù không luận bàn giải thoát, giải thoát cũng tự đến, lúc đó đi đâu đến đâu người tu Phật cũng luôn cảm thấy hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của mình, và khổ đau của người lại cũng chính là khổ đau của mình. Lúc đó dù dưới bất cứ hình thức nào, tài thí, pháp thí, vô úy thí… dù tu phước hay tu huệ, đuờng giải thoát của người con Phật đều hanh thông. Lúc đó hạnh nguyện tự lợi, lợi tha, tự giác giác tha đều viên mãn. Lúc đó dù người tu Phật không còn luận bàn đến trí huệ, nhưng từng tư tưởng phóng ra, từng lời nói xuất ra đều xuất phát tự nơi sâu thẳm của trí huệ bát nhã vô quái ngại. Người con Phật chơn thuần phải luôn nhớ rằng chính Phật Tổ đã dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Ngài đã khẳng định rõ ràng ngoài chúng sanh không có Phật, cũng như không có chơn lý ngoài con người. Tuy nhiên, muốn đạt được chân lý, muốn giải thoát, muốn làm Phật chúng ta không có con đường nào khác hơn là tu tập y như Phật để Thân Quang, Tâm Quang, Trí Quang và Tánh Quang đồng rực sáng thì cảnh đời ở đây ngay trong hiện tại là cảnh đời hạnh phúc, an lạc và giải thoát.

Tóm lại, nếu chúng ta biết tu theo Phật và chịu đi theo con đường mà Phật Tổ đã đi và đã đến năm xưa, thì cho dù trong cuộc sống hằng ngày có lo âu, trỉu nặng thế nào, chúng ta vẫn làm được “Tứ Quang Bồ Tát để thấy rằng trái đất mà chúng ta đang trú ngụ nào có khác chi cõi Tây Phương Cực Lạc, những nẻo đường mà chúng ta đang đi qua quả là tuyệt đẹp với những con đê, bờ ao, ruộng lúa xanh tươi… Lúc đó dù cuộc sống nầy có bận rộn thế mấy, chúng ta vẫn tìm được cho mình một khoảng trời cao rộng, thanh thản cho tâm hồn. Lúc đó thân, tâm, trí, tánh sẽ toát ra ngũ phần hương tuyệt vời (giới hương, định hương; huệ hương; giải thoát, giải thoát tri kiến hương). Lúc đó còn ai nữa mong cầu về chi cõi Tây Phương Cực lạc vì cõi Ta Bà nầy đã hoàn hoàn toàn thay tên đổi họ rồi. Cổ đức dạy: “Duy Tâm Tịnh Độ.” Vâng khi người con Phật đã tìm ra “Đường Giải Thoát” chơn thật thì ai nấy cũng sẽ là “Tứ Quang Bồ Tát,” mà nơi cư ngụ của Bồ Tát nếu không là Tây phương Cực Lạc thì cũng là cõi trời Đâu Suất. Mười phương ba đời chư Phật đều phải tu mới dần dần được viên thành Phật quả. Chúng ta là những người con Phật hậu bối, không lẽ các Đức Như Lai đã vì lòng từ bi mà trao truyền lại cho chúng ta tất cả từ phương tiện đến hành trang đi vào đường giải thoát, thế mà chúng ta lại do dự chần chờ. Mong cho ai nấy đều phát tâm tìm đường giải thoát để lần tiến về Đâu Suất, Tây Phương Cực Lạc hay quê hương Phật. Mong lắm thay!!!

488. HÃY TRỞ VỀ VỚI CHÍNH MÌNH

Đức Thích Tôn Từ Phụ đã từng dạy dỗ tứ chúng trong các kinh điển của Ngài: “Khổ đau phiền não hay an vui hạnh phúc là tự nơi chính mình, chứ không phải hướng ngoại cầu hình cầu tướng mà được. Tất cả chúng sanh mọi loài đều do bởi nghiệp lực của chính mình làm sở hữu, làm nhân duyên, làm thân thuộc, cũng như tất cả những gì đang xãy ra quanh mình.” Phật đã dạy quá rõ ràng trong bài pháp ngắn nầy. Do chính mình tạo nghiệp mình phải lăn trôi trong luân hồi sanh tử, thì cũng tự mình phải quay trở về với chính mình chuyển hóa, cải tạo những nghiệp chướng sâu dầy nầy, chứ không ai khác có thể làm được điều nầy, ngay cả Phật. Bên cạnh sự trình bày thật rõ ràng về giáo lý của “khổ tập diệt đạo,” Đức Thế Tôn còn xác nhận rằng bằng nỗ lực riêng của mình, nghĩa là tự trở về với chính mình, con người có thể thực hiện được giải thoát ngay trong đời nầy. Theo đạo Phật, trong con người có một khả năng gần như vô tận, có thể tiếp nhận nhiều kiến thức và có thể điều chỉnh mọi lệch lạc của tâm lý, vật lý, sinh lý và tư duy của tự thân. Đây chính là khả năng giác ngộ mà Đức Phật hằng nhắc nhở tứ chúng. Con người có thể quay trở về với chính mình, tận dụng khả năng nầy qua nỗ lực của tự thân bằng cách tu tập theo Đạo đế mà Đức Phật đã chỉ dạy trong Kinh Chuyển Pháp Luân. Tuy nhiên, con người có những căn trí bất đồng, có người chóng hiểu, có người chậm hiểu, có người nặng nghiệp tham, có người nặng nghiệp sân, có người nặng nghiệp si, có người tâm tạp loạn, và có người tâm tánh đoan chánh, vân vân, nên con người phải được giáo hóa tùy theo căn cơ trình độ. Chính vì thế mà Đức Phật đã đặt ra rất nhiều pháp môn làm phương tiện thiện xảo cho chúng ta có thể quay trở về với chính mình mà tu tâm dưỡng tánh.

Kỳ thật nghiệp là cái gì chúng ta không thể thấy được, nhưng tác động của nó là một sức hút không thể chối cãi được. Chính sức hút nầy đã cuốn trôi chúng sanh trong vòng luân hồi sanh tử triền miên. Người con Phật chơn thuần muốn chấm dứt khổ đau phiền não sẽ không có con đường nào khác hơn là hãy trở về với chính mình để tự chuyển hóa. Chư Phật, chư Bồ Tát và chư Tăng Ni chỉ là những đạo sư dẫn dắt chúng ta trong lúc si mê u muội, khi đã thấy đã biết vì đâu mà có khổ đau phiền não và làm sao diệt khổ để có cuộc sống an lành hạnh phúc, chúng ta phải quay trở về với chính mình mà tự độ. Hãy nhìn lại chính mình với đoạn đời đã qua, có thể tóc ta hãy còn đen, có thể tóc ta đang điểm sương, hay có thể tuyết đã phủ đầy trên mái tóc ta… Ai trong chúng ta rồi sẽ phải kinh qua những móc thời gian không tránh được nầy. Dù đi quanh đi quẩn như thế nào trong tam đồ lục đạo, ai trong chúng ta rồi cũng sẽ phải một lần quay trở về với chính mình để tự chuyển hóa những nợ nần năm cũ. Thế sao mãi đến giờ nầy chúng ta hãy còn lang thang trong vô định? Đã gần hết cuộc đời vẫn chưa biết mình sẽ đi về đâu mà vẫn chưa chịu tìm trở về với chính mình. Hỡi những người con Phật chơn thuần! Hãy quay về với chính mình để tìm lại sự sống thực, để từng sát na ta tỉnh thức cả tư tưởng lẫn hành vi, để luôn cảm nhận cái thấy biết chơn thật mà tự thuở giờ mình vẫn có. Hạnh phúc của một con người chịu quay trở về với chính mình là cả một vũ trụ bao la không một vẩn mây, là sống hài hòa với thiên nhiên và mọi người, là tình yêu thương không phân biệt thân sơ bạn thù, là sự linh mẫn tuyệt vời để thích ứng với mọi hoàn cảnh… Chính niềm an lạc và hạnh phúc của người biết quay về với chính mình sẽ đưa người ấy tới tuyệt đỉnh của nhân đạo và thiên đạo để chuẩn bị cho một cuộc hành trình trở về với chân thiện mỹ mà mình đã một lần dại dột xa rời. Người con Phật chơn thuần hãy cố quay trở về với chính để thấy phiền não tham sân si là cội rễ của bất thiện, từ ái nhiễm, mong cầu, phẫn hận, não, tật đố, hoài nghi, bất tín, hôn trầm… Chúng chính là những nhân tố xấu khiến chúng ta luôn bị não loạn, bất an, không hài hòa, không tự tại… và cuối cùng đi đến gây tội tạo nghiệp.

Người chịu quay trở về sống với chính mình sẽ tinh tấn học hỏi giáo lý tuyệt vời của Phật; tuy nhiên, người ấy không mắc chứng trầm kha của những kẻ túy sanh mộng tử, chỉ một bề oang oang với lý thuyết. Ngược lại, con người ấy luôn phản quang tự kỷ để luôn chuyển những lỗi lầm của mình. Thế nên con người ấy luôn tự cải thiện, luôn thấy lỗi mình chứ không thấy lỗi người, luôn hành trì những giáo lý của Đức Từ Phụ để có một cuộc sống đáng sống, sống mà không hổ thẹn với chính mình và những người quanh mình. Người con Phật chơn thuần! Đức Từ Phụ đã chỉ dạy quá rõ ràng những gì cần thấu triệt, cần trau dồi và cần buông bỏ để được thực sự trở về với chân tâm thật tánh của chính mình. Giờ đến lượt chúng ta phải phát đại hùng, đại lực, đại trí và đại từ bi mà quay về với chính mình. Chúng ta đã lăn trôi từ vô thỉ, dong ruổi đó đây gây tội tạo nghiệp ngất trời, lấy khổ làm vui, lấy não phiền làm an lạc…Chúng ta đã nói một đàng làm một nẻo nhiều lắm rồi quý vị ơi! Hãy bình tâm mà suy gẫm lại coi chúng ta đã bao lần miệng nói thương mà tâm vẫn ghét, bao lần miệng nói buông bỏ mà tâm nầy ý nầy vẫn bám víu, bao lần miệng nói từ bi hỷ xả mà thân tâm ý vẫn tham sân si, bao lần miệng nói khiêm cung từ tốn mà thân tâm ý vẫn ngã mạn cống cao, bao lần miệng nói quân tử mà tâm địa lại tiểu nhân hèn hạ, miệng nói quảng đại bao dung mà tâm địa bỏn xẻn keo kiết… Làm sao kể cho xiết cái khẩu Phật tâm xà của chúng sanh đây quý vị ơi! Chúng ta đã từ vô thỉ sống trong huyễn ảo của Ta Bà, xin hãy cố một lần quay lại với chính mình để sống thật đơn giản mà cao thượng, trong đó sẽ không có tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, không có dục vọng chiếm hữu để phải mắc kẹt vào những mắc xích vô minh. Phật tử chơn thuần phải luôn cảnh giác cuộc đời nầy nào khác chi một đấu trường, có không, còn mất, hư nên, phải quấy, thành bại, giàu nghèo, sang hèn, vân vân. Hãy quay về sống với chơn tâm thật tánh của chính mình rồi sẽ thấy ngay cả cái mà bấy lâu nay chúng ta ôm ấp cũng không có thật, huống là những thứ viễn vông như tài sản, sự nghiệp, danh vọng, quyền uy, công hầu khanh tướng. Hãy quay về với chính mình để thấy rằng không có thứ gì trường cửu. Hãy quay về mà sống tu với chính mình để cho dù còn đang ở trong trần ai mà không lem lấm bụi trần ai. Tất cả đều như tuồng ảo ảnh, tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có chân tâm thật tánh là tài sản duy nhất theo với chúng sanh cho dù chúng sanh ấy có vào địa ngục hay lên thiên đàng. Hãy quay ngay trở về với chính mình để tự thấy mình đang vướng gì và đang cần tu những gì. Một khi đã quay lại được với chính mình thì mình sẽ thấy rõ tự thuở giờ mình đã lăn trôi trong sanh tử tử sanh chỉ vì tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng, con đường duy nhất để chấm dứt lăn trôi là từ bỏ những thứ nầy, con đường độc đạo để chấm dứt sanh tử tử sanh là không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành và luôn giữ cho tâm ý thanh sạch. Quay lại với chính mình để có khả năng buông bỏ những câu chấp mà bấy lâu nay ta hằng ôm ấp. Đức Phật đã nhiều lần dạy dỗ: “Chớ nên chấp pháp, Chánh pháp mà có lúc còn phải bỏ, huống là phi pháp.” Thật vậy, nếu chúng ta không chịu quay lại với chính mình thì khó lòng mà chúng ta thấy được những thứ nầy lắm vì không ai biết mình hơn chính mình hết quý vị ơi!

Nói gì thì nói, con đường trở về với chính mình thật là thiên nan vạn nan. Con người có kẻ phàm phu nhưng cũng có bậc Thánh trí, nếu phàm phu chúng ta biết xử dụng cái khả năng giác ngộ mà Phật đã chỉ dạy, biết về nương nơi Phật là đấng toàn giác, biết về nương nơi giáo pháp thậm thâm vi diệu của Ngài, biết vận dụng khả năng sẳn có để rảo bước theo các vị trưởng tử Như Lai, biết tương tức tương nhập thì Thánh có thể dắt dìu phàm đi về vùng đất Phật. Chính vì thế mà Đức Phật hằng nhắc nhở tứ chúng: “Khi mê thầy độ, khi ngộ thì tự độ độ tha.” Hàng hậu bối chúng ta dù biết rằng con đường “Trở về với chính mình” là con đường độc đạo, nhưng trước khi biết đường biết nẻo mà quay trở về với chính mình, chúng ta cần có những bậc Thánh nhơn làm người hướng đạo đưa đường dẫn lối chứ không “đui tu mù luyện” để sa hầm sụp bẫy của tà ma ngoại đạo. Bước “trở về với chính mình” đòi hỏi người Phật tử nhiều đấu tranh và nghị lực của chính mình, đòi hỏi chúng ta phải bằng mọi cách tự chiến thắng lấy mình. Chính vì thế mà Đức Phật đã từng nhắn nhủ với tứ chúng: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Tự chiến thắng mình để được quay về sống với chơn tâm thật tánh là một chiến thắng vẻ vang nhất.” Đạo Phật nói dễ khó làm. Nói quay về thì dễ, mà quay được về hay không mới là khó. Mặc dù Phật đã khẳng định: “Phật tánh ở Phật thế nào thì Phật tánh ở chúng sanh cũng như thế ấy.” Tuy nhiên, chúng sanh có hùng lực trí lực đâu để mà tìm trở về với cái Phật tánh mà mình đã một lần dại dột xa lìa? Nói như vậy không có nghĩa là bi quan yếm thế, nhưng nói để cùng nhau tự hiểu và tự cố gắng thêm nữa. Phật là một chúng sanh chịu tìm về với chính mình và đã thành Phật. Thế mà chúng ta giờ nầy vẫn còn đây! Dù mai mắn được thân người, nhưng có ai trong chúng ta có thể đoan chắc là chúng ta sẽ không là trùng dế, trâu ngựa ở kiếp lai sanh??? Thấy như vậy để một lần quyết tâm tìm về với chính mình. Mong lắm thay!!!



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567