Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3: Vô Thường

10/10/201015:32(Xem: 6678)
Chương 3: Vô Thường

CHƯƠNG III

VÔ THƯỜNG (anityatìparivatro Màmattrìyah)

Tiết I

Bấy giờ Phật bảo Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình:

Nay Ta sẽ vì ông nói các tướng sai biệt của thân do ý sinh. Ông hãy nghe kỹ, khéo suy nghĩ.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Này Đại Huệ ! Thân do ý sinh có 3 loại, ấy là: 1. Nhập tam muội ý sinh thân là thân do nhập pháp lạc tam muội mà thành. 2. Giác pháp tự tính ý sinh thân, là thân do biết rõ tự tính các pháp mà thành. 3. Chủng loại câu sinh vô tác hành ý sinh thân, là thân sinh ra theo đủ các loài nhưng không có tác hành. Các bậc tu hành nhập sơ địa rồi dần chứng được các thân ấy. Đại Huệ ! Sao gọi là thân do nhập pháp lạc tam muội thành? Ấy là, ở các địa thứ 3, 4, 5, không tam muội lìa hết thảy phân biệt, tâm tịch nhiên bất động, biển tâm không khởi sóng chuyển thức, hiểu rõ các cảnh tượng đều do tâm hiện, thật ra không có gì, ấy là thân do nhập pháp lạc tam muội mà sinh. Sao là thân “Giác pháp tự tính”? Ấy là ở địa thứ 8 liễu tri các pháp như huyễn, không tướng, tâm chuyển các thức sở y, an trú định như huyễn và các định khác, có thể hiện vô lượng thần thông tự tại, như hoa nở, mau như ý khởi, như huyễn như mộng như bóng như hình, không phải do tứ đại tạo mà giống như do tứ đại tạo, các sắc tướng trang nghiêm đầy đủ, vào khắp các cõi phật, hiểu rõ tự tính các pháp, ấy cũng là thân do giác ngộ tự tính các pháp mà sinh. Sao gọi là thân “chủng loại câu sinh vô tác hành”? Ấy là hiểu rõ tướng các pháp do chư Phật chứng đắc. Đại Huệ ! Ông nên siêng quán sát ba loại thân ấy. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Đại thừa Ta không thừa

Không tiếng cũng không lời

Không chân lý, giải thoát

Cũng không cảnh, vô tướng

Nhưng thừa ma ha diễn

Tam ma đề tự tại

Các loại thân ý sinh

Hoa tự tại trang nghiêm

Đại Huệ lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Thế Tôn nói có năm nghiệp vô gián (pancànantanya). Năm nghiệp ấy là gì, mà nếu làm thì đọa liền vào A Tỳ địa ngục?

Ông hãy nghe, Ta sẽ nói cho.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Năm tội vô gián là: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, Phá hòa hiệp tăng, ôm lòng ác độc gây đổ máu thân Phật. Đại Huệ ! Sao gọi là mẹ chúng sinh? Ấy là ái dục đưa đến sinh sản cùng ham vui v.v.. đều như mẹ nuôi dưỡng tất cả. Cha là gì? Là vô minh khiến sinh vào sáu xóm làng (dục giới); cắt đức hai cội gốc ấy gọi là giết cha mẹ. Sao là giết A La Hán? Ấy là các tùy miên xem như kẻ thù, như độc của chuột sinh, tận diệt chúng gọi là giết A La Hán. Sao là phá hòa hiệp tăng? Là các tướng khác nhau của các uẩn nhóm họp, đoạn trừ chúng gọi là phá hòa hiệp tăng. Sao gọi là ác tâm gây đổ máu thân Phật? Là thân 8 thức vọng sinh tư duy hiểu biết, thấy có tự tướng cọng tướng ngoài tâm, dùng tâm vô lậu, ba giải thoát mà diệt trừ thân Phật 8 thức, ấy gọi là ác tâm đổ máu thân Phật. Đại Huệ ! Ấy là năm tội vô gián bên trong, nếu có người làm, liền có sự vô gián của hiện chứng thật pháp. Lại nữa, Đại Huệ này ! Ta sẽ nói cho ông năm tội vô gián ở ngoài, khiến ông và các Bồ Tát nghe xong đời sau không sinh nghi hoặc. Sao gọi là năm vô gián ở ngoài? Là nghe các tội vô gián nói trong các kinh khác, nếu có tác giả, thì không thể hiện chứng được ba giải thoát, chỉ trừ Như Lai, các đại Bồ Tát và đại Thanh Văn. Thấy những người tạo nghiệp vô gián, vì muốn khiến họ sửa lỗi nên dùng thần thông chỉ ra các việc đồng như vậy. Những kẻ kia liền sám hối mà được giải thoát. Đấy đều là hóa hiện, không thật có. Nếu có kẻ thực sự tạo nghiệp vô gián, thì suốt đời Phật không hiện thân cho họ giải thoát, chỉ trừ khi họ giác ngộ được thân, tài sản, chỗ ở đều do tâm tạo, lìa kiến chấp phân biệt ngã, ngã sở hoặc đời sau thọ sinh các nơi khác gặp thiện tri thức lìa được lỗi lầm phân biệt.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tham ái gọi là mẹ

Vô minh ấy là cha

Thức rõ nơi cảnh giới

Thì đấy gọi là Phật

Tùy miên là La Hán

Các uẩn, hòa hiệp tăng

Đoạn các vô gián ấy

Gọi là nghiệp vô gián

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói thể tính của chư Phật.

Đại Huệ ! hiểu rõ hai vô ngã, trừ hai chướng ngại, lìa hai chết, dứt hai phiền não, ấy là thể tính Phật. Đại Huệ ! Thanh Văn, Duyên Giác được các pháp ấy rồi cũng gọi là Phật. Ta vì nghĩa ấy mà chỉ nói một thừa.

Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:

Biết rõ hai vô ngã

Trừ hai chướng hai não

Cùng bất tư nghì tử

Nên gọi là Như Lai

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Lai do mật ý gì mà nói cùng đại chúng những lời này: Ta là hết thảy Phật quá khứ, và nói trăm ngàn chuyện tiền thân: “Ta vào thời ấy làm vua Đảnh Sinh, làm voi lớn, làm chim Anh Vũ, Nguyệt Quang, Diệu nhãn v.v..”

Đại Huệ ! Đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, do nơi bí mật tứ bình đẳng mà nói với đại chúng những lời như vầy: Ta thuở xưa làm Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp. Sao gọi là bốn? Ấy là: 1. Tự bình đẳng, 2. Ngữ bình đẳng, 3. Thân bình đẳng, 4. Pháp bình đẳng. Sao gọi là tự bình đẳng? Ấy là: Ta gọi là Phật, tất cả các đức Như Lai cũng gọi là Phật. Danh tự không khác nên gọi là bình đẳng. Ngữ bình đẳng là, Ta nói được 64 phạm âm, chư Như Lai cũng vậy, phạm âm như tiếng Ca lăng tần già không tăng không giảm không sai biệt, nên gọi là ngữ bình đẳng. Thân bình đẳng là Ta với chư Phật, pháp thân sắc tướng cùng các tướng tốt tướng phụ đều không khác, chỉ trừ khi vì điều phục các loài chúng sinh mà thị hiện các loại thân khác nhau, ấy là thân bình đẳng. Pháp bình đẳng là, Ta và chư Phật đồng chứng 37 pháp bồ đề phần. Cho nên Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác nói với đại chúng những lời như vậy. Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:

Ca Diếp, Câu Lưu Tôn

Câu Na Hàm là Ta

Do bốn thứ bình đẳng

Mà nói lời như vậy.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Thế Tôn dạy: “Khoảng thời gian từ đêm thành đạo cho đến khi nhập Niết Bàn ta không hề nói một chữ, không đã nói cũng không sẽ nói, vì không nói ấy mới là Phật nói”. Bạch Thế Tôn ! Do mật ý gì mà dạy lời ấy?

Do hai pháp bí mật mà nói lời ấy. Hai pháp ấy là gì? Là tự chứng pháp (pratyàmadharmatà) và bản trú pháp (paurànasthitidharmatà). Sao gọi là tự chứng pháp? Ấy là pháp chư Phật chứng ta cũng chứng hệt như vậy không thêm bớt, cảnh giới của tự chứng trí vốn lìa tướng ngôn thuyết, tướng phân biệt, tướng danh tự. Sao gọi là bản trú pháp? Ấy là, bản tính pháp giống như vàng trong mỏ, dù phật có ra đời hay không có ra đời, pháp vẫn ở ngôi vị của pháp, pháp giới pháp tính đều thường trú. Đại Huệ ! Thí như có người đi trong khoảng đồng rộng, thấy có con đường cũ bằng phẳng dẫn vào một ngôi cổ thành, liền theo đường ấy vào nghỉ ngơi vui thú. Đại Huệ ! Ý ông nghĩ sao? Người kia có làm ra con đường ấy và các thứ trong thành chăng?

Bạch Thế Tôn, không !

Đại Huệ ! Chân như và pháp tính thường trú mà Ta cùng các Phật chứng được cũng như vậy, cho nên nói từ khi thành Phật cho đến khi Niết Bàn, Ta không nói một lời nào, không đã nói cũng không sẽ nói.

Khi ấy Thế Tôn lại nói bài tụng:

Từ đêm thành chính giác

Đến đêm vào Niết Bàn

Giữa hai thời gian ấy

Ta đều không nói gì

Pháp bản trú tự chứng

Nên nói mật ngữ này

Ta cùng chư Như Lai

Không có chút sai biệt

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Xin nói tướng hữu vô của hết thảy pháp, khiến con và các Bồ Tát lìa tướng ấy, mau được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Phật dạy:

Hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói cho.

Xin nghe, bạch Thế Tôn.

Đại Huệ ! Đa số chúng sinh ở thế gian đọa vào hai kiến chấp là chấp có (astitvani’srita) và chấp không (nastitvani’srita). Vì đọa vào hai kiến chấp ấy nên không xuất ly mà tưởng đã xuất ly. Hữu kiến là sao? Là chấp thật có nhân duyên sinh ra các pháp, không phải không thật có, thật có các pháp do nhân duyên sinh, không phải là không nhân duyên sinh. Đại Huệ ! Nói như thế tức là nói không nhân. Sao là vô kiến? Ấy là nhân có tham, sân, si nhưng vọng chấp cái làm nhân cho tham v.v.. là phi thực (Suzuki,125). Đại Huệ ! Lại có kẻ phân biệt có tướng mà không nhận có các pháp. Có kẻ thấy Phật, Duyên Giác, Thanh Văn không có tính tham sân si nên chấp những tính ấy không thật có. Đại Huệ ! Trong số đó ai là kẻ bị hoại (vaina’sika)?

Bạch Thế Tôn, ấy là kẻ công nhận có tính tham, sân, si nhưng sau lại chấp là không.

Hay thay ! Ông đã đáp đúng lời ta. Người ấy không những chỉ bị hoại vì quan niệm không có tham sân si, mà còn phá hoại Phật, Thanh Văn, Duyên Giác. Vì sao? Vì phiền não ở trong và ngoài đều bất khả đắc, vì thể tính của nó không khác cũng không đồng. Đại Huệ ! Tham sân si dù trong hay ngoài đều bất khả đắc, vì nó không có thể tính, không thể nắm bắt. Thanh Văn, Duyên Giác, Như Lai bản tính là giải thoát, vì trong họ không có tính trói buộc hay làm nhân cho trói buộc. Đại Huệ ! Nếu có tính trói buộc và làm nhân cho trói buộc tất là có cái bị trói buộc, nói như vậy gọi là kẻ phá hoại.

Đấy gọi là tướng vô và tướng hữu. Ta do mật ý ấy mà nói: Thà có ngã kiến to như núi tu di, không thà chấp không, ôm giữ tăng thượng mạn. Khởi chấp không như vậy là kẻ phá hoại, sa vào tự tướng cộng tướng, vui say trong kiến chấp ấy không hiểu các pháp do tự tâm hiện, vì không hiểu cho nên thấy có pháp ngoài, các tướng uẩn, giới, xứ sai biệt xoay chuyển sát na vô thường nối tiếp lưu chuyển rồi lại diệt. Vì hư vọng phân biệt, lìa văn tự (lìa kinh điển) cũng thành kẻ phá hoại. Thế Tôn lại nói bài tụng:

Hữu, vô là hai bên

Cho đến tâm tạo tác

Trừ sạch tạo tác ấy

Tâm bình đẳng tịch diệt

Không nắm giữ cảnh giới

Không diệt, không có gì

Có chân như diệu vật

Như cảnh giới chư Thánh

Vốn không mà có sinh

Sinh rồi lại diệt mất

Nhân duyên có cùng không

Kẻ ấy không trú pháp (Ta)

Không do ngoại đạo, Phật

Không do Ta, chúng khác

Do nơi duyên mà có

Làm sao mà được “không”

Hữu do duyên mà thành

Ai muốn được là không

Ác kiến nói có sinh

Vọng tưởng chấp có, không

Nếu biết không gì sinh

Cũng không có gì diệt

Thấy thế gian rỗng lặng

Hữu vô đều xa lìa

Bấy giờ Bồ Tát Đại Huệ lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì chúng con nói tướng của các tông thú, con và chư Bồ Tát đạt được nghĩa ấy, sẽ không theo những giải thích sai lầm của ngoại đạo, mau được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói cho ông.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Đại Huệ ! Hết thảy hàng nhị thừa và Bồ Tát có hai thứ tướng tông pháp, ấy là: 1. Tông thú pháp tướng (Siddhàntanayalaksana). 2. Ngôn thuyết pháp tướng (De’sanànayalaksana). Tông thú pháp tướng là tướng sở chứng thù thắng, lìa phân biệt văn tự ngữ ngôn, nhập cảnh giới vô lậu, thành tựu các hạnh của địa vị mình, vượt lên trên hết thảy những tri giác bất chính, hàng phục ma, ngoại đạo, phát sinh ánh sáng trí tuệ. Ấy gọi là Tông thú pháp tướng. Ngôn thuyết pháp tướng là nói các giáo pháp thuộc 9 bộ loại, lìa các tướng một, khác, có không, dùng phương tiện khéo léo tùy tâm chúng sinh mà làm cho họ hiểu được pháp này, ấy gọi là Ngôn thuyết pháp tướng. Ông và các Bồ Tát nên siêng tu học. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tông thú cùng ngôn thuyết

Tự chứng và giáo pháp

Nếu hay biết rõ được

Không theo người giải bậy

Như kẻ ngu phân biệt

Không phải tướng chân thật

Kia há không cầu độ?

Không một pháp có được

Quan sát các hữu vi

Sinh diệt và tương tục

Tăng trưởng hai kiến chấp

Điên đảo không biết gì

Niết Bàn lìa tâm ý

Chỉ một pháp đấy thật

Quán thế gian hư dối

Như huyễn, mộng, bẹ chuối

Không có tham nhuế si

Lại cũng không có người

Do ái sinh các uẩn

Như cảnh trong chiêm bao.

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát ma ha tát lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói tướng “hư vọng phân biệt” (Abhùtapario- kalpa), hư vọng phân biệt này vì sao sinh? Làm sao sinh? Cái gì và do ai sinh? Sao gọi là hư vọng phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ, hay thay ! Hay thay ! Ông vì thương xót thế gian, trời, người mà hỏi nghĩa ấy, vì lợi ích cho nhiều người, vì an lạc cho nhiều người. Ông hãy lắng nghe kỹ, khéo suy nghĩ. Ta sẽ nói cho ông.

Đại Huệ bạch: “Xin vâng!”

Phật dạy:

Này Đại Huệ ! Hết thảy chúng sinh đối ngoại cảnh, không hiểu rõ tự tâm hiện, lại chấp năng thủ, sở thủ, chấp trước hư dối, khởi các phân biệt, sa vào các kiến chấp có và không; tăng trưởng tập khí vọng kiến của ngoại đạo. Khi tâm và các tâm sở tương ưng nhóm khởi, họ liền chấp các nghĩa bên ngoài đều có; chấp ngã, ngã sở; đó gọi là hư vọng phân biệt.

Đại Huệ bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, nếu quả như Thế Tôn dạy, các pháp bên ngoài tính vốn lìa có không, siêu việt các quan niệm (kiến chấp), thì đệ nhất nghĩa đế cũng vậy, lìa các hạn lượng tông, nhân, dụ. Bạch Thế Tôn ! Vì sao với các pháp khác thì nói khởi phân biệt, mà với đệ nhất nghĩa thì lại không? Phải chăng lời Thế Tôn dạy có trái lý, vì một nơi nói khởi, một nơi không nói khởi. Thế Tôn lại nói cái thấy hữu, vô là sa vào hư vọng phân biệt. Ví như huyễn sự, không thật có; phân biệt cũng thế, lìa các tướng hữu vô. Sao nói là đọa vào hai kiến? Thuyết này lại không đọa vào kiến chấp của thế gian đó sao?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Phân biệt không sinh không diệt. Vì sao? Vì không khởi tướng phân biệt có, không, vì các pháp thấy bên ngoài đều không có, vì hiểu rõ tự tâm hiện. Chỉ vì ngu phu phân biệt các pháp của tự tâm, bám vào các tướng, mà nói như thế, khiến họ biết những gì thấy đó đều là tự tâm, đoạn trừ các kiến chấp đắm trước ngã, ngã sở, lìa các ác nhân duyên năng tác sở tác, giác ngộ duy tâm, chuyển được ý lạc (?) (cittàs’raya), hiểu rõ các địa vị, vào cảnh giới Phật, xả bỏ các kiến về 5 pháp, 3 tự tính. Do đó ta nói do hư vọng phân biệt chấp trước mà sinh các pháp tự tâm hiện và các cảnh giới. Nếu biết rõ “như thật” liền được giải thoát.

Bây giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Các nhân cùng với duyên

Do đó sinh thế gian

Cùng bốn cú tương ưng

Không biết pháp của Ta

Thể lìa có, lìa không

Lìa câu và bất câu

Vì sao các người ngu

Phân biệt nhân duyên khởi

Không có cũng không không

Không vừa không vừa có

Quán thế gian như vậy

Chuyển tâm, chứng vô ngã

Hết thảy pháp không sinh

Vì do duyên khởi vậy

Kết quả của các duyên

Kết quả thì không sinh

Quả không tự sinh quả

Có hai quả là sai

Vì không có hai quả

Không thể có tính có

Quán các pháp hữu vi

Lìa năng duyên sở duyên

Nhất định chỉ là tâm

Nên ta nói tâm lượng

Lượng là chỗ tự tính

Xa cả hai duyên pháp

Được cứu cánh thanh tịnh

Nên ta nói tâm lượng

Ngã là tên bày đặt

Thật ra không thể có

Các uẩn là giả danh

Cũng đều không phải thật

Có bốn thứ bình đẳng

Tướng, nhân cùng sở sinh

Vô ngã là thứ bốn

Kẻ tu hành quán sát

Lìa hết thảy các kiến

Cùng phân biệt năng sở

Không được cũng không sinh

Ta nói là tâm lượng (mind noun)

Không có cũng không không

Không, có đều xa lìa

Tâm xa lìa cũng bỏ

Ta nói là tâm lượng

Chân như, không, thật tế

Niết bàn cùng pháp giới

Các loại thân ý sinh

Ta nói là tâm lượng

Vọng tưởng tập khí buộc

Các pháp do tâm sinh

Chúng sinh chấp ngoài có

Ta nói là tâm lượng

Cái thấy ngoài không có

Chỉ tâm hiện các pháp

Thân, tài sản, chỗ ở

Ta nói là tâm lượng

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Như Lai có nói: Như Ta đã nói, Ông và các Bồ Tát không nên căn cứ vào lời mà phải nắm lấy ý nghĩa. Bạch Thế Tôn ! Vì sao không nên nương lời mà giữ nghĩa. Lời (ngữ) là sao? Nghĩa là sao?

Này Đại Huệ ! Lời là do tập khí phân biệt làm nhân; do yết hầu, lưỡi môi, quai hàm mà phát ra các âm thanh, lời nói, đàm luận với nhau; ấy gọi là ngữ. Còn “nghĩa” là gì? Bồ Tát đại hữu tình ở một mình nơi chỗ thanh tịnh, lấy trí tuệ văn tư tu, suy nghĩ quán sát hướng về Niết Bàn, cảnh giới của tự trí, chuyển đổi các tập khí, thực hành các hành tướng của các địa, ấy gọi là nghĩa. Lại nữa, này Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình rành lời và nghĩa, biết lời và nghĩa không một không khác; và nghĩa đối với lời cũng lại như vậy. Nếu nghĩa khác lời; thì nó sẽ không nhân lời mà rõ nghĩa; nhưng do nơi lời mà thấy được ý, như đèn chiếu rõ hình sắc. Đại Huệ ! Ví như có người cầm đèn soi các vật biết vật này như thế ở chỗ như thế. Bồ Tát đại hữu tình cũng vậy; do ngọn đèn lời mà đi vào cảnh giới tự chứng, lìa ngôn thuyết. Lại này Đại Huệ ! Nếu có người y theo lời nói mà nắm ý nghĩa về Niết Bàn bất sinh, bất diệt, về tam thừa, nhất thừa, 5 pháp, 8 thức, 3 tự tính v.v.. tất người ấy sẽ sinh kiến chấp hoặc có hoặc không, thấy có các sự vật khác nhau liền khởi phân biệt, như thấy huyễn sự cho là thật. Ấy là cái thấy của phàm phu, không phải của bậc thánh hiền.

Khi ấy Thế Tôn lại nói bài kệ:

Nếu theo lời giữ nghĩa

Mà kiến lập các pháp

Vì những kiến lập ấy

Chết sa vào địa ngục

Trong uẩn không có ngã

Uẩn không phải là ngã

Không phân biệt như thế

Lại chẳng phải không có

Như kẻ ngu phân biệt

Hết thảy đều có tính

Nếu thấy được như vậy

Tức là thấy chân lý

Tất cả pháp nhiễm tịnh

Đều không có thể tính

Không như chúng được thấy

Cũng không phải là không

Lại nữa, Đại Huệ ! Ta sẽ vì ông nói tướng tri thức (Jnànavijnanakajsana), ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình nếu hiểu rõ tướng của trí thức liền mau được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Này Đại Huệ ! Trí có ba loại, ấy là: 1. Thế gian trí (Lautikajnàna), 2. Xuất thế gian trí (Lokottarajnàna), 3. Xuất thế gian thượng thượng trí (Lokottaratamajnàna). Sao gọi là thế gian trí? Ấy là chấp hết thảy các pháp có, không của ngoại đạo, phàm ngu. Sao gọi là xuất thế gian trí? Ấy là các chấp trước tự tướng (ngã), cọng tướng (ngã sở, nhân sinh, vũ trụ) của hàng nhị thừa. Sao là xuất thế gian thượng thượng trí? Ấy là chư Phật Bồ Tát quán tất cả pháp đều không tướng, không sinh, không diệt, không phải có, không phải không, chứng pháp vô ngã, nhập Như Lai địa. Này Đại Huệ ! Lại có ba loại trí, ấy là: 1. Tri tự tướng cọng tướng trí(svasànànyalaksanàvadjàrakajnàna); 2. Tri sinh diệt trí (utpàdavuauàvadhàrakajnàna); 3. Tri bất sinh bất diệt trí (Anutpà- dànirodhàvadhàrakajnàna). Lại này Đại Huệ ! Sinh diệt là thức, không sinh diệt là trí, thức thì sa vào nhị nguyên tướng vô tướng, cùng các thứ sai biệt làm nhân cho nhau, trí thì lìa tướng và vô tướng, lìa nhân hữu, vô. Có các tướng tích tập ấy là thức, không tích tập tướng ấy là trí. Bám trước vào cảnh giới ấy là thức, không bám trước cảnh giới ấy là trí. Do ba hòa hiệp tương ưng mà sinh là thức, vô ngại tự tính là trí. Tướng “có thể nắm được” là thức, tướng “không thể nắm được” là trí, vì đấy là cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng, như trăng trong nước không vào không ra vậy.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Nhóm chứa nghiệp là tâm

Quán sát pháp là trí

Tuệ hay chứng vô tướng

Được tự tại uy quang

Bị cảnh buộc là tâm

Tướng “giác” sinh là trí

Cảnh thù thắng, vô tướng

Trí tuệ do đây sinh

Tâm, ý cùng với thức

Lìa các tướng phân biệt

Được pháp vô phân biệt

Bồ Tát, phi Thanh Văn

Nhẫn thù thắng tịch diệt

Trí Như Lai thanh tịnh

Hay sinh các thắng nghĩa

Xa lìa các sở hành

(samudàcàra – varijitam)

Ta có ba loại trí

Bậc thánh hay sáng rõ

Phân biệt được các tướng

Mở bày hết thảy pháp

Trí ta lìa các tướng

Siêu việt nơi nhi thừa

Cùng các hạng Thanh Văn

Trí Như Lai vô cấu

Vì hiểu rõ duy tâm.

Lại nữa, này Đại Huệ ! Các ngoại đạo có 9 loại kiến về chuyển biến, ấy là: 1. Hình chuyển biến, 2. Tướng chuyển biến (laksana), 3. Nhân chuyển biến (hetu), 4. Tương ưng chuyển biến (yukti), 5. Kiến chuyển biến (drsti), 6. Sinh chuyển biến (utpàda), 7. Vật chuyển biến (bhàva), 8. Duyên minh liễu chuyển biến (pratyayàbhivyakti), 9. Sở tác minh liễu chuyển biến (kriyàbhivyakti). Tất cả ngoại đạo do quan niệm ấy mà khởi các luận về chuyển biến dựa trên có và không. Hình chuyển biến là thấy hình thể thay đổi như vàng làm đồ trang sức; như các thứ vòng, xuyến, chuỗi đeo cổ không giống nhau, hình trạng có sai khác nhưng thể không khác. Hết thảy pháp biến đổi cũng như thế. Các pháp mà ngoại đạo chấp trước đều không “như vậy” cũng không “khác vậy”. Nên biết chỉ do phân biệt mà các pháp biến hóa; như ván là do sữa, rượu là do trái chín. Ngoại đạo nói ở đây có biến hóa, mà kỳ thật không “có” cũng không “không”, vì do tự tâm thấy, không có vật bên ngoài. Như thế đều là phàm phu mê muội, do tập khí phân biệt của mình sinh ra, chứ thật không có một pháp nào hoặc sinh hoặc diệt; như do mộng huyễn thấy có các sắc tướng, như nói con của người thạch nữ có sống chết.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Hình tùy thời biến chuyển

Đại chủng cùng các căn

Thân trung hữu (antaràbhava) sinh dần

Vọng tưởng, không minh trí

Chư Phật không phân biệt

Duyên khởi cùng thế gian

Thế gian do duyên khởi

Như thành Càn Thát Bà.

Lúc ấy Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin Như Lai vì con giải nói nghĩa thâm mật (samdhyatrha) cùng giải nghĩa tướng (parimocanàtrha) nơi hết thảy pháp, khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình biết rõ sự sai biệt giữa trói buộc và giải thoát, chúng con sẽ biết những phương tiện thiện xảo về hai tướng ấy, và sẽ không còn chấp lời giữ nghĩa. Khi chúng con biết rõ nghĩa trói buộc (thâm mật) là gì và sự giải thoát của các pháp là gì, chúng con sẽ diệt trừ sự phân biệt lời và chữ; và nhờ trí tuệ, chúng con được nhập các cõi Phật và các hội chúng; được ấn thần thông, tự tại tổng trì, được giác tuệ, an trú trong mười nguyện vô tận, không cần dụng công biến hóa các thân, hào quang chiếu sáng như trời trăng, ngọc ma ni, đất nước lửa gió, an trú ở các địa, lìa kiến chấp phân biệt; biết các pháp đều như huyễn, mộng; nhập quả vị Như Lai, hóa độ khắp chúng sinh; khiến họ biết các pháp hư dối không thật, lìa hữu vô, đoạn cái chấp sinh, diệt, không chấp trước vào ngôn thuyết, khiến chuyển thức sở y.

Phật dạy:

Hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho ông. Này Đại Huệ ! Sự chấp trước ăn sâu (ab-hinivésasamdhi) đối với hết thảy các pháp y lời mà nắm ý thật là không cùng. Ấy là: Chấp trước tướng (lakasanàbhivivésa), chấp trước duyên (pra- tyayàbhi), chấp trước hữu phi hữu (bhàvàbhàbhinivesa), chấp trước sinh phi sinh, chấp trước diệt phi diệt, chấp trước thừa phi thừa, chấp trước vi vô vi, chấp trước địa và tự tướng của địa, chấp trước vào chính sự phân biệt và vào cái hiện chứng (that arising from enligthenment), chấp trước vào tướng hữu vô của các tông ngoại đạo, chấp trước 3 thừa, 1 thừa ... Này Đại Huệ ! Các loại chấp trước sâu xa ấy thật vô lượng, đều do phàm phu tự phân biệt rồi bám lấy. Những phân biệt ấy như tằm làm kén, lấy tơ vọng tưởng tự quấn mình, quấn người, chấp chặt hữu vô, ham muốn chằng chịt kiên cố. Này Đại Huệ ! Nhưng thật ở đây không có tướng ăn sâu hay không ăn sâu; vì Bồ Tát đại hữu tình thấy các pháp đều ở trong tịch tịnh, không phân biệt. Nếu rõ biết các pháp chỉ do tâm thấy (thì thấy) ngoại pháp hoặc không hoặc có đều đồng một tướng, rồi theo đó quán sát các chấp sâu xa phân biệt hoặc có hoặc không, thấy đều vắng lặng; nên nói không có tướng chấp sâu dày với không sâu dày. Đại Huệ ! Ở đây không có sự trói buộc cũng không có sự giải thoát, chỉ những người không rõ chân thật mới thấy có trói buộc, có giải thoát. Vì sao? Vì hết thảy các pháp dù có dù không, thể tính của nó muốn tìm cũng không thấy được. Lại này Đại Huệ ! Kẻ phàm phu ngu muội có 3 thứ trói buộc thâm sâu, ấy là tham, sân, si, do đó mà có yêu thích đời sau cùng ham muốn, vui mừng. Sự ràng buộc thâm sâu này khiến chúng sinh tiếp tục sinh trong 5 đường; nếu dây ràng buộc này đứt, thì không thấy đâu là tướng ràng buộc hay không ràng buộc. Lại nữa, Đại Huệ này ! Nếu có sự chấp trước vào 3 duyên hòa hiệp, các thức bị ràng buộc sâu xa lần lượt khởi lên; và vì có chấp trước nên có trói buộc sâu xa. Nếu thấy 3 giải thoát, lìa 3 thức hòa hiệp, thì hết thảy các trói buộc tất không sinh.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Phân biệt cái không thật

Ấy là tướng buộc ràng

Nếu biết được như thật

Các trói buộc đều đứt

Phàm phu không rõ được

Theo lời mà thủ nghĩa

Như tằm ở trong kén

Vọng tưởng tự buộc ràng.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Thế Tôn dạy, các pháp đều do phân biệt của tâm thức, không có tự tính; đấy chỉ là vọng kế (tưởng tượng sai lầm) mà thôi. Bạch Thế Tôn ! Nếu chỉ do vọng chấp, không thật có các pháp thì có phải các pháp nhiễm hoặc tịnh đều là không? (phải chăng không có gì nhiễm hay tịnh?)

Phật dạy:

Đại Huệ ! Chính thế, Chính thế ! Như ông nói, phàm phu phân biệt các pháp, nhưng pháp tính không có như vậy; đấy chỉ là vọng chấp, không có thật tính. Song các bậc thánh lấy tuệ nhãn của thánh mà thấy biết như thật có tự tính các pháp.

Đại Huệ bạch:

Nếu các bậc thánh dùng tuệ nhãn của mình mà thấy có tự tính các pháp, không phải thiên nhãn hay nhục nhãn, không giống như chỗ phân biệt của hạng phàm ngu, thì bạch Thế Tôn, làm sao hạng này lìa được phân biệt, vì họ không thể nào nhận biết thánh pháp (àryabhàvavastu)? Bạch Thế Tôn ! Những người kia không điên đảo cũng không không điên đảo. Vì sao? Vì họ không thấy những pháp mà thánh nhân thấy. Vì cái thấy của thánh nhân lìa tướng hữu vô, nên thánh cũng không phân biệt như sự phân biệt của phàm phu, vì không phải là cảnh giới của mình. Bậc thánh cũng thấy có tự tính các pháp – như vọng chấp mà hiện, vì không nói có nhân cùng không nhân, nên họ cũng sa vào kiến chấp tự tính các pháp vậy. Bạch Thế Tôn ! Các cảnh giới khác đã không đồng với cảnh này (của thánh), như vậy thành lỗi “vô cùng”, vì như thế cái gì lập thành tự tính các pháp hóa ra không thể biết được. Bạch Thế Tôn ! Những gì do phân biệt mà có, không thể là tự tính của các pháp. Thế thì sao trong khi đã bảo sự vật có ra là do vọng chấp phân biệt, lại còn nói rằng chúng thật không phải như người ta phân biệt? (Tại sao tự tính các pháp đã nói là không do phân biệt, lại nói do phân biệt mà có các pháp?) Bạch Thế Tôn ! (Đã đành) Sự phân biệt khác nhau nên các pháp cũng sai khác, vì nhân không giống nhau. Nhưng tại sao các pháp đều do phân biệt, mà chỉ cái phân biệt của phàm ngu là không “như thật”. Và Thế Tôn lại còn nói: “Vì muốn khiến chúng sinh xả bỏ các phân biệt nên Ta nói các pháp do phân biệt thấy, không phải là pháp “như thị””. Bạch Thế Tôn ! Vì sao đã muốn chúng sinh lìa các pháp do kiến hữu vô chấp trước, mà còn chấp cảnh giới của Thánh Trí, sa vào hữu kiến? Vì sao không nói pháp tịch tịnh không vô, mà nói tự tính của Thánh Trí?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Không phải là Ta không nói pháp tịch tịnh, cũng không phải Ta sa vào hữu kiến vì đã nói tự tính của Thánh Trí. Ta vì chúng sinh từ vô thỉ chấp trước nơi “hữu”, nên nói có cảnh giới ở trong tịch tịnh, Khiến chúng nghe rồi không sinh hoảng sợ, có thể như thật chứng pháp không tịch, lìa các mê loạn, đi vào lý duy thức, biết các pháp hữu vô ở bên ngoài đều do tâm thấy, ngộ được 3 giải thoát, được ấn như thật, thấy tự tính của pháp, rõ cảnh giới thánh, xa lìa hết thảy chấp trước hữu vô. Lại, này Đại Huệ ! Các Bồ Tát đại hữu tình không nên lập thuyết rằng “hết thảy pháp không sinh” lời ấy tự nó đã hỏng. Vì sao? Vì tôn kia có đối đãi mà sinh vậy. Lại vì tôn kia tức đã lọt vào trong số “hết thảy pháp”, cái tướng không sinh cũng không sinh. Lại vì tôn kia cũng đều không sinh, tôn ấy lọt vào trong số các pháp, nên tướng hữu vô cũng không sinh. Bởi thế “hết thảy pháp không sinh” thuyết ấy tự hỏng, không nên lập như thế, vì có nhiều lỗi lầm trong các phần của tam đoạn luận, lại có nhiều nhân khác nhau lẫn lộn trong đó. Cũng như thuyết (các pháp) không sinh, thuyết cho rằng “các pháp đều không, vô tự tính” cũng lại như vậy. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên nói hết thảy pháp như huyễn như mộng, vì vừa được thấy cũng vừa không được thấy, vì hết thảy đều là mê loạn, trừ phi vì bọn ngu phu sợ hãi. Đại Huệ ! Kẻ phàm phu ngu muội sa vào kiến chấp hữu, vô, chớ nên làm cho chúng hoảng hốt xa lìa đại thừa.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Không tự tính, không thuyết

Không sự, không chỗ y (S.Alaya)

Phàm phu phân biệt quấy

Ác giác như thây ma

“Hết thảy pháp không sinh”

Do ngoại đạo thành lập

Nhưng thuyết kia có sinh

Vì không do duyên thành

Hết thảy pháp không sinh

Kẻ trí không phân biệt

Tôn kia do nhân sinh

Nói thế tức là hỏng

Ví như mắt có màn

Vọng tưởng thấy hoa đốm

Các pháp cũng như vậy

Phàm phu vọng phân biệt

Ba cõi chỉ giả danh

Mà không có thật thể

Do giả ấy bày ra

Liền phân biệt suy lường

Các sự tướng giả danh

Làm loạn động tâm thức

Con Phật tất vượt qua

Dạo nơi vô phân biệt

Không nước chấp có nước

Đều do khát mà sinh

Ngu thấy pháp cũng vậy

Bậc thánh thì không thế

Thánh nhân thấy thanh tịnh

Sinh nơi ba giải thoát.

Xa lìa cảnh sinh diệt

Thường du cảnh vô tướng

Kẻ tu cảnh vô tướng

Thì cái “vô” cũng không

Hữu vô đều bình đẳng

Cho nên sinh quả thánh

Làm sao hết “pháp hữu”

Làm sao được bình đẳng

Nếu tâm không rõ pháp

Trong ngoài đều loạn động

Rõ rồi liền bình đẳng

Tướng loạn khi ấy hết.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Phật đã dạy: Nếu biết cảnh giới chỉ là giả danh, đều bất khả đắc, tất không có sở thủ, vì không sở thủ nên cũng không có năng thủ, cả năng thủ sở thủ đều không, nên không khởi phân biệt, ấy gọi là trí. Bạch Thế Tôn ! Vì sao mà trí kia không được cảnh? Có phải vì không rõ nghĩa một, khác, tự tướng, cọng tướng của hết thảy pháp mà nói là “không được”? Hay vì các pháp tự tướng cọng tướng nhiều thứ không giống nhau, che lấp lẫn nhau mà “không được”? Hay vì núi cao tường đá, vì hàng rào, màn, rèm làm chướng ngại che lấp mà nói là “không được”? Hay vì quá xa, quá gần, quá già, quá bé, các giác quan (căn) mù tối không đầy đủ mà gọi là “không được”? Nếu vì không rõ biết nghĩa một, khác, tự tướng cọng tướng của các pháp mà nói là không được, thì đấy không gọi là trí mà đúng là vô trí, vì có cảnh giới mà không biết được. Nếu vì các pháp có tự tướng cọng tướng không đồng, che lấp nhau mà không được, thì đây cũng là phi trí (ajnàna); vì biết nơi cảnh giới mới gọi là trí chứ không phải không biết (mà gọi là trí). Nếu vì bị núi cao tường đá, hàng rào, rèm, màn che lấp hay vì quá xa quá gần, già, bé, mù, tối mà không biết, thì đó cũng là phi trí, vì có cảnh giới mà trí không đầy đủ nên không biết.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Cái thật trí ở đây không phải như ông nói. Chỗ Ta nói không phải nói sự ẩn che; Ta nói cảnh giới chỉ là giả danh bất khả đắc, vì biết rõ do tự tâm thấy, các pháp bên ngoài có hoặc không, trí tuệ hoàn toàn không chấp. Vì không chấp nên sở tri chướng không khởi, nhập vào ba giải thoát, trí và thể đều quên; không phải như hết thảy phàm phu vì tập khí hí luận từ vô thỉ chấp trước pháp ngoài hoặc có hoặc không, chấp các hình tướng... Biết như thế gọi là không biết, không hiểu các pháp do tâm hiện, chấp ngã, ngã sở, trí phân biệt cảnh, không biết ngoại cảnh vừa có vừa không, vì tâm những kẻ ấy ở trong đoạn kiến. Vì khiến chúng xa lìa các phân biệt như thế, nên nói hết thảy pháp do tâm kiến lập.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Nếu có các sở duyên

Trí tuệ không quán thấy

Đấy là ngu, không trí

Ấy là vọng chấp trước

Vô biên tướng lấp nhau

Chướng ngại cùng xa, gần

Trí tuệ không thấy được

Đấy gọi là tà kiến

Già, bé, các căn tối

Mà thật có cảnh giới

Không thể sinh trí huệ

Ấy gọi là tà kiến.

Lại nữa, Đại Huệ ! Kẻ ngu si phàm phu bị mê hoặc từ vô thỉ vì sự hư dối, tà kiến, phân biệt, không hiểu pháp như thật và ngôn ngữ bàn về pháp ấy, chấp trước vào các tướng ở ngoài tâm và những lời thuyết pháp phương tiện; không thể tu tập pháp chân thật thanh tịnh lìa tứ cú.

Đại Huệ bạch:

Chính thế, bạch Thế Tôn, chính như Thế Tôn dạy. Nguyện xin Thế Tôn vì con nói pháp như thật (siddhàntanaya) và pháp ngôn thuyết (désanànaya), khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình hiểu rành rẽ hai pháp này, không bị lung lạc vì ngoại đạo và nhị thừa.

Phật dạy:

Ông hãy lắng nghe, lắng nghe. Ta sẽ nói cho ông. Này Đại Huệ ! Chư Như Lai trong ba đời có hai thứ pháp, ấy là pháp ngôn thuyết và pháp như thật. Ngôn thuyết pháp là tùy theo tâm của chúng sinh mà nói những giáo lý phương tiện khác nhau. Pháp như thật là người tu hành lìa phân biệt các pháp do tâm hiện, không sa vào hý luận một, khác, cùng, không cùng; siêu việt hết thảy tâm, ý, ý thức; ở nơi cảnh giới của Thánh Trí Tự Chứng, lìa các kiến chấp về nhân duyên, tương ưng; hết thảy ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, những người sa vào nhị biên đều không thể biết được, ấy gọi là pháp như thật. Hai thứ pháp ấy, ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình nên khéo tu học.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Ta nói hai thứ pháp

“Ngôn giáo” và “như thật”

Giáo pháp cho phàm phu

Thật pháp bậc tu hành.

Lúc bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Có lần Như Lai dạy rằng Lô Ca Gia Đà (Lokàyatika – Thế luận) nói các chú thuật (mantrapratibhàna) chỉ thu được tài lợi chứ không được pháp lợi, vì không được pháp lợi nên không đáng gần gũi thừa sự cúng dường. Vì sao Thế Tôn dạy như vậy?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Các luận văn của Lô Ca Gia Đà chỉ tô điểm lời văn làm mê cuồng kẻ phàm ngu, tùy thuận thế gian mà hư vọng nói, không đúng nghĩa, không xứng lý, không thể chứng nhập cảnh giới chân thật, không thể hiểu rõ hết thảy các pháp, thường sa vào nhị biên, tự mình đã mất chính đạo, lại còn khiến người khác mất, luân hồi qua các đường tà mãi mãi không ra được. Vì sao? Vì không hiểu các pháp do tâm hiện, chấp vào cảnh ngoài tăng thêm phân biệt. Cho nên ta nói thế luận trau dồi câu, lời, lý lẽ, thí dụ, chỉ lừa bịp kẻ ngu, không thể giải thoát được các hoạn nạn sinh, già, bệnh, chết, sầu khổ. Này Đại Huệ ! Thích đề hoàn nhân (Indra) rộng giải thích các luận, và chính ông cũng tạo nhiều bộ luận (and was himself the author of a work on sound – Suzuki, p150). Kẻ thế luận kia có một đệ tử hóa hiện làm thân con rồng đi đến cung trời Đế Thích, rồi lập một luận tôn (mệnh đề) và thách Đế Thích rằng: “Này Kiều Thi Ca, tôi cùng ông tranh luận, nếu ông thua, tôi sẽ phá xe một ngàn căm của ông, nếu tôi thua, tôi sẽ cắt hết những cái đầu của tôi để chịu phục. Nói xong, bèn dùng phương pháp biện luận đánh bại Đế Thích, phá xe một ngàn căm. Đế Thích phải trở xuống lại cõi thế. Đại Huệ ! Ngôn luận thế gian (lokàyatika) có đầy đủ nhân, dụ, đến có thể hiện hình làm rồng, dùng văn từ đẹp mà mê hoặc loài trời cùng A Tu La, khiến họ chấp trước vào các kiến sinh, diệt v.v.. huống chi là loài người. Bởi thế Đại Huệ, ông không nên thân cận thừa sự cúng dường, vì những kẻ kia có thể làm sinh nhân khổ. Đại Huệ ! Thế luận chỉ nói cảnh giới do thân chứng biết. Này Đại Huệ ! Thế luận có trăm ngàn câu lời, trong đời vị lai ác kiến trái nhau, tà chúng phân tán, tách ra thành nhiều bộ, mỗi bộ một lý thuyết riêng. Đại Huệ ! Không phải các ngoại đạo khác có thể lập giáo, chỉ có Lô Ca Gia dùng trăm ngàn câu, rộng nói vô lượng luận cứ (reasonings) sai biệt, không phải lý như thật. Lại chính họ cũng không biết đấy là pháp làm mê hoặc thế nhân.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát nói:

Bạch Thế Tôn ! Nếu các luận do Lô Ca Gia tạo – đủ các văn tự nguyên nhân, thí dụ trau chuốt – không phải là pháp như thật, chỉ do Lô Ca Gia chấp trước vào lý thuyết của mình, nếu luận ấy gọi là ngoại đạo thì Thế Tôn cũng có nói các sự việc thế gian, nghĩa là có dùng các món văn, câu, ngôn từ mà rộng nói cho chúng hội trời, người ở khắp các cõi nước trong mười phương tụ đến, không phải là pháp của tự trí đã chứng được. Vậy thì Thế Tôn cũng nói đồng như ngoại đạo chăng.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Ta không dạy thế luận (lokàyata) cũng không dạy đến, đi (àyavyrya). Ta nói các pháp không đến không đi (cf. s. I teach that which is not coming and going). Này Đại Huệ ! Đến, ấy là nhóm tụ, sinh trưởng. Đi, ấy là diệt, không đến không đi, ấy tức là không sinh không diệt. Vì sao? Vì ta không chấp vào hữu vô của ngoại pháp, vì biết chỉ do tự tâm, không thấy hai thủ, không sinh phân biệt cảnh giới của các tướng, nhập vào pháp môn không, vô tướng, vô nguyện mà được giải thoát. Đại Huệ ! Ta nhớ có lần Ta ở lại một nơi nào đó, có kẻ thế luận bà la môn đến , thốt nhiên hỏi Ta: “Cồ Đàm ! Có phải hết thảy đều được tạo nên chăng?” Ta đáp: “Này bà la môn, nếu hết thảy được tạo ấy là thế luận (materialism) đầu tiên.” Người ấy lại hỏi: “Tất cả đều không được tạo chăng?” Ta đáp: “Tất cả đều không được tạo, đây là thế luận thứ hai.” Người kia lại hỏi: “Tất cả là thường chăng? Vô thường chăng? Sinh chăng? Không sinh chăng?” Ta đáp: “Đấy là thế luận thứ sáu.” Người kia lại hỏi: “Tất cả là một chăng? Là khác chăng? Là cùng (câu) chăng? Không cùng (bất câu) chăng? Tất cả đều do các nhân duyên mà sinh chăng?” Ta đáp: “Đó là thế luận thứ mười một.” Người kia hỏi nữa: “Hết thảy đều có thể giải thích (hữu ký – Vyàktra) chăng? Có linh hồn chăng? Có thế giới này chăng? Không có thế giới này chăng? Có giải thoát chăng? Không có giải thoát chăng? Tất cả đều là sát na (chóng qua – momentary) chăng? Không sát na chăng? Hư không, Niết Bàn cùng phi trạch diệt (Apratisamkhyànirodha) là được tạo tác chăng? Không dược tạo tác chăng? Có trung hữu (antã àbhava) chăng? Không có trung hữu chăng?” Ta đáp rằng: “Này bà la môn, tất cả đó đều là thế luận của ông, không phải thuyết của Ta. Bà la môn ! Ta nói do các tập khí hý luận từ vô thỉ mà sinh ba cõi, không hiểu rõ chỉ do tự tâm thấy, còn ngoại pháp bị chấp thủ đó thật không thể nắm bắt (bất khả đắc). Theo thuyết ngoại đạo, thì linh hồn (ngã), căn, cảnh cả ba hòa hiệp sinh. Ta không nói có nhân, cũng không nói không nhân, chỉ y theo năng thủ sở thủ của vọng tâm mà nói duyên khởi, không phải cái mà ông cùng những người thủ trước nơi linh hồn có thể hiểu thấu.” Đại Huệ ! Hư không, Niết Bàn cùng phi trạch diệt chỉ có con số 3, vốn không có thể tính, huống nữa là nói tác cùng phi tác (được tạo hay không được tạo). Đại Huệ ! Khi ấy người thế luận bà la môn lại hỏi Ta rằng: “Do vô minh, ái nghiệp làm nhân duyên mà có tam giới chăng? Hay là không nhân chăng?” Ta đáp: “Đấy hai câu ấy cũng là thế luận. Này bà la môn ! cho đến có một chút gì động lưu phân biệt của tâm thức đối với ngoại cảnh đều là thế luận.” Này Đại Huệ ! Khi ấy người bà la môn lại hỏi ta rằng: “Có gì không phải là thế luận chăng? Tất cả những luận từ các thứ văn, câu, nhân, dụ trau chuốt của ngoại đạo, không có gì là không do từ trong pháp của Ta mà ra.” Ta đáp: “Có. Không phải là những gì ông tin vào, chứ không phải là mọi người không chấp nhận; không phải không nói tương ưng với các thứ văn các nghĩa lý, cũng không phải không tương ưng.” Người kia lại hỏi: “Có một luận nào không phải là thế luận mà được thế gian chấp thuận chăng?” Ta nói: “Có; nhưng không phải là cái mà ông cùng hết thảy ngoại đạo có thể biết. Vì sao? Vì (các ông) hư vọng phân biệt, chấp trước sự vật bên ngoài. Nếu hiểu được các pháp hữu, vô đều do tự tâm thấy, không sinh phân biệt, không ôm giữ ngoại cảnh, an trú trong cảnh “tự xứ” (cf.Suz.154) “tự xứ trú” thì không khởi phân biệt. Đấy là pháp Ta, không thuộc về ngươi. Này bà la môn ! Nói tóm lại bất cứ chỗ nào tâm thức có qua, lại, diệt, sinh, có cầu mong, bám víu, đối với sự vật có tham ái, đối với quan điểm có chấp trước, đều là thế luận của ông, không phải pháp Ta.” Này Đại Huệ ! Kẻ thế luận bà la môn đã hỏi như thế, ta đã đáp như thế. Người kia không hỏi Ta về thật pháp của Ta, mà im lặng bỏ đi, nghĩ như vầy: “Sa Môn Cù Đàm không có gì đáng tôn trọng, nói hết thảy pháp không sinh không tướng không nhân không duyên, chỉ do tự tâm phân biệt thấy, nếu hiểu được như thế thì không sinh phân biệt.” Đại Huệ ! Ông nay cũng hỏi Ta nghĩa ấy: Vì sao một người gần gũi Thế luận chỉ được tài lợi, không được pháp lợi (Dharmasamgraha).

Đại Huệ bạch:

Bạch Thế Tôn, tài và pháp mà Thế Tôn dạy ấy có nghĩa là gì?

Phật đáp:

Hay lắm ! Ông vì chúng sinh đời sau mà suy nghĩ nghĩa ấy. Ông hãy lắng nghe, lắng nghe. Ta sẽ nói cho ông. Đại Huệ này, tài là cái gì có thể sờ được, nhận được, cầm nắm ôm giữ được, nếm được, khiến người ta bám víu ngoại cảnh, sa vào nhị nguyên, tăng trưởng tham ái, sinh lão bệnh tử buồn lo khổ não; Ta và chư Phật gọi đó là tài lợi, do gần gũi thế luận mà thâm nhập. Sao gọi là pháp lợi? Ấy là hiểu rõ pháp chỉ là tâm, thấy được hai vô ngã, không nắm giữ tướng, không phân biệt; biết rõ các giai đoạn tu hành, lìa tâm, ý, thức, được chư Phật lấy nước cam lộ rưới đầu, nhận và làm đầy đủ mười nguyện vô tận, được tự tại đối với tất cả pháp, đấy gọi là pháp lợi, vì không sa vào kiến chấp, hý luận, phân biệt nhị nguyên. Này Đại Huệ ! Thế luận của ngoại đạo khiến kẻ ngu sa vào hai bên là thường và đoạn. Chấp nhận thuyết vô nhân (Ahetuvàda) là thường kiến (Sàsvata- drsti); cho rằng các nhân đều hoại diệt là đoạn kiến (ucchedadrsti). Không thấy có sinh trú diệt, Ta gọi là được pháp lợi. Đấy là sự khác nhau giữa tài và pháp; ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình hãy siêng quán sát.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Điều phục, nhiếp chúng sinh

Lấy giới hàng phục ác

Trí Tuệ diệt kiến chấp

Giải thoát được tăng trưởng

Các tà thuyết ngoại đạo

Đều là luận thế gian

Vọng chấp tác, sở tác

Không thể tự chứng thành

Chỉ có thuyết của Ta

Không chấp trước năng, sở

Nói ra cho đệ tử

Để chúng lìa thế luận

Pháp năng thủ, sở thủ

Ngoài tâm không thể có

Cả hai do tâm hiện

Đoạn, thường bất khả đắc

Chỉ một mảy động tâm

Đó đều là thế luận

Người không khởi phân biệt

Mới thấy rõ tự tâm

“Đến” là do thấy có

“Đi” là do thấy “không”

Hiểu thấu rõ đến, đi

Không khởi sinh phân biệt

Hữu thường cùng vô thường

Được tạo, không được tạo

Cõi này và cõi khác

Đều là pháp thế gian.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, những pháp gì là Niết Bàn mà các ngoại đạo phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Niết Bàn theo các ngoại đạo phân biệt đều không phù hợp với tướng của Niết Bàn. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Đại Huệ! Hoặc có ngoại đạo nói: Thấy các pháp vô thường nên không tham cảnh giới, uẩn giới xứ đều diệt, tâm tâm sở không hiện ra, không nhớ nghĩ cảnh quá, hiện, vị lai, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hoại, như lửa đã tàn, không ôm giữ không dính mắc, không sinh các phân biệt... cho đó là Niết Bàn. Này Đại Huệ ! Không phải vì thấy hoại mà gọi là Niết Bàn.

Có người cho rằng Niết Bàn là đi đến một nơi khác, chỗ lìa cái tưởng về cảnh giới, như gió ngừng lại. Có người cho rằng Niết Bàn là không thấy có người biết và pháp bị biết. Có người cho rằng Niết Bàn là không khởi kiến chấp phân biệt thường, vô thường. Có người lại bảo: “Phân biệt các tướng làm phát sinh ra khổ”, mà không biết tướng do tự tâm hiện. Vì không biết nên sợ hãi tướng, cầu cái vô tướng, sinh ham thích sâu xa (cái vô tướng), chấp đó là Niết Bàn. Có người biết rõ các pháp nội, ngoại tự tướng cọng tướng trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều có tự tính không hoại diệt, tưởng đó là Niết Bàn. Có người chấp rằng ta, người, chúng sinh và thọ mạng cùng hết thảy pháp không có gì hoại diệt, tưởng đấy là Niết Bàn. Lại có hàng ngoại đạo không trí tuệ, chấp có thần ngã (Prakti, primary substance), sĩ phu (supreme soul), “Thật”, câu na (guna) xoay vần biến hóa làm ra muôn vật; cho đó là Niết Bàn. Lại có ngoại đạo cho Niết Bàn là chấm dứt phước cùng phi phước. Có kẻ chấp không do trí tuệ mà các phiền não dứt. Có kẻ chấp Tự Tại (Isvara) là đấng tác giả chân thật, là Niết Bàn. Có kẻ chấp chúng sinh xoay vần sinh lẫn nhau, cho đó là nhân, ngoài ra không có nhân khác. Vì những kẻ ngu không hiểu rõ nên chấp đấy là Niết Bàn. Có kẻ chấp rằng đạt đến đúng đường ấy là Niết Bàn. Có kẻ chấp Niết Bàn là khi có sự hòa hiệp giữa Câu na và chủ tể của câu na, giữa tính một và khác, cùng và không cùng. Có kẻ chấp mọi vật do tự nhiên sinh (Suz. Dịch: Có kẻ cho Niết Bàn là thấy mọi vật đều tồn tại do bản chất của riêng chúng.) như sắc lông sặc sỡ của chim khổng tước, hay cái bén nhọn của gai góc, hay chỗ sinh báu vật thì có các thứ báu, những vật như vậy do ai tạo đâu? Liền chấp tự nhiên sinh, lấy đó làm Niết Bàn. Hoặc chấp hiểu rõ 25 đế (tattvas) là được Niết Bàn. Lại có kẻ nói giữ được 6 hạnh gìn giữ chúng sinh là được Niết Bàn. Lại có người cho rằng Thời sinh ra thế gian, vậy Thời tức là Niết Bàn. Hoặc chấp các vật “có” là Niết Bàn, hoặc chấp không vật là Niết Bàn, lại có kẻ chấp mọi vật hữu, vô đều là Niết Bàn, hoặc chấp các vật và Niết Bàn không khác nhau, đấy là Niết Bàn. Này Đại Huệ ! Lại có những người nói khác với những gì ngoại đạo nói, dùng nhất thiết trí và âm thanh của sư tử rống mà nói, hiểu thấu được cảnh duy tâm, không giữ cảnh ngoài, xa lìa bốn cú (àtuskotika), an trú nơi “như thật” (yathàbhùta), không sa vào nhị nguyên, lìa năng thủ sở thủ, không rơi vào các lượng (đo lường), không bám trước chân thật, an trú nơi pháp hiện chứng của thánh trí, ngộ hai vô ngã, lìa hai phiền não, sạch hai chướng, lần lượt tu các địa Bồ Tát, nhập vào Phật dịa, được các định như huyễn v.v.. vĩnh viễn siêu việt tâm, ý, ý thức gọi là được Niết Bàn. Này Đại Huệ ! Những ngoại đạo kia chấp trước hư vọng, không đúng lý, chấp những điều mà bậc trí lìa bỏ, đều là đọa vào hai bên mà tưởng Niết Bàn. Nơi đây không ở không ra, ngoại đạo kia đều do thuyết của mình mà sinh vọng giác, trái ngược với lý, không thành cái gì; chỉ khiến tâm ý dong ruỗi qua lại tán loạn, rốt ráo không được Niết Bàn. Ông và các Bồ Tát nên xa lìa.

Thế Tôn nói bài tụng:

Ngoại đạo nói Niết Bàn

Mỗi mỗi đều sai biệt

Đấy chỉ là vọng tưởng

Không phải phương giải thoát

Xa lìa các phương tiện

Không đến cảnh vô phược

Vọng sinh tưởng giải thoát

Mà thật không giải thoát

Các thuyết của ngoại đạo

Đều chấp thủ khác nhau

Họ không được giải thoát

Ngu si vọng phân biệt

Hết thảy ngoại đạo si

Vọng thấy tác, sở tác

Chấp trước luận hữu vô

Nên không được giải thoát

Phàm phu ưa phân biệt

Không sinh trí chân thật

Ngôn thuyết gốc ba cõi

Chân thật nhân diệt khổ

Thí như bóng trong gương

Chỉ hiện mà không thực

Trong tập khí, gương tâm

Phàm phu thấy có hai

Không hiểu duy tâm hiện

Nên khởi hai phân biệt

Nếu biết chỉ là tâm

Thì phân biệt không sinh

Tâm tức là các tướng

(nhưng) lìa tướng, sở tướng

Như kẻ ngu phân biệt

Tuy thấy mà không thấy

Ba cõi do phân biệt

Ngoại cảnh toàn không có

Vọng tưởng hiện các thứ

Kẻ phàm phu không biết

Các kinh nói khác nhau

Chỉ khác trên danh tự

Nhưng lìa nơi ngữ ngôn

Thì không thể nắm nghĩa.

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn giảng cho con tính tự giác của Như Lai (Tathàgata), Ứng Chính Đẳng Giác, khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình hiểu rành rẽ rồi tự giác ngộ, giúp người giác ngộ.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Như ông hỏi, ta sẽ nói cho ông.

Đại Huệ nói:

Vâng , bạch Thế Tôn ! Đấng Như Lai, Ứng Cúng Chính Đẳng Giác là được tạo thành hay không được tạo thành, là quả hay nhân, là tướng (predicat- ting) hay sở tướng (predicated), là thuyết hay sở thuyết (an expression or what is expressed), là giác (knowledge) hay sở giác (that which is know-able...) tất cả những điều ấy, Như Lai đều như thế hay đều không như thế?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Đấng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác không phải tác (created) cũng không phải phi tác, không phải quả không phải nhân, không phải tướng không phải sở tướng, không phải thuyết không phải sở thuyết, không phải giác không phải sở giác. Vì sao? Vì những điều như thế đều bị mắc vào lỗi nhị nguyên. Này Đại Huệ ! Nếu Như Lai là được tạo thành (tác) tức là vô thường, nếu vô thường thì hết thảy pháp được tạo tác đều là Như Lai cả, điều ấy ta cùng chư Phật không chấp nhận. Nếu Như Lai được tạo tác tức là không có thể tính, thì hóa ra tất cả những phương tiện tu hành (để chứng quả) thành không, vô ích, giống như sừng thỏ, con của thạch nữ, vì không do nhân tạo thành. Nếu không phải nhân không phải quả tức không có không không; nếu không có không không tức vượt ngoài tứ cú. Nói tứ cú nghĩa là chỉ thuận theo thế gian mà có ngôn thuyết. Nếu vượt ngoài tứ cú, chỉ có ngôn thuyết mà thôi thì khác nào con của thạch nữ. Đại Huệ ! Con của thạch nữ chỉ có ngôn thuyết không ở trong tứ cú, vì không ở trong tứ cú nên không thể suy lường. Những người có trí tuệ nên biết như vậy đối với nghĩa của tất cả những lập luận về Như Lai. Này Đại Huệ ! Như Lai có nói “ các pháp là vô ngã” (niràtmànah sarvadharmàh), vì trong các pháp không có tính ngã nên nói là vô ngã, chứ không phải là không có tự tính các pháp. Nên biết những cú nghĩa về Như Lai cũng thế. Này Đại Huệ ! Thí như trâu không có tính ngựa, ngựa không có tính trâu, chứ không phải là không có tự tính. Hết thảy các pháp cũng vậy; không có tự tướng, không có mà có (phi phi hữu tức hữu ?), không phải là chỗ phàm phu có thể biết. Vì sao không biết? Vì phân biệt vậy. Hết thảy pháp không sinh, hết thảy pháp không tự tính, tất cũng như vậy. Này Đại Huệ ! Như Lai và uẩn không khác, không không khác. Nếu không khác tức vô thường, vì các uẩn là được tạo. Nếu khác thì như hai sừng trâu có chỗ khác và cũng có chỗ không khác vậy. Vì hai sừng trông giống nhau nên không khác, cái ngắn cái dài nên có khác. Như sừng bên phải khác sừng bên trái, sừng trái khác sừng phải, ngắn dài không đồng sắc tướng cũng khác, nhưng cũng không khác.

Uẩn, giới xứ v.v.. cũng vậy, hết thảy pháp đều như vậy. Đại Huệ ! Như Lai ấy là y chỗ giải thoát mà nói, Như Lai và giải thoát không khác cũng không không khác. Nếu khác, thì Như Lai tức tương ưng với sắc tướng, mà tương ưng sắc tướng tức là vô thường. Nếu không khác, thì lẽ ra không thấy các sai biệt trong những người tu hành nhưng thật thì có sai biệt, nên không phải là không khác.

Trí và sở tri (cái biết và pháp được biết) cũng thế, không khác cũng không không khác. Nếu không khác không không khác tức là không phải thường cũng không phải vô thường, không phải tác, không sở tác, không phải hữu vi cũng không phải vô vi, không phải giác không phải sở giác, không phải tướng không phải sở tướng, không phải uẩn không phải khác uẩn, không phải thuyết không phải sở thuyết, không phải một không phải khác, không phải cùng nhau không phải không cùng nhau. Vì nghĩa ấy nên siêu việt hết thảy suy lường. Vì siêu việt suy lường nên chỉ có trên danh tự, vì chỉ có trên danh tự nên không có sinh, vì không có sinh nên không có diệt, vì không có diệt nên như hư không. Này Đại Huệ ! Hư không không phải tác (nhân) cũng không phải sở tác (quả). Vì không phải nhân không phải quả nên xa lìa phan duyên (Niràlambya), vì xa lìa phan duyên nên vượt ra ngoài hết thảy những pháp hí luận. Vượt ngoài hết thảy pháp hí luận ấy là Như Lai. Như Lai chính là thể Chính Đẳng Giác. Chính Đẳng Giác ấy là viễn ly tất cả căn, cảnh giới.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Vượt ngoài căn suy lường

Không phải quả hay nhân

Tướng hay là sở tướng

Tất cả đều xa lìa

Uẩn, duyên, cùng chính giác

Một, khác, không ai thấy

Đã không có ai thấy

Sao còn sinh phân biệt

Không phải tác, sở tác

Không nhân, không không nhân

Không uẩn, không lìa uẩn

Cũng không lìa các vật

Không phải có pháp thể

Như phân biệt kia thấy

Lại không phải là không

Các pháp tính như vậy

Đối có thành ra không

Đối với “không” nên có

Không đã không thể giữ

Có cũng không nên nói

Không rõ ngã vô ngã

Chỉ chấp nơi danh từ

Kẻ kia chìm nhị biên

Hoại mình, hoại thế gian

Nếu hay thấy pháp này

Liền lìa hết các lỗi

Đó gọi là chính quán

Không hủy báng Đạo Sư

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như trong kinh Phật dạy đức Như Lai không phải chịu sự sinh, diệt, và Thế Tôn lại dạy Bất sinh bất diệt ấy cũng là một tên gọi khác để chỉ Như Lai. Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn chỉ dạy. Cái lẽ bất sinh bất diệt ấy tức là vô pháp (non-entity), sao lại nói đấy là tên khác của Như Lai. Như Thế Tôn dạy: “Hết thảy pháp không sinh không diệt”, nên biết đó tức là sa vào các kiến chấp hữu, vô. Nếu pháp không sinh tức không thể giữ, không có một chút pháp nào cả thì ai là Như Lai? Xin Thế Tôn giảng rõ.

Phật dạy:

- hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Này Đại Huệ ! Ta nói Như Lai không phải là vô pháp, lại không phải là thâu nhận (nhiếp thủ) các pháp bất sinh bất diệt, cũng không đối đãi nhân duyên (để xuất hiện), cũng không phải là vô nghĩa. Ta nói vô sinh tức là một tên khác cho “pháp thân do ý sinh” (mano- mayadharmakàya) của Như Lai. Hết thảy ngoại đạo Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát thất địa không rõ ý ấy. Đại Huệ ! Thí như Đế Thích (sakra), đất, hư không, cho đến chân tay, tùy theo mỗi vật, mỗi thứ đều có nhiều tên. Không phải vì có nhiều tên mà thành ra có nhiều thể, hay thành vô thể. Đại Huệ ! Ta cũng như thế, ở nơi thế giới Ta Bà này, có ba a tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, những kẻ phàm ngu tuy nghe tuy nói mà không biết đấy là tên khác của Như Lai. Trong số ấy có người hoặc nhận Ta là Như Lai, có người cho Ta là bậc Vô Sư (Svayambhù), hay đấng Đạo Sư (Nàyaka), hay đấng Thắng Đạo (Vinàyaka), Phổ Đạo (Parinàyaka), hay Phật, hay Ngưu Vương hay Phạm Vương (Brahman), hay Tùy Hữu (Visnu), hay Tự Tại (Isvara), hay đấng Thắng Giả (Pradhàna), hay đấng Ca Tỳ La (Kapila), hay đấng Chân Thật Biên (Bhùtànta), đấng Vô Tận (Ariskta?), đấng Đoan Tướng (Nemina?); hoặc có kẻ cho Ta như thần gió, thần lửa, hay đấng Câu Tỳ La, hay mặt trăng, hay mặt trời, hay như vì vua, hay như tiên nhân, hay như đấng Thức Ca (Suka), hay như Nhân Đà La (Indra), như sao, như sức mạnh lớn, như nước, như cái vô diệt, như cái không sinh, như Tính không, như Chân Như (Tathatà), như Đế (Satyatà), Thật tính (Bhùtatà), Thật Tế (Shùtakoti), Pháp giới (Dharmadhàtu), Niết Bàn, Thường Trụ, Bình Đẳng, Vô nhị, Vô Tướng, Tịch Diệt, Cụ Tướng, Nhân Duyên, Phật Tính, Giáo Đạo, Đạo Lộ, Nhất Thế Trí, Đấng Tối Thắng (Jina), đấng Ý Thành Thân... hết thảy những tên như thế, đầy ba a tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, không tăng không giảm. Trong thế giới này cùng các thế giới khác, có những kẻ biết Ta như trăng trong nước không vào không ra, nhưng hạng phàm ngu tâm bị chìm đắm nơi nhị biên không thể hiểu thấu, mà cũng tôn trọng cúng dường thừa sự, không khéo giải danh tự cú nghĩa, chấp ngôn giáo, mê muội đối với lẽ chân thật, cho rằng vô sinh vô diệt tức là không thể tính, mà không biết đấy là một danh hiệu khác của Phật như Nhân Đà La, Đế Kiệt La v.v.. Vì tin nơi ngôn giáo, mê muội chân thật, ở hết thảy pháp đều y theo lời (bhùta) mà nắm lấy nghĩa (atrha), nên những kẻ phàm ngu kia nói: “Nghĩa chính là lời, nghĩa và lời không khác. Vì sao? Vì nghĩa không thể tính (nên không khác với lời. Suz. 166)”. Kẻ ấy không hiểu rõ tự tính của ngôn âm; cho rằng ngôn tức là nghĩa, không có thể tính riêng biệt cho nghĩa. Đại Huệ ! Kẻ kia ngu si không biết rằng ngôn thuyết thì có sinh diệt, còn nghĩa thì không sinh diệt. Đại Huệ! Hết thảy ngôn thuyết đều sa vào văn tự, còn nghĩa thì không (sa vào), vì lìa có và không, không sinh, không thể tính. Đại Huệ ! Như Lai không nói pháp sa vào văn tự, vì hữu và vô của văn tự đều bất khả đắc. Đại Huệ ! Nếu có người nói những pháp sa vào văn tự, ấy là pháp hư dối. Vì sao? Vì tự tính của các pháp lìa văn tự. Cho nên, này Đại Huệ ! Trong kinh Ta nói: “Ta cùng chư Phật và Bồ Tát không nói một chữ không đáp một tiếng nào”. Vì sao? Vì hết thảy pháp lìa văn tự. Nhưng không phải là ta không thuận theo nghĩa mà phân biệt nói. Đại Huệ ! Nếu không nói thì giáo pháp phải đứt đoạn, giáo pháp đoạn đứt thì không có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Nếu tất cả đều không thì ai nói pháp và nói cho ai? Bởi thế, Đại Huệ này, Bồ Tát đại hữu tình không nên chấp trước nơi văn tự, mà phải tùy nghi thuyết pháp. Ta cùng chư Phật đều tùy những thứ phiền não, ưa muốn và hiểu biết không đồng của chúng sinh mà khai diễn cho chúng, khiến chúng biết các pháp đều do tâm hiện, không có cảnh ngoài, xả bỏ hai phân biệt, chuyển hóa tâm, ý thức; chứ không phải vì chúng mà nói pháp do Thánh Trí Tự Chứng (Su. có thêm một đoạn). Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên theo nghĩa, chớ theo văn tự, theo văn tự thì đọa vào ác kiến; chấp trước chủ trương của mình mà khởi ngôn thuyết, không thể hiểu rõ các pháp tướng văn từ chương cú, đã tự hại còn hại người, không thể khiến tâm người giải ngộ. Nếu khéo biết rõ hết thảy pháp tướng, văn từ cú nghĩa đều thông, thì có thể khiến tự mình thọ cái vui vô tướng, mà còn giúp người an trú đại thừa. Nếu khiến được người an trú đại thừa thì liền được hết thảy chư Phật Thanh Văn Duyên Giác cùng chư Bồ Tát thâu nhận. Nếu được chư Phật, Thanh Văn... thâu nhận thì có thể thâu nhận hết thảy chúng sinh, có thể thâu nhận hết thảy chính pháp. Nếu nhiếp thọ được hết thảy chính pháp thì không làm đứt đoạn hạt giống Phật (Budhavamsa). Nếu không đoạn giống Phật thì được chỗ thù thắng tốt đẹp. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình sinh chỗ tốt đẹp thù thắng, muốn chúng sinh an trú đại thừa, dùng mười lực tự tại hiện các hình tướng, tùy căn cơ của họ mà nói pháp chân thật. Chân thật pháp ấy là không hai, không phân biệt, không đến không đi, hết thảy hí luận đều bặt dứt. Cho nên, này Đại Huệ ! Thiện nam, thiện nữ không nên y lời mà chấp nghĩa. Vì sao? Vì pháp chân thật lìa văn tự. Đại huệ ! Thí dụ có người dùng ngón tay chỉ sự vật, đứa bé con chỉ nhìn ngón tay không nhìn vật. Kẻ phàm phu ngu si cũng vậy, theo nơi ngón tay ngôn thuyết mà sinh chấp trước, thậm chí đến chết cũng không xả bỏ được ngón tay văn tự để nắm đệ nhất nghĩa. Đại Huệ ! Thí như con nít mới sinh đáng phải ăn đồ chín; có người không biết rành cách nấu chín, mà cho nó ăn đồ sống tất phát cuồng loạn. Bất sinh bất diệt cũng thế, không tu phương tiện tất là không tốt. Vì thế hãy nên khéo tu phương tiện, chớ theo ngôn thuyết như nhìn đầu ngón tay. Đại Huệ ! Nghĩa chân thật vốn vi diệu tịch tịnh, ấy là nhân của Niết Bàn. Ngôn thuyết thì cùng với vọng tưởng mà khiến người trôi lăn trong sinh tử. Đại Huệ ! Thật nghĩa là do nghe nhiều mà được, nghe nhiều là rành nghĩa không phải rành lời. Người rành nghĩa không theo ác kiến ngoại đạo, tự mình không theo, cũng khiến người không theo. Ấy gọi là nghe nhiều nơi nghĩa, kẻ muốn cầu nghĩa nên gần gũi hạng người này và xa lìa những kẻ chấp trước văn tự.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình nương thần lực Phật mà bạch:

Bạch Thế Tôn ! Như Lai diễn nói bất sinh bất diệt không có gì là kỳ lạ đặc biệt. Vì sao? Hết thảy ngoại đạo cũng nói đấng “Tạo tác tác giả” không sinh không diệt; Thế Tôn cũng nói hư không Niết Bàn cùng phi sát diệt (Amatisamkhyànirodha) là bất sinh bất diệt. Ngoại đạo nói đấng tác giả làm nhân duyên sinh ra thế gian, Thế Tôn cũng nói vô minh ái nghiệp sinh ra các thế gian. Cả hai thuyết đều nói nhân duyên sinh, chỉ khác trên danh từ. Vì nhân duyên của các vật bên ngoài cũng thế. Cho nên thuyết của Phật và của ngoại đạo không có sai biệt. Ngoại đạo nói: “Vi trần, thắng diệu (pradhàna), Tự tại (Isvara), Sinh chủ (Prajàpati) v.v.. 9 thứ (Navadra- vya) như vậy là bất sinh bất diệt. Thế Tôn cũng nói hết thảy pháp không sinh không diệt; có hay không đều bất khả đắc. Bạch Thế Tôn ! Các đại chủng không hoại, vì tự tính của chúng không sinh không diệt, lan khắp các cõi mà vẫn không mất tự tính. Bạch Thế Tôn ! Tuy phân biệt thì có biến đổi chút ít, song hết thảy những điều Như Lai dạy không có gì là ngoại đạo không đã nói rồi. Cho nên Phật pháp cũng giống như ngoại đạo. Nếu không giống thì xin Phật diễn bày cho con thuyết của Phật hơn ngoại đạo ở chỗ nào. Nếu không có sai biệt thì ngoại đạo tức là Phật; vì họ cũng nói bất sinh bất diệt vậy. Thế Tôn thường dạy trong một thế giới không có nhiều Phật, nhưng theo đây thì có.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Chỗ Ta nói không sinh không diệt không đồng với bất sinh bất diệt của ngoại đạo, cũng không đồng với luận của họ về sinh và vô thường (dịch theo Sz.). Vì sao? Thuyết của ngoại đạo là có thật tính không sinh không biến đổi. Ta không sa vào hữu, vô như vậy. Pháp Ta nói không hữu không vô, lìa sinh lìa diệt. Sao là phi vô? Vì như thấy các hình sắc huyễn mộng. Sao gọi là phi hữu? Vì tự tính của sắc tướng không phải có, nhưng nó đồng thời vừa được thấy vừa không được thấy, vừa được nắm giữ vừa không được nắm giữ. Cho nên Ta nói hết thảy pháp không phải có không phải không. Nếu biết rõ tất cả chỉ do tự tâm thấy, thì liền an trú tự tính, không sinh phân biệt, các việc tạo tác ở thế gian sẽ đều chấm dứt. Phân biệt ấy là việc của phàm phu, không phải hiền thánh. Đại Huệ ! Vọng tâm phân biệt cảnh giới không thật, như người huyễn cùng người huyễn buôn bán ra vào trong thành Càn thát bà, tâm mê phân biệt cho là có thật. Những chuyện kẻ phàm ngu thấy như sinh bất sinh, hữu vi vô vi cũng thế, như người huyễn sinh, người huyễn diệt. Người huyễn thật ra không sinh không diệt. Các pháp cũng vậy, lìa sinh diệt. Này Đại Huệ ! Kẻ phàm phu hư vọng khởi quan niệm sinh diệt, thánh nhân không vậy. Nói hư vọng nghĩa là không như pháp tính. Khởi kiến chấp điên đảo. Điên đảo kiến là chấp pháp có thể tính. Không thấy được chỗ vắng lặng. Vì không thấy vắng lặng nên không thể xa lìa hư vọng phân biệt. Cho nên, này Đại Huệ ! Cái thấy vô tướng là thù thắng, không phải cái thấy có tướng. Tướng là nhân của sinh, nếu không có tướng tất không có phân biệt. Không sinh không diệt ấy là Niết Bàn. Đại Huệ ! Nói Niết Bàn ấy nghĩa là thấy chỗ “như thật” xa lìa các pháp tâm và tâm sở phân biệt, được thánh trí nội chứng của Như Lai. Ta nói đấy là Niết Bàn tịch tịnh.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Để trừ chấp có sinh

Thành lập nghĩa không sinh

Ta nói luận vô nhân

Kẻ ngu không hiểu được

Hết thảy pháp không sinh

Cũng không là vô pháp

Như Càn thành, huyễn mộng

Tuy có mà không nhân

Không, vô sinh, vô tính

Có gì mà Ta nói?

Lìa các duyên hòa hợp

Kẻ trí không hay thấy

Vì thế nên ta nói

Không vô sinh vô tính

Mỗi mỗi duyên hòa hợp

Chỉ hiện chứ không có

Phân tích không hòa hợp

Không như ngoại đạo thấy

Như mộng và tóc rũ ? (thùy phát)

Huyễn sự cùng Càn thành

Không nhân mà vọng thấy

Thế sự cũng như vậy

Chiết phục luận hữu nhân

Bày rõ lý vô sinh

Nghĩa vô sinh nếu còn

Pháp nhãn thường không diệt

Ta nói luận vô nhân

Ngoại đạo đều sợ hãi

Làm sao, và nhân đâu

Lại vì sao mà sinh

Hòa hiệp ở chỗ nào

Mà lập vô nhân luận?

Quán sát pháp hữu vi

Không nhân không vô nhân

Nên luận sinh diệt kia

Do đó mà bị phá

Vì vô nên không sinh

Hay vì đổi các duyên?

Hay có tên không nghĩa

Nguyện Phật vì con nói

Vô pháp không bất sinh

Cũng không phải chờ duyên

Không phải tên của vật

Cũng không tên, không nghĩa

Không thuộc của ngoại đạo

Thanh Văn cùng Duyên Giác

Cùng Bồ Tát thập trụ

Ấy là vô sinh tướng

Xa lìa các nhân duyên

Không có người năng tác

Chỉ do tâm kiến lập

Ta nói là vô sinh

Các pháp không nhân sinh

Không không cũng không có

Lìa năng sở, phân biệt

Ta nói là vô sinh

Ngoài tâm không có gì

Lại lìa nơi hai tính

Y tha và vọng kế

(paratantra, parikalpita)

Như thế chuyển sở y

Đấy Ta nói vô sinh

Ngoại vật có cùng không

Tâm không sở thủ gì

Tất cả kiến đều đoạn

Ta gọi là vô sinh

Cú nghĩa “không, vô tính”

Nghĩa nó đều như vậy

Không vì không nói không

Vô sinh nên nói không

Nhân duyên cùng tụ hội

Cho nên có sinh diệt

Nếu nhân duyên phân tán

Sinh diệt tất không có

Nếu lìa các nhân duyên

Thì tuyệt không có pháp

Tính một cùng tính khác

Do phàm ngu phân biệt

(Vô hữu bất sinh pháp)

Hữu, vô không sinh pháp

Câu, phi cũng như vậy

Chỉ trừ khi duyên hợp

Trong ấy thấy khởi diệt

Theo tục giả ngôn thuyết

Nói vòng móc nhân duyên

Nếu lìa vòng nhân duyên

Nghĩa “sinh” (samkalà) bất khả đắc

Ta nói chỉ vòng câu

Không sinh nói bất sinh

Lìa các lỗi ngoại đạo

Phàm ngu không thể hiểu

Lìa vòng xích nhân duyên

Mà riêng có pháp sinh

Ấy là luận vô nhân

Phá hoại nghĩa câu tỏa

Như đèn hay chiếu vật

Vòng xích nếu như thế

Đấy tức lìa vòng xích

Mà riêng có các pháp

Vô sinh tức vô tính

Thể tính như hư không

Lìa duyên sinh tìm pháp

Là kẻ ngu phân biệt

Lại có loại vô sinh

Do bậc thánh chứng được

Sinh kia không phải sinh

Ấy là vô sinh nhẫn

Nếu biết cả thế gian

Đều chỉ là vòng xích

Và không gì khác hơn

Kẻ ấy tâm được định.

Vô minh cùng ái nghiệp

Là kềm tỏa bên trong

Các đại, bùn, bánh xe

Là câu tỏa bên ngoài.

Nếu nói có pháp khác

Cũng do nhân duyên sinh

Ngoài nghĩa vòng xích này

Đây không phải giáo lý.

Sinh pháp nếu phi hữu

Ai nhận ra nhân duyên?

Vì các pháp sinh nhau

Nên gọi là nhân duyên

Tính cứng, ướt, ấm, động

Do phàm ngu phân biệt

Chỉ có duyên, không pháp

Nên nói vô tự tính

Như lương y trị bệnh

Nguyên tắc không sai khác

Nhưng vì bệnh không đồng

Liều thuốc có khác nhau

Ta vì các chúng sinh

Diệt trừ bệnh phiền não

Biết căn cơ mạnh yếu

Diễn nói các pháp môn

Phiền não không phải khác

Mà sinh ra các pháp

Chỉ có một đại thừa

Bát chính đạo trong mát.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Hết thảy ngoại đạo vọng nói vô thường; Thế Tôn cũng nói các hành là vô thường, là pháp phải chịu sinh diệt. Thuyết ấy con không hiểu là tà hay chính? Vô thường có mấy thứ?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Ngoại đạo nói có 7 thứ vô thường, không phải pháp của Ta. Bảy thứ ấy là: 1. Có người cho rằng có sinh khởi rồi xả bỏ, gọi là vô thường, vì sinh rồi bất sinh nên nói là tính vô thường. 2. Lại có kẻ nói hình biến hoại là vô thường. 3. Có kẻ nói sắc là vô thường. 4. Có kẻ nói cái biến dị của sắc là vô thường. Hết thảy các pháp nối nhau không dứt, khiến cái thể tự nhiên biến đổi và diệt; như trước là sữa sau biến thành gia ua, sự biến dịch ấy tuy không thấy được song nó chính là yếu tố hủy diệt nằm ngay trong mọi sự vật. 5. Có kẻ nói các vật có ra là vô thường. 6. Có kẻ cho hữu phi hữu (existence, non existence) là vô thường. 7. Có kẻ nói bất sinh là vô thường ở khắp trong mọi pháp. Trong số những quan điểm ấy, hữu phi hữu vô thường (Bhàvàbhàvànityatà), nghĩa là các tướng năng tạo sở tạo đều hoại diệt, còn tự tính của đại chủng thì bản lai không khởi. Bất sinh vô thường (Anutpàdànityatà) là các pháp thường, vô thường v.v.. đều không có. Như thế hết thảy đều không có gì sinh; cho đến phân tách thành vi trần cũng không thấy gì. Vì không sinh khởi nên nói là vô sinh. Đây gọi là “bất sinh vô thường”. Nếu không hiểu nghĩa ấy tức sa vào nghĩa “sinh vô thường” của ngoại đạo, nghĩa là ở chỗ không phải thường không phải vô thường mà tự sinh ra phân biệt. Nghĩa ấy thế nào? Nghĩa là có một vật gọi là vô thường tự nó không bị hoại diệt, nhưng có thể hoại các pháp. Nếu không có cái vô thường hoại hết các pháp, thì rốt cuộc pháp sẽ bất diệt, thành không có (vô hữu) (như chiếc gậy hay hòn đá, hay như một cái búa đập nát mọi vật khác mà tự nó thì không hoại, ở đây cũng vậy). Đại Huệ ! (đây là nghĩa của ngoại đạo nhưng) Vô thường và hết thảy các pháp ta thấy trước mắt thì không thấy đâu là sai biệt năng tác sở tác, để nói được rằng đây là vô thường, còn đây là cái bị vô thường nó hoại diệt. Vậy thành ra năng tác sở tác đều thường cả mới phải, vì không thấy cái nhân khiến cho các pháp thành ra phi hữu. Đại Huệ ! Về các pháp bị hoại diệt thật ra có nhân, nhưng phiền một nỗi là không phải chỗ phàm ngu hiểu được. Đại Huệ, nhân khác không thể sinh ra quả khác, nếu sinh được, thì hết thảy các pháp đều sinh lẫn nhau, pháp này pháp kia năng sinh sở sinh đều không khác nhau gì cả. Nhưng hiện thấy có khác. Làm sao dị nhân sinh dị quả? Đại Huệ ! Nếu có một pháp (objective existence) gọi là vô thường thì cũng đồng với cái sở tác (kết quả) và thành ra tự nó cũng vô thường, vì vô thường cho nên các pháp vô thường đây đều là thường cả. Đại Huệ ! Nếu tính vô thường ở trong các pháp, thì đáng cùng các pháp sa vào ba giai đoạn quá khứ, hiện tại, vị lai, cùng với sắc quá khứ mà diệt, cùng vị lai không sinh, hiện tại cùng hoại.

Các ngoại đạo cho rằng thể tính của bốn đại là không hoại, tức là bốn đại khác với sắc do bốn đại tạo, vì lìa khác với không khác; tự tính của nó cũng không hoại diệt. Đại Huệ ! Những pháp năng tạo, sở tạo trong ba cõi không có gì là không phải tướng sinh, trụ, diệt, làm sao có riêng một tính vô thường có thể sinh ra các vật mà tự nó không diệt? Thuyết cho rằng đầu tạo sau diệt nên gọi là vô thường (pràrambhavinivttryanityatà) cũng không vững, vì các đại chủng khác nhau không thể tạo lẫn nhau; không phải mỗi đại tự tạo, vì không có cái khác ở trong nó; cũng không cùng tạo vì trái nhau. Cho nên biết không phải “thủy – tạo vô thường” hình trạng hoại vô thường (tribhavacittamàtra) ấy là không phải hoại năng tạo cùng sở tạo nhưng hình trạng hoại. Nghĩa ấy thế nào? Ấy là chẻ tách “sắc” cho tới vi trần, chỉ diệt cái hình trạng dài ngắn v.v.. đã thấy. Chứ không diệt cái sắc thế năng tạo sở tạo. Kiến này sa vào số luận (Sàmkhyavadà) “Sắc tức là vô thường” (Rùpam evànityam) ấy có nghĩa hình trạng là vô thường, không phải tính tứ đại là vô thường. Nếu tính đại chủng cũng vô thường thì tất là không có thế giới. Không có thế giới nên biết ấy là sa vào kiến chấp của Thế luận thấy hết thảy pháp do tự tướng sinh chỉ có trên ngôn thuyết. Chuyển biến vô thường (Vikàràityatà) ấy là sắc chủng (rùpa) (hay hình thức) biến đổi chứ không phải đại chủng (tứ đại) biến đổi. Thí như lấy vàng làm các món trang sức, các món này có biến đổi nhưng vàng thì không. Đây cũng vậy. Đại Huệ ! Các kiến ngoại đạo như thế hư vọng phân biệt về vô thường. Họ nói như vầy: “Lửa không thể đốt cháy tự tướng của nó, mà chỉ phân tán ra. Nếu nó có thể thiêu đốt được, tức thì năng tạo sở tạo đều đoạn diệt.” Vì sao? Vì không chấp pháp ngoài, vì ba cõi chỉ là tâm (Tribhavacittamàtra), vì không nói tới các tướng, vì các sai biệt của đại chủng tính đều không sinh không diệt, không có năng tạo sở tạo, vì năng thủ sở thủ đều do phân biệt khởi, vì biết hai tính thủ (năng sở) đúng như thật, vì hiểu rõ duy tâm hiện, vì lìa hai kiến chấp hữu vô của ngoại đạo, lìa kiến hữu vô nên không phân biệt năng tạo sở tạo. Đại Huệ ! Các pháp thế gian, xuất thế gian, và xuất thế gian thượng thượng chỉ là tự tâm, không thường, không vô thường; không hiểu rõ như thế sẽ sa vào hai biên kiến ngoại đạo. Đại Huệ ! Ngoại đạo không rõ biết ba pháp ấy do phân biệt nên khởi ngôn thuyết chấp trước tính vô thường. Đại Huệ ! Cảnh giới ngữ ngôn phân biệt của ba pháp này không phải chỗ phàm phu biết được.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Trước tạo rồi sau xả

Hình trạng có chuyển biến

Các sắc vật vô thường

Ngoại đạo vọng phân biệt

Các pháp không hoại diệt

Tự tính đại thường trú

Các kiến chấp ngoại đạo

Nói thế là vô thường

Các chúng ngoại đạo kia

Đều nói: “Không sinh diệt”

“Các tính đại tự thường

Cái gì là vô thường?”

Năng thủ và sở thủ

Hết thảy đều là tâm

Hai thứ do tâm hiện

Không có ngã, ngã sở

Các pháp như Phạm Thiên

Ta nói chỉ là tâm

Nếu lìa xa nơi tâm

Hết thảy không có được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567