Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập san Pháp Luân No.12

08/04/201313:39(Xem: 4655)
Tập san Pháp Luân No.12

phapluan-36

Tập san Pháp Luân

No.12

---o0o---

Tứ Đế ^

TT. Thích Đức Thắng

(tiếp theo)

IV. SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG (Marga-satya): Sự thật thứ tư là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát chấm dứt khổ đau. Sự thật này là tác nhân giải thoát hiện tại đưa đến chấm dứt quả khổ gần hay xa trong tương lai theo luật tắc nhân quả biến dịch hay phân đoạn của xuất thế gian. Là con đường Trung Đạo (Madhyamā-Paratipad), tránh xa hai cực đoan tà chấp là chạy theo tìm kiếm hạnh phúc qua khoái lạc giác quan vật chất thấp hèn, thường nghiệm, không mang lại bất cứ lợi ích nào trong hiện tại cũng như tương lai sau đó, và tìm kiếm hạnh phúc qua hình thức khổ hạnh tự ép xác dưới nhiều hình thức khác nhau, vì sự tìm kiếm này cuối cùng cũng không thấy hạnh phúc đâu mà chỉ mang lại thân tàn ma dại, ảnh hưởng trực tiếp lên tinh thần buồn khổ chán chê mất tính tự chủ sáng suốt. Theo giáo thuyết A-hàm mà nói thì nhờ vào thực tiễn của con đường này mà chính đức Đạo sư đã xa lìa chủ nghĩa khoái lạc và khổ hạnh trong thực hành trước khi Ngài thành đạo. Đức Đạo sư với kinh nghiệm của chính mình, Ngài đã tìm ra Trung Đạo và nhờ vào chính nó mà hoàn thành trí tuệ giải thoát đưa đến Bồ-đề Niết-bàn. Đó chính là con đường trung đạo tám ngành, hay nói một cách chính xác hơn thì chân lý mười hai nhân duyên, nếu đem lý giải thì chính nhờ vào nó mà đức Phật đã xa lìa chủ trương thường kiến, chấp chặt vào ngã cho là một chủ thể sinh mệnh hữu tình chúng sanh luôn tồn tại; cùng xa lìa chủ trương đoạn kiến cho rằng sau khi chết hữu tình chúng sanh sẽ vĩnh viễn mất luôn không còn tồn tại nữa; hay xa lìa lập trường chủ trương tự nhiên trong những kiến giải của hữu kiến thế gian, cùng chủ trương chủ nghĩa hư vô cho rằng tất cả đều là không, không có gì hết của vô kiến mà tất cả mọi người vào lúc bấy giờ dùng bốn cách nhìn thiên kiến sai lệch này đối với nhân sinh và vũ trụ, trong lúc Ngài quán thuận và nghịch mười hai nhân duyên này. Đó gọi là chánh kiến của trung đạo quán. Trung Đạo này thường được diễn tả là Bát chánh đạo (āryāṣṭāgika-mārga): tám con đường chân chính, bởi vì nó gồm có tám ngành, cũng có thể gọi là tám phạm trù:

1. Chánh kiến (samyag-dṛṣṭi): sự thấy biết chân chính, tức là thấy khổ đau về vật chất cũng như tinh thần là khổ đau, thấy sự tập khởi của khổ đau là sự tập khởi khổ đau, thấy sự diệt tận của khổ đau là sự diệt tận khổ đau, thấy con đường đưa đến sự diệt tận là con đường đưa đến sự diệt tận khổ đau; có nghiệp thiện ác, có quả báo nghiệp thiện ác, có đời này đời kia, có cha có mẹ, có chân nhơn đi đến nơi thiện, hướng thiện; đối đời này đời kia có thể tự giác ngộ, tự thân tác chứng thành tựu đạo quả giải thoát.

2. Chánh tư duy (samyag-sankappa): suy nghĩ chân chính, tức là có ý chí đúng, phân biệt đâu đúng đâu sai, hiểu biết nhớ nghĩ chính xác, tức là không có tham dục giác, sân nhuế giác và hại giác.

3. Chánh ngữ (samyag-vāca): lời nói chân chính, tức là lời nói đúng đắn, chân thật. Tức là không còn sử dụng những lời nói dối, lời nói hai lưỡi đâm thọc gây chia rẽ, lời nói thô ác xấu xa, lời nói thêu dệt thêm bớt không chính xác.

4. Chánh nghiệp (samyag-kammanta): còn gọi là chánh hạnh, là việc làm chân chính, tức là những hành động trong tạo tác đúng với Chánh pháp, xa lìa sát sinh, không cho mà lấy, cho đến việc tà hạnh, những giới chúng ta đã phát nguyện thọ trì.

5. Chánh mạng (samyag-ājīva): sự sống chân chính, tức là chúng ta bỏ lối sống mê tín sử dụng chú thuật cầu đảo… theo tà mạng. Phải như pháp mà cầu y phục đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh và tất cả những phương tiện tùy thân khác trong sinh hoạt hằng ngày.

6. Chánh tinh tiến (samyag-vāyāma): cố gắng chân chính, tức là luôn cố gắng nỗ lực trong việc chuyển ác thành thiện đối với cuộc sống: Nên phát nguyện đối với những điều ác đã phát sinh thì nên tìm cách tiêu diệt chúng, những điều ác chưa phát sinh thì không khiến chúng phát sinh, những điều thiện chưa phát sinh thì nên tìm cách khiến cho nó phát sinh ra, những điều thiện đã phát sinh rồi hãy tiếp tục làm cho nó tăng trưởng nhiều hơn nữa.

7. Chánh niệm (samyag-satti): nhớ tưởng chân chính, là ý nhớ nghĩ đến thân, thọ, tâm, pháp. Đó là bốn pháp mà chúng ta cần phải nhớ nghĩ đến, còn gọi là bốn niệm xứ.

8. Chánh định (sammā samādhi): tập trung chân chính, tức là xa lìa các pháp dục ác bất thiện để thành tựu bốn thiền từ sơ thiền đến tứ thiền.

Trong cuộc đời thuyết pháp độ sinh của đức Đạo sư qua bốn mươi lăm năm, Ngài luôn luôn tùy thuộc vào căn cơ trình độ hiểu biết của mọi chúng sinh hữu tình mà dùng con đường đưa đến sự diệt khổ đau tám ngành này mà theo đó giảng dạy cho đồ chúng của mình. Ngài giảng dạy chúng bằng những phương cách khác nhau và cách dùng dụng ngữ cũng khác nhau cho những người có trình độ hiểu biết cảm thụ khác nhau, tùy trình độ phát triển cho phù hợp với trình độ, mọi tầng lớp trong xã hội vào lúc bấy giờ. Nhưng tinh túy nội dung tư tưởng giải thoát của nó vẫn nhất quán trong thuyết giáo của mình, hàng trăm ngàn bài thuyết giáo rải rác trong ba tạng giáo điển của Ngài, được chúng ta tìm thấy đều nói lên nội dung tư tưởng giải thoát của Bát Chánh Đạo, qua sự hoàn thiện tam vô lậu học Giới-định-tuệ trong mục tiêu làm trong sạch ba độc tham-sân-si bằng vào thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý, qua tám phạm trù được thể hiện trong cuộc sống.

Qua tám phạm trù hay tám ngành này, được phân bố theo chức năng của ba học trong việc tu tập đối với kỷ luật tâm linh những lời dạy của đức Phật. Như vậy, không nhất thiết là phải theo thứ tự từ một cho đến tám trong việc áp dụng thực hành theo thứ tự như trên. Chúng phải được thực hành phát triển gần như cùng lúc với nhau, càng nhiều càng tốt tùy theo khả năng căn cơ từng người một. Tất cả tám phạm trù này, chúng liên kết nhau và mỗi phạm trù hỗ trợ cho sự đào luyện những phạm trù khác.

Tám phạm trù này chúng được phân nhóm vào ba học Giới (Sila), Định (Samādhi) và Huệ (Pannā) thì chúng sẽ tùy thuộc vào đó mà mang ý nghĩa và giá trị của từng nhóm một.

Giới (sila) một kỷ luật phổ quát dành cho việc xây dựng tình yêu và tình thương xót đối với tất cả mọi sinh vật hữu tình chúng sanh đang hiện hữu, theo ý nghĩa nền tảng căn bản của giáo lý đức Phật. Đức Phật ban bố giáo lý từ bi của Ngài trong tu tập tự lợi và lợi tha như kinh Đại Phương Đẳng 24, T. 13, p. 0170b dạy: “Bồ-tát Ma-ha-tát nào muốn thành tựu Chánh đẳng Chánh giác thì phải tu tập từ bi.” Hay vì muốn lợi ích cho nhiều người, hạnh phúc cho nhiều người, do từ bi đối với thế gian, trong kinh Ưu-bà-tắc giới 7, T. 24, p. 1074c, đức Phật dạy: “Này Thiện nam! Người trí nên phải quán sát như vầy: ‘Tất cả phiền não là oán lớn đối với ta. Vì sao vậy? Vì phiền não có khả năng tự phá mình và phá người. Vì nhân duyên này, nên ta phải tu tập tâm từ để vì lợi ích tất cả chúng sanh và vì muốn được hoàn thiện vô lượng pháp. Nếu có người nào bảo lìa từ bi mà có được thiện pháp thì việc này không nơi nào có!’”

Theo đức Đạo sư, mỗi người chúng ta muốn hoàn thiện cho chính mình thì phải phát triển cả hai đức tính bi (karuā) và trí (jñāna) song song với nhau. Ở đây, ‘Bi’ tượng trưng cho trái tim biểu thị cho tình cảm, có nghĩa là chỉ cho lòng thương xót, yêu mến người và vật, sự tử tế với nhau, khoan dung độ lượng, nói chung chỉ cho lòng trắc ẩn đối với cái khổ của người khác mà khởi tâm muốn cứu khổ, trong khi ‘Trí’ tượng trưng cho khối óc thuộc về khía cạnh tri thức hiểu biết, đối với đạo lý tất cả mọi sự vật có khả năng đoán định phân biệt chuyện thị phi, chánh tà mà lựa chọn lấy bỏ, nên gọi là trí. Nếu chúng ta chỉ phát triển phần tình cảm mà quên đi phần tri thức lý trí, thì chúng ta dễ trở thành những kẻ ngu si tốt bụng không biết phân biệt được đâu là tốt xấu, việc gì nên làm và việc gì không nên làm! Trong khi nếu chúng ta chỉ phát triển khía cạnh tri thức lý trí mà bỏ quên tình cảm thì, chúng ta sẽ dễ trở thành một người trí có tim sắt đá không biết cảm thông thương xót rung động trước mọi người ngoài ta ra. Vì vậy muốn hoàn thiện một con người, người ta phải phát triển về cả hai mặt tình cảm và lý trí đồng đều. Đó là mục đích thăng hoa của lối sống theo đức Phật qua luật tắc nhân quả thế gian; trong đó trí huệ và từ bi liên quan mật thiết với nhau như ta sẽ thấy sau này qua ba vô lậu học, trong tiến trình tu tập thực hành đưa đến giải thoát đau khổ tùy theo trình độ căn cơ lệ thuộc về nhân quả hay duyên khởi.

I - GIỚI: Trong Giới, theo chúng tôi thì bao gồm năm phạm trù chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Trong năm phạm trù này thì ba phạm trù đầu thuộc về điều thân nói chung, trong đó có thân và khẩu giới, nơi trực tiếp tạo ra nghiệp nhân để đưa đến kết quả báo nghiệp sau đó thuộc hệ nhân quả, thuộc hành vi đạo đức của lời nói và hành động, mà mọi người có thể nhận thấy được những hành vi cử chỉ cùng lời nói có đạo đức hay không đạo đức được thể hiện ra một cách rõ nét nhất, và cũng nhờ có những hành vi này mà chúng ta có thể đánh giá được ý hành của mỗi cá nhân được thể hiện qua chúng là thiện hay bất thiện, là đúng pháp hay không đúng pháp. Còn hai phạm trù sau tức là Chánh tinh tấn, Chánh niệm thuộc về điều tâm (ý giới), trước khi vào Định thật sự.

Theo ba học thì chánh ngữ của khẩu thuộc về Giới, nếu miệng chúng ta không phát ra những lời nói dối trá; không phát ra lời nói vu khống, hay nói những lời có thể gây thù hằn, ghét bỏ, bất hòa, hay gây gổ mạ lị giữa những cá nhân hay những nhóm người lẫn nhau; không nói lời thô lỗ, vô lễ, ác độc, thóa mạ; không nói lời mách lẻo, vô ích, xuẩn ngốc. Chúng ta cố gắng nhẫn nhịn, không nói những thứ ngôn ngữ sai quấy và độc hại ấy đối với những người chung quanh chúng ta khi giao tiếp qua lời nói của cửa miệng, mà chúng ta chỉ dùng những thứ ngôn ngữ chân thật từ hòa dịu dàng, những từ ngữ thân thiện, khoan hòa, êm ái và nhã nhặn mà thuật ngữ đức Phật gọi là ái ngữ, có ý nghĩa và lợi ích thì ngay lúc đó miệng chúng ta không những trở nên trong sạch mà còn tỏa ra hương vị của từ bi và giải thoát mà chính ý chúng ta cũng thể hiện được sự trong sạch và hương từ bi thơm mát nữa. Từ đó khi chúng ta giao tiếp với nhau, mọi người sẽ không còn nói năng bừa bãi, cẩn thận đúng lúc và đúng chỗ. Trường hợp nếu không thể nói được những lời nói lợi ích cho nhau thì, tốt hơn nên giữ sự im lặng. Đó chính là những thể hiện của chánh ngữ qua giới trong lúc hành giả tu tập.

Giới học này không chỉ được giới hạn qua miệng (khẩu) của lời nói mà còn được giới hạn qua mọi hành vi tạo tác của thân nữa. Ở đây Chánh nghiệp thuộc về thân nhằm thể hiện những hành vi tạo tác tương ưng với đạo đức, khả kính và hòa nhã. Trong đó, đức Đạo sư khuyên chúng ta nên từ bỏ sự sát hại sinh mạng, sự trộm cắp; có làm có ăn bình đẳng trong sự nghiệp của mỗi người, tránh xa mọi sự tà dâm không có lợi cho chính gia đình mình và gia đình người khác trong hạnh phúc, trong một cuộc sống hòa nhã tương kính lẫn nhau trong một cộng đồng xã hội nhân bản. Khi mà thân chúng ta không hành động tạo tác những hành vi có hại cho mình, cho người, cho xã hội thì chúng ta nên tránh xa và ngược lại phóng sanh, giúp đỡ mọi người cả về vật chất lẫn tinh thần cùng tạo mọi sự an lạc hạnh phúc cho chính mình và xã hội. Đó gọi là tu tập Chánh nghiệp qua những hành vi và mọi tạo tác do thân mang lại sự trong sạch hạnh phúc cho chính bản thân mình, mọi người cùng xã hội được thể hiện bên ngoài phát xuất từ ý chí thanh tịnh.

Ngoài những hành vi tạo tác do thân trực tiếp tạo ra như giết hại, trộm cắp, tà dâm của nghiệp, còn có những nghề nghiệp cũng từ tự thân mỗi người mang lại sự thiệt hại cho người khác, cho xã hội như sống bằng những nghề mê tín phù phép chú thuật, buôn bán khí giới, nước uống say sưa, độc dược, ma túy, giết hại súc vật, lừa dối, v.v… mà đức Đạo sư gọi là lối sống theo tà mạng cũng được Ngài nhắc đến trong tám phạm trù đó là Chánh mạng. Ở đây, chúng ta phải sinh sống bằng một nghề nghiệp chính đáng, không tạo ra tội cho chính mình và không có hại cho người, vật.

Ba phạm trù này (Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng) của Bát chánh đạo thiết lập hành vi đạo đức cho mọi chúng sanh hữu tình trong việc thể hiện trực tiếp thanh tịnh hóa hai nghiệp thân khẩu. Ở đây, nếu nói theo ý nghĩa của thiền định trong mọi lúc mọi nơi thì ba phạm trù này thuộc điều thân trong mọi sự sinh hoạt, hoạt động hằng ngày mà giới là hình thức để chúng ta thể hiện hành vi đạo đức và luân lý trong Phật học, cốt khiến cho cuộc sống cá nhân và xã hội đầy hạnh phúc an lạc. Vì vậy, không thể có sự phát triển tâm linh sâu xa nào, nếu không có căn bản đạo đức này. Đó gọi là ba phạm trù thể hiện đạo đức trong việc thanh tịnh hai nghiệp thân khẩu của luật học, mà trong thiền học thì gọi là điều thân.

Kế đến là Kỷ luật Tâm linh (luật học) tức là phương pháp điều tâm (ý) (thiền học), trong đó bao gồm hai phạm trù Chánh tinh tiến, và Chánh niệm. Trong hai phạm trù này thuộc phạm vi ý chí tạo ra nghiệp nhân để dẫn đến nghiệp quả của chúng ta, tức chỉ cho đầu mối trực tiếp cho mọi sự tái sinh trong ba cõi luân hồi. Ở đây nói đến phạm vi nỗ lực của ý chí trong cả hai lãnh vực chỉ ác hành thiện. Chính Chánh tinh tiến là ý chí mạnh mẽ để ngăn ngừa những điều xấu ác chưa phát sinh thì không cho chúng phát sinh; trừ bỏ những điều xấu ác đã phát sinh; làm phát sinh những điều thiện chưa được phát sinh và nuôi dưỡng làm tăng trưởng những điều thiện đã phát sinh chính ngay trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta (phần này sẽ trình bày trong phần Tứ chánh cần). Để rồi từ đó chúng ta không những chỉ kiểm soát điều tâm ý của mình thôi mà còn tiến xa hơn nữa trong việc kiểm soát mọi hoạt động của thân qua những cảm giác và cảm thọ trong việc để ý, chú ý đến từng ý niệm.

Ở đây, Chánh niệm luôn luôn làm việc này, là lúc nào cũng biết rõ, ý thức một cách đầy đủ và chú ý về những hoạt động của thân xác (kàya); những hoạt động tâm ý (citta); những ý tưởng, tư tưởng, quan niệm về những sự vật (dhamma) và những cảm giác hay cảm thọ (vedanā) của chúng ta.

Đối với những hoạt động của thân xác, chúng ta phải nhận thức một cách rõ ràng về bất tịnh cùng sự hiện hữu và biến dịch của chúng theo nhân duyên trong cuộc sống của mỗi người.

Đối với những hoạt động của tâm thức, chúng ta phải ý thức và nhận thức rõ xem tâm mình có tham dục hay không, có thù hận hay không, có vọng tưởng si mê hay không, tâm ý chúng ta hiện đang phân tán hay tập trung v.v… phải biết rõ ràng và chính xác như chính nó. Với cách thức như vậy, chúng ta bất cứ lúc nào cũng phải luôn có ý thức về mọi động tác của tâm ý, xem sự sinh và diệt của chúng như thế nào.

Đối với những ý nghĩ hay tư tưởng, quan niệm và các pháp người ta cần phải biết tính chất của chúng, chúng sinh diệt ra sao, phát triển như thế nào và bị tiêu diệt ra làm sao v.v…

Đối với những cảm giác, cảm thọ, chúng ta phải ý thức rõ ràng về tất cả những hình thái của chúng, nào là vui, khổ, hoặc không vui không khổ, chúng đã hiện hữu và biến dịch như thế nào theo định luật vô thường chi phối ở trong mỗi chúng ta (phần này sẽ được trình bày trong Tứ niệm xứ).

Đó là hai phạm trù điều tâm của Bát chánh đạo được phối hợp với Giới trong ba vô lậu học, trước khi đưa đến Định của ba vô lậu học của phạm trù Chánh định trong Bát chánh đạo.

II - ĐỊNH: Phạm trù thứ tám của Bát chánh đạo là Chánh định, phạm trù này đưa đến bốn Thiền-na (dhyānā). Trong sơ thiền, tất cả những pháp ác bất thiện của dục giới tuy đã lìa bỏ được không còn hiện hữu nữa, nhưng những cảm thọ hoan hỷ (hỷ) hạnh phúc (lạc) của dục giới, có giác có quán (có tầm có từ) cùng với vài hoạt động tâm lý phân biệt thô tế vẫn còn được duy trì trong đối trị. Cho đến nhị thiền thì giác và quán đã được đoạn trừ, tín căn được hình thành và tất cả mọi hoạt động tri thức đều bị loại bỏ, bên trong sự trong sạch, sự an tĩnh và nhất tâm được phát triển, chỉ có những cảm giác hoan hỷ (hỷ) hạnh phúc (lạc) vẫn còn được giữ lại. Đến tam thiền thì cảm giác hoan hỷ hoạt động cùng hạnh phúc (lạc) ở nhị thiền biến mất, chỉ còn lại duy nhất có cảm giác hạnh phúc (lạc) vẫn tồn tại, trụ vào cảnh giới ‘hành xả’ không khổ không vui, cộng với sự khinh an thanh thoát của ý thức xuất hiện nhờ chánh niệm chánh tri. Cho đến tứ thiền thì cảm giác hạnh phúc khinh an không còn nữa, mọi cảm giác đều tan biến; chỉ còn lại ý niệm thuần tịnh.

Trong phạm trù này, tâm được huấn luyện, khép vào kỷ luật và phát triển nhờ bốn thiền-na của Chánh định mà có được tánh cảnh nhất tâm thuần tịnh.

III - TUỆ: Hai phạm trù còn lại Chánh tư duy và Chánh kiến biểu thị cho Trí huệ, sau khi đã nhờ điều hòa thanh lọc thân-tâm và nhờ bốn thiền-na đạt được tánh cảnh nhất như thanh tịnh như trên, chúng tôi đã trình bày theo phương pháp thanh lọc điều thân-tâm của hệ thống nhân quả, để rồi chúng sanh hữu tình chúng ta có được kết quả trí tuệ phát sinh nhờ vào những nhân tố tạo tác trước đó qua kỷ luật thanh lọc đào luyện tâm linh mà đức Đạo sư đã chỉ dạy. Ở đây Chánh kiến, chánh tư duy là hai phạm trù biểu thị cho lãnh vực trí tuệ.

Chánh kiến là sự thấy biết mọi sự đúng như thật, và chỉ có Tứ đế mới giải thích sự vật đúng như thật. Bởi vậy Chánh kiến là thấy, hiểu Tứ đế. Sự hiểu biết này phát xuất từ trí huệ cao cả nhất, thấy được thực tại tối hậu. Theo Phật giáo có hai thứ hiểu biết: Cái gì chúng ta thường hiểu biết thì cái hiểu biết đó gọi là tri thức, một trí nhớ nhờ vào tích trữ kinh nghiệm, một sự lãnh hội của tri thức về vấn đề nào đó tùy thuộc vào một vài chi tiết đã cho. Đấy gọi là “cái hiểu biết tùy thuộc” (anubodha). Nó chỉ là một cái hiểu biết cạn cợt trên mặt hiện tượng chứ không phải bản chất, không sâu sắc lắm. Sự hiểu biết sâu sắc thực sự đó chính là sự thâm nhập (pativedha), thấy biết sự vật ngay từ trong bản chất của nó mà không cần tên gọi hay nhãn hiệu, sự thâm nhập này chỉ có được khi tâm đã sạch mọi pháp ác bất thiện cấu bẩn và hoàn toàn phát triển nhờ thiền định mà có được.

Chánh tư duy chỉ những tư tưởng khước từ những vị kỷ xấu xa của chấp ngã chấp pháp ràng buộc, hay giải thoát tất cả những khổ đau từ thân miệng ý phát sinh, để hình thành bình đẳng tánh tướng trong ý tưởng về tình thương yêu vô ngã, và về bất bạo động, dàn trải ra khắp cả muôn loài. Những ý tưởng về sự giải thoát, tình yêu vô ngã và bất bạo động được nhóm họp và phát sinh về phía trí huệ. Điều đó chứng tỏ rằng trong trí huệ chân thật vốn có những đức tính cao cả này, và mọi tư tưởng về tham dục, sân hận, si mê, bạo động nói chung là các pháp ác bất thiện đều phát xuất và có mặt từ sự thiếu trí huệ trong mọi lãnh vực của đời sống như cá nhân và xã hội, nên từ đó cá nhân, xã hội trở thành bất an, khổ đau xuất hiện.

Từ sự miêu tả sơ lược về Bát chánh đạo, ta có thể thấy rằng đấy là một lối sống phải được mỗi người tuân theo, thực hành và phát triển trong sự phối hợp với ba vô lậu học. Nó là tự-kỷ-luật điều thân xác, điều lời nói và điều tâm (ý nghĩ), tự phát triển và tự thanh lọc để trở thành thanh tịnh. Sự phối hợp ở trên, chúng tôi căn cứ vào luật tắc nhân quả để hình thành nên có sự phối hợp sắp xếp có trước có sau như vậy; nhưng nếu đứng về mặt duyên khởi thì đúng là không có phạm trù nào hay ba vô lậu học có trước có sau, hay theo bất cứ một thứ tự sắp xếp nào hết, mà chúng tùy thuộc vào sự hiện hữu hiện quán mà trong cuộc sống và căn cơ của chúng ta mà hình thành và ở trong nhau. Ở đây, không dính líu gì đến đức tin, cầu nguyện, thờ phụng hay nghi lễ. Theo nghĩa này thì, không có gì có thể gọi là có tính cách tôn giáo thông thường mà nó là một phương pháp rèn luyện điều tiết thanh lọc thân tâm. Nó là con đường đưa chúng ta đến sự thực chứng chân lý rốt ráo tối hậu, dẫn đến mọi sự tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình an sau khi hoàn thiện tâm linh nhân bản về mặt đức và trí.

(còn tiếp)

Thời Niên Thiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên ^

Thích Trí Lộc

Từ ngàn xưa đến nay, các triết gia và các học giả trên thế giới đều khẳng định rằng: Ấn Độ là một trong những chiếc nôi tâm linh, dung chứa những sức sống tâm linh vĩ đại nhất trên thế giới. Ấn Độ hàng ngàn năm trước so với Ấn Độ bây giờ vẫn có những sự tương đồng một cách kỳ lạ: nếu như hàng ngàn năm trước Ấn Độ có hàng trăm tôn giáo, tín ngưỡng, học thuyết bất đồng, đa dạng và phong phú, thì Ấn Độ ngày nay vẫn tồn tại những sự đa dạng và dị biệt ấy. Nếu như Ấn Độ cổ có nền văn minh vĩ đại (văn minh Indus), thì nền khoa học kĩ thuật Ấn bây giờ cũng phát triển đến đỉnh cao, ngang tầm với những quốc gia có nền khoa học phát triển nhất. Nếu như Ấn Độ ngày xưa có những ngôi làng cổ kính, những bộ tộc hùng mạnh, giàu sang, phồn thịnh tồn tại bên những ngôi làng nghèo đói, thấp hèn, thì ngày nay Ấn Độ cũng tồn tại những thành phố giàu sang bên cạnh những khu dân cư đói khổ v.v… Chính ngay những điều kiện đa dạng và dị biệt ấy, các học giả đã khẳng định rằng, đó là một trong những lý do mà đức Phật chọn Ấn Độ làm nơi giáng thế, để cứu khổ độ sanh.

Suốt cuộc đời hoằng pháp bất quyện trên xứ Ấn khắc nghiệt, đức Phật đã độ được hàng vạn người xuất gia tu học trong Chánh pháp, hàng triệu người qui y theo đức Phật, làm đệ tử tại gia, lấy Chánh pháp làm kim chỉ nam để tu tập hướng về chân-thiện-mỹ. Trong hàng vạn đệ tử xuất gia, sử liệu Phật giáo đã ghi nhận tiêu biểu mười vị đệ tử xuất sắc nhất, nổi bật nhất về những năng lực: trí tuệ, thần thông, trì giới, v.v... mà trong các kinh sách thường gọi mười vị Thánh này là mười vị đệ tử lớn, đứng đầu trong hàng vạn đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn. Trong bài này, người viết xin giới thiệu đến độc giả về thời niên thiếu của một trong mười vị Đại đệ tử ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên, bậc Thánh đứng hàng thứ hai trong mười vị Đại đệ tử của đức Phật. Ngài được đức Thế Tôn khen ngợi là vị có thần thông đệ nhất và hiếu tâm lớn nhất trong hàng đệ tử xuất gia của Phật.

1. Dòng tộc và sự đản sanh:

Tôn giả Mục-kiền-liên đản sanh tại làng Câu-ly-ca, một ngôi làng giàu sang và danh tiếng nằm gần thủ đô vương quốc Ma-kiệt-đà, thuộc tiểu ban Bihar, Ấn Độ ngày nay. Đây là một trong những ngôi làng phồn thịnh bậc nhất thời bấy giờ. Nơi đây hầu như chỉ dành cho những đại tộc Bà-la-môn cư ngụ.

Thân phụ Ngài không được các kinh sách và sử liệu ghi chép rõ (Ấn Độ cổ có một truyền thống tâm linh mạnh nhất thế giới, nhưng tiếc rằng Ấn Độ cổ không chú trọng về chữ viết, do đó các sử liệu về các bậc Thánh của Ấn Độ ngày xưa không được ghi chép rõ ràng, ngay cả kỳ kết tập kinh điển lần đầu tiên cũng chưa có chữ viết), chỉ biết rằng, thân phụ của Ngài là tộc trưởng của làng Câu-ly-ca, là một trưởng giáo Bà-la-môn giàu có và danh vọng đứng đầu cả làng. Thân mẫu Ngài thuộc dòng dõi Moggalli (có nghĩa là Thiên văn gia), theo ngữ căn thì danh từ Moggalli phát nguyên từ chữ Mudgala (một dòng dõi chuyên nghiên cứu về Thiên văn học cổ), thuộc giai cấp Bà-la-môn giàu sang và quyền quí, các kinh sách thường gọi tên bà là Thanh Đề.

Vốn là trưởng giáo Bà-la-môn của làng, thân phụ Ngài có hàng trăm đồ chúng, tài sản và danh vọng nổi tiếng cả một vùng, nhưng hai ông bà Thanh Đề vẫn mang trong lòng một nỗi u buồn sâu lắng, kết hôn đã lâu mà vẫn chưa có một mụn con để nối dõi. Vì thế đã chục năm trôi qua kể từ ngày lễ cưới, hai ông bà vẫn đêm ngày dâng lễ vật cầu nguyện đấng Phạm Thiên cao cả, cầu xin một người con để nối dõi tông đường, giữ gìn gia sản đồ sộ. Họ thường khấn rằng: “Kính lạy đức Phạm Thiên cao cả! Là đức Cha sinh của muôn loài. Bởi Ngài mà chúng sanh có trí tuệ, lạc phúc, vinh quang cùng bất tử. Bởi Ngài mà chúng sanh có thực phẩm, trái cây cùng những nghề nghiệp nuôi mạng… Kính lạy đức Brahman tối thượng tôn! Là linh hồn ngu si, nhỏ bé đầy đau khổ do Ngài sáng tạo ra, con kính ngưỡng Ngài ban phát cho chúng con niềm vui trần tục để thế hệ cháu con tiếp nối tuân phục Ngài, thờ kính Ngài, phủ phục dưới chân Ngài bằng đức tin thanh khiết và tuyệt đối… Xin Ngài ban cho con một mụn con thơ!”

Qua mười năm ròng rã nguyện cầu, cuối cùng nguyện vọng của hai vợ chồng cũng được cảm ứng. Buổi sáng nọ, sau một đêm chí thiết nguyện cầu, phu nhân Thanh Đề cảm thấy khắp phòng hương thơm ngào ngạt, toàn thân rúng động, một cảm giác kì lạ lan tỏa khắp châu thân, từ đó bà biết mình đã thọ thai, khi hay được tin mừng thân phụ Ngài vui mừng không diễn tả hết được. Ngày tháng dần trôi, đến ngày nở nhụy khai hoa, một hoàng nam đã chào đời đúng như lời khấn nguyện. Thân phụ Ngài vui mừng khôn xiết liền truyền mở đại tiệc thết đãi cả dân làng để vui mừng người con của dòng tộc cao quí, người con của dân làng Kolita đã xuất thế; đồng thời ông cho người thông báo tin mừng cho vị trưởng làng Upatissa và các vị trưởng làng bên cạnh đến chung vui.

Trong lúc cả làng Kolita đang vui mừng trong lễ hội, thì tại làng Upatissa cũng đang tổ chức tiệc hội vui mừng về sự chào đời của tôn giả Xá-lợi-phất. Hai gia đình của hai tôn giả đã có sự giao hảo tốt đẹp và kết thân với nhau đến bảy đời, hai niềm vui cùng một lúc và hai người báo tin lại gặp nhau giữa đường: “Có niềm vui, nỗi buồn nào mà hai gia đình này không san sẻ cho nhau? Họ thân thiết với nhau còn hơn ruột thịt. Họ gặp gỡ nhau không những ở tập cấp, dòng trưởng, trình độ kiến thức mà cùng với cả thú vui du sơn, ngoạn thủy nữa. Điều kỳ lạ là tuổi tác họ lại bằng nhau và sự hiếm muộn con cái cũng y như thế. Cũng đã mười năm ròng rã, họ cầu nguyện cúng tế đền thấp, miếu cao, đầu súc vật, mâm trái cây, bông hoa và trầm hương. họ sẵn sàng bỏ ra cả mấy trăm đồng tiền vàng để nhận một tin vui là sẽ có một người con trai để nối dõi tông đường, thừa kế di sản tinh thần và cả di sản vật chất nguy nga, đồ sộ. Họ đều là bậc đại phú, đại quí đứng đầu làng và có quyền lấy tên làng đặt tên cho con trai họ. Vốn là trưởng giáo tại ngôi làng Kolita nên môn sinh và bằng hữu đến thăm nhân ngày vui cũng rất đông. Bà Thanh Đề ở Kolita thế là cũng bắt đầu hoài thai một nhân cách siêu việt, một ngôi sao thực sự.”

Ngay trong ngày lễ hội vui mừng ấy, tên làng Kolita được dùng để đặt tên cho đứa bé, đồng thời theo luật Mã-nổ (Manou) thì người con phải theo họ mẹ. Do đó, tên của đứa bé được gọi đủ là Câu-li-ca Mục-kiền-liên.

2. Thời thơ ấu và lúc trưởng thành:

Là con trai của trưởng làng, trưởng giáo Bà-la-môn, lại là người con duy nhất của bộ tộc, thời thơ ấu của tôn giả Mục-kiền-liên được chăm sóc và giáo dục hết sức hoàn mỹ và chu đáo, lúc nào cũng có kẻ hầu người hạ. Không giống như tôn giả Xá-lợi-phất còn có đến sáu người em, tôn giả Mục-kiền-liên là con trai duy nhất của ông bà Thanh Đề, lại là người con của bộ tộc danh giá, cao quí nhất làng… Do đó, tất cả niềm tin yêu, kỳ vọng cũng như sự giàu sang danh tiếng của gia đình, dòng tộc đều dồn hết vào tôn giả Mục-kiền-liên. Năm lên ba, bốn tuổi, Chàng đã được cha dạy những mật chú vỡ lòng, những bài kinh khấn nguyện cũng như những phương pháp tế lễ, cúng thần… Lên sáu, bảy tuổi, cha chàng mời những vị thầy nổi danh trong làng và ở thành Vương-xá về truyền dạy những môn học về luận lý, số học, triết học… Năm lên tám tuổi, Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất ở làng bên cạnh đã nổi danh là thần đồng. Hai trẻ là hai ngôi sao sáng, là hai mẫu người lý tưởng, chuẩn mực cho hàng trăm trẻ cùng lứa tuổi noi gương. Tuy bản chất thông tuệ không bằng Xá-lợi-phất, nhưng Mục-kiền-liên lại nổi tiếng về dũng mãnh hơn, hai trẻ thường xuyên được gặp gỡ và chơi với nhau rất hợp ý qua sự tạo điều kiện của hai gia đình: “Hai gia đình thường tạo cơ hội cho hai trẻ gặp nhau. Và thật lạ lùng làm sao, những trò chơi của chúng bày ra lại rất nghiêm túc ngoài sức tưởng tượng của người lớn. Một trẻ đóng vai đạo sĩ khổ hạnh, một trẻ đóng vai du sĩ hành cước, chúng hỏi đạo nhau hoặc giả làm trò bố thí, cúng dường… Thỉnh thoảng trong những lời đối thoại, các bậc thầy cũng phải ngỡ ngàng về cái tâm mắc mỏ, có chiều sâu, chiều rộng của vấn đề. Tuy nhiên, trẻ con vẫn là tuổi vô tư lự. Chúng thích đi tắm sông, suối, thích chạy nhảy reo hò, thích ngoạn du đây đó. Giữa thiên nhiên chúng thả sức nô đùa, rượt đuổi chim thú, hái trái cây, hái hoa xâu thành tràng… Thỉnh thoảng chúng cũng vật lộn, đóng vai anh hùng, hiệp sĩ…”

Với bản chất thông tuệ, dũng mãnh cũng như địa vị và danh vọng của gia tộc, năm lên mười sáu, mười bảy tuổi, Mục-kiền-liên đã có cả trăm môn đệ trong làng vây quanh, cùng học tập, vui chơi cũng như thực tập các nghi thức tế lễ của làng. Ở làng bên cạnh, Xá-lợi-phất cũng có đầy đủ như vậy: “Hiện giờ, mỗi người đã có hơn một trăm môn sinh ở trong làng cùng các làng kế cận. Danh tiếng của hai môn đệ hy hữu này đã vượt qua những lũy tre xanh, vượt qua dòng sông lặng lẽ, vượt qua các thôn làng nhỏ bé để bay đến thành Vương-xá, kinh đô của văn hóa, kinh tế, tín ngưỡng và tâm linh của đạo học”.

Năm lên mười tám tuổi, Mục-kiền-liên đã trở nên một người thông tuệ, chàng bắt đầu gánh vác những trọng trách của làng do cha chàng dần dần giao phó. Tuổi thơ của Mục-kiền-liên không còn nữa, chàng đã bắt đầu làm một đạo sư khi tuổi vừa thành niên. Càng tiếp xúc với Thánh điển Vệ-đà, càng tiếp xúc với nhiều công việc tế lễ, thì sự trầm tư của chàng càng nhiều hơn.

Điều làm cho chàng đau lòng nhất, bức xúc nhất là hình ảnh của những buổi đại lễ tế thần, hàng trăm chú cừu non vô tội bị chặt đầu, cắt cổ để lấy máu tươi tế thần, những tiếng kêu thét thảm thiết đầy máu me kinh khiếp, những chậu máu, tô máu ấy lại được dâng lên để cúng thần, làm vui lòng thần… Lòng chàng xúc động, hoang mang cực độ. Một sự hoài nghi về thượng đế bất công, lạnh lùng và độc ác đã bắt đầu nảy sinh trong lòng chàng: “Ôi! Nếu Thượng Đế, nếu Đấng ấy là Vô Ngã, là Thần Hóa, là Đại Ngã, là Nhất Nguyên, là Bản Thể Vũ Trụ hay Tuyệt Đối Vô Nhân… mà còn cần những máu me, xác chết sinh linh kia để cúng tế cho mình, cần những khổ đau thống thiết kia mới có niềm vui, thì trách gì cháu con Ngài đang sống trong nhầy nhụa, tanh hôi của chém giết và hận thù? Một thời đại kế tiếp một thời đại, một trang sử khép lại một trang sử, một vinh quang kế tục một nỗi nhục, một văn minh nối tiếp một suy tàn, là nơi diễn ra những đấu trường đẫm máu, những tàn sát khủng khiếp, những bạo hành vô nhân tính, những âm mưu ác độc tàn tệ… thì đấy cũng nằm trong những định luật của Ngài? Tất yếu của Ngài? Tự do tối thượng của Ngài?…

Đức Brahman không toàn thiện. Thượng đế không toàn thiện. Ở đấy cũng trống không, hoang vắng và đau khổ. Ngài còn kiếm tìm niềm vui và cầu mong sự ngưỡng mộ, cúng tế máu súc vật của cháu con Ngài! Sự toàn năng, đại bi và siêu việt của Ngài cần xét lại!”.

Những lúc như thế, những hoài nghi nan giải ấy chàng chỉ có thể thổ lộ cùng người bạn thân nhất của mình là Xá-lợi-phất. Cả hai đều có những đồng cảm, những thắc mắc, nghi ngờ như nhau về truyền thống cao quí, về Thượng Đế chí tôn… Trong tâm hai chàng đã bắt đầu xuất hiện ý niệm xuất ly, từ bỏ gia đình, tài vật, dòng tộc tôn quí lâu đời… để ra đi tìm chân lý.

Thời niên thiếu của tôn giả Mục-kiền-liên nói riêng hay của những bậc Thánh nói chung là như thế, luôn luôn thanh cao, thông minh và sáng suốt cộng với những tài năng xuất chúng, lúc nào cũng vượt lên những thường tình của thế nhân, với những khát vọng xuất trần, với ước mơ được xuất ly khỏi cuộc sống giả tạm, thấp kém của thế gian, để dấn thân đi tìm một chân lí đích thực cho bản thân, cho cuộc đời và cho tất cả con người trong vũ trụ bao la này.

Mùa Hạnh Đức Quán Thế Âm với ngày Hạnh của ngành Nữ GĐPTVN ^

Thưa Anh Chị Em Lam viên thân mến,

Mỗi ngành của GĐPT đều có ngày truyền thống của mình: Ngành Nam (Thiếu Nam và Nam Huynh trưởng) thì có ngày Dũng, là ngày vía Xuất gia - nhằm mồng 8 tháng 2 âm lịch, ngành Oanh Vũ thì có ngày Hiếu - nhằm ngày Vu Lan Rằm tháng Bảy, ngành Nữ (Thiếu Nữ và Nữ Huynh trưởng) thì có ngày Hạnh. Trong ngày đó, các ngành có những sinh hoạt đặc biệt như trại họp bạn, những khóa tu học, hội thảo, triển lãm, đi thăm các bệnh viện, nhà dưỡng lão, cô nhi viện, v.v... Ngoài ra còn để báo cáo, tổng kết sinh hoạt của Đoàn, những thành quả của Ngành sau một năm, nói lên sức sống của đơn vị mình. Trong ngày đó, các em được thi đua về Phật pháp, hoạt động thanh niên; được biết, được làm quen với những điển hình xuất sắc của các đơn vị bạn... Riêng về ngành Nữ còn có triển lãm nữ công gia chánh. Đó là chưa kể những sáng kiến của riêng từng đoàn, từng tỉnh, v.v… có thể đưa ra nhiều hình thức tổ chức ngày Hạnh sao cho các em vừa được gần nhau, gần các chị Trưởng của mình, để có cơ hội hàn huyên tâm sự…

Đúng ra ngày Hạnh của ngành Nữ ngày xưa được tiến hành qua ba giai đoạn: 19/2 là tổng kết sơ khởi ở Đoàn, 19/6 là báo cáo lên Đơn vị, tổ chức trong đơn vị gia đình, và 19/9 mới là ngày tổng kết toàn tỉnh với các đơn vị bạn. Ở Đoàn thì do Ban Huynh trưởng ngành Nữ tổ chức, ở tỉnh thì do BHD tổ chức… Bởi vì ở trong nước, số lượng GĐPT rất đông, mỗi tỉnh không thôi đã có gần cả trăm đơn vị rồi, còn ở hải ngoại thì ít hơn và thời gian đi lại khó khăn hơn nên thường chỉ được tổ chức ở các Miền, và có thể vài năm mới tổ chức một lần, chỉ có ở đơn vị mới tổ chức ngày Hạnh hằng năm thôi. Vì vậy, chỉ có một ngày chứ không phải ba ngày như ngày xưa mà các em thường chọn 19/6 nhằm mùa hè, các em ngành Thiếu được nghỉ hè.

Ngày Hạnh cũng như những ngày truyền thống trong GĐPT là dịp để các em ôn lại những việc đã làm, tự soi rọi lại mình, tiếp xúc với bạn bè ở các đơn vị khác, được thấy nghe những con người cụ thể, những điều hay đẹp, mới mẻ… của đơn vị bạn, để tự mình cố gắng tiến bộ trong tu học và tu tập. Riêng ngành Nữ, các em được các Chị trưởng nói về đức Quán Thế Âm, về ý nghĩa những hạnh nguyện cao cả rộng lớn của Ngài để các em thường chiêm ngưỡng, thực hành hạnh lắng nghe, lòng từ bi, trí tuệ, v.v... của Ngài nói riêng, của chư Phật và Bồ-tát nói chung, cũng như sự thống nhất tư tưởng Phật giáo mà các em đã được các anh chị trao truyền. Chúng ta hãy cùng với ngành Nữ ôn lại một chút.

Thưa Anh Chị Em Lam viên kính mến,

Hình tướng có nam có nữ còn trí tuệ thì không có phân biệt nam nữ, cho nên về khả năng giác ngộ thì nam nữ giống nhau. Đức Quán Thế Âm Bồ-tát chứng được tánh nghe nhiệm mầu nên tiếng của Ngài là tiếng nói nhiệm mầu, tiếng nói thanh tịnh, tiếng nói ứng hợp thời cơ, tiếng như âm thanh hải triều; cứu giúp chúng sanh được mọi sự an lành, thoát mọi nỗi khổ sợ hãi, v.v... nhưng Ngài vẫn không rời tự tánh thanh tịnh như trong kinh Pháp Hoa đã nói:

“Diệu âm Quán Thế Âm

Phạm âm hải triều âm

Thắng bỉ thế gian âm”.

(tiếng mầu nhiệm Quán Thế Âm

tiếng Phạm, tiếng hải triều

tối thắng hơn tất cả âm thanh của thế gian).

Tại sao nói: “Đức Quán Thế Âm chứng được tánh nghe nhiệm mầu”? Ấy là tại vì Ngài tu phép nhĩ căn viên thông. “Chứng” là chỉ rõ được cái nhĩ căn hiện tiền, vẫn viên dung vô ngại, cùng khắp, hơn hẳn các căn khác - đây là lời đức Phật xác chứng trong kinh Lăng Nghiêm.

Trong đoạn “Viên thông về nhĩ căn”, đức Quán Thế Âm đã trình bày chỗ tu chứng của Ngài. Đó là do nghe, nghĩ và tu mà Ngài đã vào Tam-ma-đề (Samàdhi = đại định): Nghe là nghe Phật pháp, hiểu rõ đạo lý của Phật, do đó phát được Văn tuệ (trí tuệ do nghe). Nghĩ là suy nghĩ những điều đã học được, nhận rõ đạo lý ấy nơi tâm cảnh hiện tiền, do đó phát ra Tư tuệ (trí tuệ do tư duy). Sau khi nhận rõ đạo lý nơi tâm cảnh hiện tiền, Ngài luôn luôn đem cái đạo lý ấy mà huân tập tâm tính, nương theo đạo lý ấy mà tu tập, diệt trừ các mê lầm, do đó phát ra Tu tuệ (trí tuệ do tu tập). GĐPT chúng ta nói chung, ngành Nữ nói riêng, đã áp dụng Văn-Tư-Tu trong việc giáo dục đàn em và chính mình, thể hiện qua các bài học Phật pháp với ba phần rõ rệt: Em nghe, Em suy nghiệm, Em tu tập.

Thưa Anh Chị Em Áo Lam kính mến,

Noi theo gương Ngài ở mức độ cao hơn, hàng Huynh truởng chúng ta còn học tập đức Quán Thế Âm ở việc Ngài “quán cái tánh nghe không thêm bớt, không thay đổi, không sinh diệt, cùng khắp mười phương không ngăn ngại.” Ngài quán các tướng động, tĩnh hiện ra trong tánh nghe là như huyễn như hóa, không có tự tánh nên không còn phân biệt “Ta” và “Người”. Chúng ta đã diễn đạt ra đơn giản hơn, đó là “đức Quán Thế Âm Bồ-tát đã vượt qua biển lớn của lỗ tai (nhĩ căn)” và chúng ta cũng đã đặt câu hỏi để mình tự trả lời: Tại sao tai cũng là biển lớn phải vượt qua? Tại vì những lời qua tiếng lại, những lời khen tiếng chê v.v... cũng làm tâm dao động. Những lời khen chê, tự nó không xấu nhưng do ta chấp vào lời khen để sinh tâm ngã mạn, hay chấp vào lời chê để sinh tâm thù oán thì đó là sai. Quán sát âm thanh đơn thuần là âm thanh thì hiểu được Đạo. Khi ta điềm nhiên trước những lời chê bai, chửi mắng, nhục mạ, v.v… là ta đã độ được tâm mình, độ được tâm người kia.

Nhớ chuyện xưa, đức Phật im lặng lắng nghe người Bà-la-môn kia mắng chửi Ngài đến nỗi người ấy phải kinh ngạc hỏi: “Tại sao tôi nhục mạ Ngài cả buổi mà Ngài không giận dữ hay chưởi mắng lại?” Đức Phật hỏi: “Khi ông đem cho ai cái gì mà họ không nhận thì ông làm sao?” Người Bà-la-môn đáp: “Thì tôi đem về”. Đức Phật nói: “Cũng thế, những lời nhục mạ lúc nãy của ông cho, Như Lai không nhận, vậy ông hãy đem về đi”!☺☺!! Thật vậy, khen hay chê đều không thể biến ta thành ra người khác. Ta hãy cố gắng giữ gìn chánh niệm, tỉnh lặng để nghe tất cả âm thanh với tâm không phân biệt; nghe khen không ngã mạn, nghe chê không chán nản, oán thù. Được như thế thì tất cả mọi âm thanh đều là pháp, những lời chê là thử thách sự kiên định của tâm, là phương pháp rèn luyện tâm, điều phục tâm dao động. Được như thế là ta đã phần nào noi theo gương đức Quán Thế Âm - vượt qua biển lớn của tai rồi.

Thưa Anh Chị Em Lam viên,

Trong mùa vía Quán Thế Âm này, chúng ta hãy cùng với ngành Nữ tiến thêm một bước nữa, nguyện học theo hạnh Ngài “tự nghe cái nghe”, hay “xoay cái nghe vào bên trong” (Phản văn văn tự tánh hay phản quan tự kỷ). Đức Quán Thế Âm dạy rằng, xoay cái nghe vào bên trong tức là thoát ly thanh trần. Điều này được soi sáng bằng câu trả lời của ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ với đệ tử khi người này hỏi “mục đích tu thiền là gì?”:

“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”,có nghĩa là: Người tu phải soi rọi lại chính mình, đó là bổn phận; không phải từ bên ngoài mà được Đạo. Để giúp thêm tài liệu cho Anh Chị Em chúng ta vững tin rằng đây chính là tinh thần thống nhất được truyền từ trên xuống dưới của hệ thống kinh điển qua lịch đại tổ sư. Xin nhắc lại vài giai thoại Thiền, trước hết là câu chuyện “niêm Hoa vi tiếu” trên đỉnh Linh Thứu: Trong Pháp hội, đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên và đưa mắt nhìn mọi người, đến Ca-diếp, Tôn giả mỉm cười, đức Phật liền nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, nay đem trao cho Ca-diếp”. Như vậy, tôn giả Ca-diếp được đức Thế Tôn truyền y bát làm vị tổ thứ nhất. Sau đó, khi đức Phật đã nhập Niết-bàn rồi, tôn giả A-nan hỏi Ngài Ca-diếp: Thế Tôn truyền y bát cho sư huynh, có truyền thêm gì nữa không?

Ca-diếp không trả lời mà cất tiếng gọi: A-nan!

A-nan đáp: Dạ!

Ca-diếp nói tiếp: Cây phướng trước Chùa ngã.

Ngay đó, tôn giả A-nan ngộ.

Chúng ta nghe vậy thì ngơ ngác, vì Tôn giả A-nan đã nhận biết cái chân thật của mình, còn chúng ta đang lăng xăng quá nên chưa nhận ra cái gì giả và cái gì thật nơi mình cả!☺☺!!

Tương tự như vậy, khi Thần Quang thưa với tổ Đạt-ma rằng:

Bạch hoà thượng, tâm con không an, xin hoà thượng dạy con pháp an tâm.

Tổ đáp: Hãy đem tâm ra ta an cho!

Thần Quang sửng sốt, xoay lại tìm cái tâm của mình mà không thấy tâm đâu hết! Ông bèn thưa lại với Tổ: Bạch hoà thượng, con tìm tâm con không ra.

Tổ bảo: Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó!

Ngay khi ấy, Thần Quang đại ngộ, được tổ Bồ-đề-đạt-ma thu nhận làm đệ tử và đổi tên là Huệ Khả.

Thưa Anh Chị Em,

Như vậy chúng ta thấy rõ rằng từ “Chánh pháp nhãn Tạng” của đức Thế Tôn trên đỉnh Linh Thứu đến pháp tu “nhĩ căn viên thông” của đức Quán Thế Âm, qua cái “pháp an tâm” của tổ Bồ-đề-đạt-ma, quả thật không khác lời tuyên bố của tổ Bồ-đề Đạt-ma về tinh thần Thiền tông, cốt tủy của Đạo giải thoát, khi Ngài đến Trung Hoa. Đó là:

Bất lập văn tự,

Giáo ngoại biệt truyền,

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật.

(Không có văn từ chữ nghĩa,

Truyền riêng ở ngoài giáo lý,

Chỉ thẳng tâm người,

Thấy tánh thành Phật).

Chúng ta tuy chưa đạt đến trình độ nghe một câu là trực ngộ nhưng chúng ta đã có phương pháp Văn-Tư-Tu, đã biết gốc ngọn của Đạo mình, đã biết được Đạo không phải là lý thuyết suông mà phải tu sau khi “Văn-Tư” rồi.

Vì vậy, để kỷ niệm ngày vía Quán Thế Âm, cũng là ngày Hạnh của ngành Nữ GĐPT, để tán thán và cảm niệm ân đức sâu dày của Ngài “bố thí pháp vô úy cho chúng sanh”, không gì quí hơn là anh chị em chúng ta quyết tâm vâng theo lời khuyên của Ngài, tu tập nghe cái tánh nghe; hãy xoay cái nghe vào bên trong như ngài Ca-diếp đã dạy ngài A-nan như vậy. Chúng ta hãy dừng lại, đừng chạy theo ngoại cảnh mà hãy tự nghe cái tánh nghe của mình. Khi một căn của chúng ta đã thực hành được thì các căn còn lại cũng đều sẽ được như vậy.

Thân kính chúc ngành Nữ GĐPT nói riêng, và tất cả Lam viên nói chung, một mùa vía Quán Thế Âm - Mùa Hạnh - an lạc, giải thoát để hoàn thành mọi Phật sự được giao phó.

Trân trọng,

Tâm Minh

Tu hạnh QUÁN ÂM^

Chánh Niệm

Quán Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara”, dịch sang tiếng Hán là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại,… Danh hiệu Quán Thế Âm, nghĩa là Quán sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Theo kinh Bi Hoa, ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Thời đó có vua Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là Vô Tránh Niệm. Trong triều có một vị đại thần tên là Bảo Hải, vị đại thần này hết sức lo cho dân cho nước, sống rất nhân từ, là phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia. Vua Vô Tránh Niệm đối trước đức Bảo Tạng phát bốn mươi tám lời thệ nguyện và được Phật thọ ký tương lai sẽ làm Phật A-di-đà ở cõi thế giới cực lạc phương Tây. Vua Chuyển Luân có rất nhiều người con. Người con cả là thái tử Bất Tuấn, sau này cũng xin xuất gia theo cha và đối trước đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bản nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ não. Vì vậy, đức Bảo Tạng thụ ký cho thái tử thành Bồ-tát hiệu là Quán Thế Âm. Bồ-tát Quán Thế Âm là hiện thân của từ bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si.

Từ bi nguyên nghĩa là “Từ năng dữ lạc, Bi năng bạt khổ”. Từ nghĩa là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Bi là hành động cứu khổ, nhổ tận nguồn gốc đau khổ. Nói cách khác: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ. Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là Bi.

Thuở xưa, ngài Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là “Chánh Pháp Minh Như Lai”. Vì lòng thương xót sự đau khổ của chúng sanh mãi trầm luân lặn hụp trong sáu nẻo luân hồi, Ngài đã thị hiện làm Bồ-tát đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Ngài quán thấy Phật và chúng sanh có chung một bản thể, một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộ nên không bị khổ đau chi phối, trong khi đó chúng sanh còn mê muội nên phải chịu vô số khổ đau. Tuy khổ đau đó chỉ là huyễn hóa, không thật nhưng vì si mê nên chúng sanh chấp chặt cho là thật có, từ đó bị chúng làm cho vô cùng đau khổ. Chính vì vậy mà Bồ-tát Quán Thế Âm phải ra tay cứu khổ, hầu mong hướng dẫn chúng sanh quay về với bản tâm an vui thật sự của mình.

Bồ-tát Quán Thế Âm có lòng thương yêu chúng ta như thế, vậy chúng ta phải làm gì để khỏi phụ lòng từ ái của Ngài? Để khỏi phụ tấm lòng cao cả của Ngài, mỗi chúng ta cần phải thường xuyên trì niệm danh hiệu của Ngài và nhất là cần phải tu tập theo công hạnh và tâm nguyện của Quán Âm. Nếu ai thường xuyên trì niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được rất nhiều lợi ích như không bị quỷ dữ làm hại, không bị nước trôi, lửa cháy; không bị tham sân si làm hại, cầu mong điều gì chính đáng đều được thỏa mãn... Những lợi ích đó đã được nói rất rõ trong kinh Phổ Môn.

Mặc dù Ngài luôn luôn giúp đỡ mỗi khi chúng ta gặp khổ ách, nhưng Ngài vẫn luôn mong muốn chúng ta tự vượt qua khổ ách bằng nỗ lực của chính mình. Ngài luôn mong chúng ta cũng tu tập hạnh Quán Âm như Ngài đã từng tu tập, để giúp mình và người không còn khổ đau nữa. Vậy tu tập hạnh Quán Âm là tu như thế nào?

Muốn thành tựu hạnh Quán Âm, trước tiên chúng ta cần trở về với chính mình, “lắng nghe” lại chính bản thân chúng ta. “Nghe” ở đây không phải chỉ là lắng nghe đơn thuần mà chính là sự “Quán sát thân tâm” của chúng ta. Khi thân ta bất an, ta nhận biết thân ta đang bất an, ta nhìn thật sâu để thấy rõ lý do của sự bất an ấy. Chẳng hạn khi ta bị đau bao tử, ta phải quán sát xem vì sao ta lại bị đau bao tử. Hoặc là do ta ăn toàn những thức ăn khó tiêu, hoặc là do ta ăn uống không điều độ, hoặc là do ta hay lo lắng... Sau khi biết được nguyên nhân của khổ đau này, bên cạnh việc chữa trị, chúng ta cần phải loại bỏ nguyên nhân gây ra khổ đau ấy. Có như vậy, nỗi khổ ấy mới không còn trở lại với chúng ta. Khi tâm bất an cũng vậy, ta cần phải quán sát và tìm hiểu vì sao tâm bất an. Có thể do lòng tham quấy nhiễu khiến tâm ta bất an, cũng có thể do tâm sân hận bùng phát nên tâm ta bất an, cũng có thể là tâm ta đang lo lắng sợ hãi một điều gì đó. Chúng ta phải tìm ra nguyên nhân của sự bất an ấy và tìm cách loại trừ nó. Thông thường, muốn vượt qua sự bất an ấy, chúng ta chỉ cần kiên nhẫn ghi nhận sự bất an ấy một cách bình thản, không khởi tâm ghét bỏ hay xua đuổi nó thì không bao lâu nó sẽ tự biến mất. Tuy nhiên, có một số sự bất an sau khi ta ghi nhận nó vẫn không chịu tan biến. Trong trường hợp này bắt buộc ta phải tìm cho ra nguyên nhân sâu xa của nó để có cách điều trị thích hợp. Ví dụ như, do ban đêm chúng ta ngủ quá ít nên ban ngày chúng ta có cảm giác lừ đừ, buồn ngủ. Mặc dù chúng ta đã ghi nhận rất rõ ràng, nhưng cảm giác này cũng không chịu tan biến. Cách duy nhất để chấm dứt cảm giác buồn ngủ này là ta phải ngủ cho đủ thời gian mà cơ thể cần.

Người tu hạnh Quán Âm cần phải thấy rõ nhân quả, thấy rõ nguyên nhân của các khổ đau để mà tránh xa các nhân xấu, tránh xa những nhân sẽ đem lại quả báo xấu. Người ấy cần phải giữ gìn giới luật cho thật tinh nghiêm vì phạm giới là nhân dẫn chúng ta đi vào chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ vô cùng.

Chẳng những tránh xa các hành động dẫn đến khổ đau, người tu hạnh Quán Âm còn cần phải chế tác hỷ lạc cho mình bằng cách thường xuyên làm những việc lành như phóng sanh, bố thí, tụng kinh, tọa thiền, nghe Pháp, lễ Phật, cúng dường Tam bảo...

Bên cạnh việc lắng nghe lại chính mình, người tu hạnh Quán Âm còn phải tập lắng nghe người khác để nhận ra những đau khổ của họ, thấy rõ nguyên nhân của những đau khổ ấy và giúp họ thoát khổ. Ví dụ như khi thấy một em bé đang khóc, chúng ta phải tìm hiểu xem vì sao nó khóc, có thể là nó đói bụng, cũng có thể là nó bị lạnh, cũng có thể nó bị kiến cắn..., chúng ta phải biết rõ lý do em bé khóc để giúp nó hết đau khổ. Nếu ta phát hiện ra đứa bé khóc vì bị lạnh thì ta chỉ cần mặc thêm áo hay đắp thêm tấm chăn cho nó thì nó sẽ hết khóc. Nếu em bé khóc vì đói bụng thì chỉ cần cho nó ăn nó sẽ hết khóc. Đối với những người lớn cũng vậy. Khi ta phát hiện ra họ đang đau khổ vì tâm bệnh, ta sẽ nói lại cho họ nghe những bài Pháp có tác dụng chữa trị tâm bệnh. Nếu họ đang đau khổ vì thân bệnh, ta phải tìm cách giúp cho họ chữa trị thân bệnh. Chẳng hạn khi ta phát hiện một người nọ đang đau khổ vì người thân của họ vừa qua đời, chúng ta cần nói cho họ nghe về sự vô thường của vạn vật trên thế gian này để họ bớt buồn khổ. Đối với người đang bị nỗi buồn bực, ray rứt cấu xé thì ta chỉ cho họ cách ghi nhận nỗi buồn đó và thực tập chánh niệm để vượt qua nỗi buồn đó. Đối với người đang bị đau khổ vì nhức răng, ta có thể khuyên họ đi nha sĩ để chữa trị; đồng thời chỉ cho họ cách ghi nhận cơn đau nhức với thái độ bình thản, đừng có tâm xua đuổi cơn đau nhức bởi vì càng xua đuổi nó càng bám chặt và chúng ta càng thêm đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta bình thản quán sát thì chúng mới lắng dịu dần.

Ngoài ra, ta phải luôn luôn tìm cách thân cận với mọi người để khuyên họ làm lành lánh dữ, ăn chay, niệm Phật, trì trai, giữ giới, phóng sanh, bố thí, cúng dường Tam bảo, lạy Phật, tụng kinh, tọa thiền,... để giúp cho họ thoát khổ, được vui.

Tóm lại, mỗi chúng ta đều nên thường xuyên trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm và thực tập hạnh Quán Âm để đem lại an lạc hạnh phúc cho mọi người cũng như chính bản thân mình.

Kiến trúc Phật giáo qua các thời kỳ^

Trần Lan Chi

Kiến trúc Phật giáo thời Trần - Hồ và Hậu Trần (1225 - 1413)

- Tình hình phát triển Phật giáo thời Trần

Sau khi Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lý, bị Trần Thủ Độ lập kế ép nhường ngôi cho chồng, triều Lý chấm dứt, Trần Cảnh lên ngôi mở ra một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc với 3 lần đại thắng quân Nguyên Mông. Nhà Trần (1225-1400) trải qua các triều đại sau:

Trần Thái Tông (1225-1258)

Trần Thánh Tông (1258-1278)

Trần Nhân Tông (1278-1293)

Trần Anh Tông (1293-1314)

Trần Minh Tông (1314-1329)

Trần Hiến Tông (1329-1341)

Trần Dụ Tông (1341-1369)

Trần Nghệ Tông (1370-1372)

Trần Duệ Tông (1372-1377)

Trần Phế Đế (1377-1388)

Trần Thuận Tông (1388-1398)

Trần Thiếu Đế (1398-1400).

Sau đó, Nhà Hồ (1400-1407) trải hai triều Hồ Quý Ly (1400), Hồ Hán Thương (1401-1407) và thời Hậu Trần kháng chiến chống quân Minh (1407-1413) gồm Giản Định Đế (1407-1409) và vua Trùng Quang (1409-1413), do thời gian cai trị quá ít và chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc xảy ra liên miên nên không có công trình Phật giáo nào được xây dựng trong giai đoạn này hoặc không còn dấu tích nào còn lại cho đến ngày nay. Do đó, ta nói đến kiến trúc Phật giáo thời Trần là nói đến kiến trúc chùa tháp được xây dựng hoặc trùng tu toàn phần thời kỳ 1225 đến 1440.

Thời Trần, Phật giáo có những trường phái riêng của Việt Nam với những giáo lý thực tế trên nền tảng căn bản của tôn giáo từ bi, bác ái và vị tha. Phật giáo cũng được truyền bá nhưng ảnh hưởng không sâu rộng bằng thời Lý. Đạo Nho bắt đầu có ưu thế rõ rệt do nhu cầu của việc trị nước của chính quyền, nhưng Phật giáo vẫn lớn mạnh và là chỗ dựa cho cuộc sống tinh thần của quảng đại quần chúng. Nhiều nhà vua, vương hầu, khanh tướng cũng xuất gia quy y cửa Phật. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử, lập ra Thiền Phái Trúc Lâm - hệ thống Thiền phái đặc trưng đầu tiên của Việt Nam.

Nhà Trần trải qua ba cuộc chiến chống Nguyên Mông, tuy đạt được thắng lợi nhưng các công trình văn hóa của nước nhà đã bị tổn hại rất nhiều dưới sự dày xéo của quân giặc. Đến giai đoạn cuối, chiến tranh với Chiêm Thành xảy ra hơn mười lần khiến đất nước cũng bị điêu đứng một thời gian dài. Chiến tranh đã tàn phá nhiều công trình chùa tháp. Kiến trúc Phật giáo thời kỳ này chủ yếu là trùng tu hoặc xây dựng lại các công trình đã có từ thời trước. Một số trung tâm Phật giáo được mở mang xây dựng hoàn chỉnh như khu chùa tháp tại Yên Tử (Quảng Ninh). Các công trình khởi dựng thời kỳ này thường có quy mô nhỏ như chùa tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên), Bối Khê (Hà Tây)...

- Những công trình Phật giáo tiêu biểu trong thời Trần

Các ngôi chùa được xây dựng rải rác ở Đông Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ nhưng tập trung nhất vẫn ở ven các triền sông vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày nay. So với nhà Lý, phạm vi xây dựng chùa tháp thời Trần đã được mở rộng vào hướng Nam đến Thanh Hóa, Nghệ An.

+ Chùa Phổ Minh (Nam Định) được xây dựng khoảng năm 1262, còn lưu giữ được cánh cửa gỗ bốn tấm bằng gỗ lim, cao 1,9m và mỗi cánh rộng 0,8 m với những trang trí hình rồng, hoa lá và sóng nước. Một số thành bậc cửa bằng đá chạm rồng và sấu. Tháp Phổ Minh bằng đá, dựng trước cửa chùa vào năm 1305.

+ Chùa Bối Khê (Hà Tây) dựng năm 1338, chùa giữ được một số đầu bẩy chạm hình đầu rồng ngậm ngọc, phía ngoài có một hình chim, lưu được bộ vì kèo tại gian giữa tòa Thượng Điện và một số chạm khắc chim thần Garuda ở góc bệ đá và tường gạch, bệ đá hoa sen ba tượng năm 1382.

+ Chùa Thái Lạc (Hưng Yên) còn giữ được một số mảng cốn, ván nong trang trí rất đẹp. Điêu khắc gỗ của chùa này và chùa Bối Khê tiêu biểu cho điêu khắc gỗ kiến trúc Phật giáo thời Trần.

+ Chùa Báo Ân (Gia Lâm, Hà Nội) còn lại những di vật cổ như mảng nền, kết cấu sáu hàng chân cột, một vì rộng 13m và một số hiện vật bằng đất nung mang phong cách trang trí thời Trần. Điêu khắc trang trí có bệ đá hình vũ nữ, một đầu rồng và một số trang trí lá đề là có giá trị.

+ Chùa Vĩnh Khánh và tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc) hiện nay, niên đại của tháp Bình Sơn còn gây nhiều tranh cãi, nhưng theo nhiều tư liệu đáng tin cậy thì tháp Bình Sơn khởi dựng trong thời Trần. Tháp Bình Sơn là ngôi tháp cổ sử dụng chất liệu đất nung có giá trị rất cao về mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo.

- Thiền phái Trúc Lâm hình thành với ý tưởng xây dựng một không gian Phật giáo thanh tịnh đã gắn liền tên tuổi với các danh sơn như Yên Tử (Quảng Ninh), Côn Sơn (Hải Dương), Quỳnh Lâm (Quảng Ninh)… Những ngôi chùa tại các nơi này được xây dựng từ thời kỳ trước và được xây dựng thành các trung tâm Phật giáo dưới thời Trần. Dấu vết thời Trần còn lại rất ít, ví dụ như ở Yên Tử, những viên gạch vuông trang trí hoa dây, nền tháp đá thời Trần có cạnh 3m15 với mặt bằng hình lục lăng.

- Các ngôi chùa khác được khởi dựng thời kỳ này như chùa Hương Tích ở núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), chùa Hào Xá (Hưng Yên), Chùa Dương Liễu (Hà Tây), chùa Hoa Long, chùa Thông (Thanh Hóa)… Một số ngôi chùa lưu giữ được một vài hiện vật như chùa Long Hoa (Nam Định) có lưu giữ bệ thờ hoa sen, tượng rồng đá. Chùa Dâu có bộ vì nóc thượng điện từ thời Trần. Chùa Thầy còn lưu giữ bộ lưng ngai năm 1346. Chùa Hương Trai (Hà Tây) lưu giữ được bệ đá năm 1358-1369. Chùa Xuân Lũng có tòa sen năm 1386. Chùa Đại Bi có tòa sen ghi năm 1374. Chùa Che (Hà Tây) hiện còn bia đá. Ngoài ra, một số nền tháp thời này đã được tìm thấy như Ghềnh Tháp (Nam Định), Dưỡng Phú (Hưng Yên), Linh Nga bảo tháp và Xuân Hồng (Nghệ Tĩnh).

- Đặc điểm kiến trúc

Nghiên cứu về kiến trúc thời Trần hiện nay có thể dựa vào hai nguồn: thư tịch cổ (chỉ còn ghi chép vắn tắt qua sử sách, bia ký) và thực địa. Trải qua hàng trăm năm biến động, dưới tác động của chiến tranh, ảnh hưởng khắc nghiệt của khí hậu, hay thậm chí những lần trùng tu, bao nhiêu công trình đã bị hủy hoại chỉ còn để lại dấu vết hoặc thay đổi hình dạng ban đầu hoàn toàn. Tuy nhiên vẫn còn một số công trình từ thời kỳ này còn tương đối nguyên vẹn cho đến tận hôm nay như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, vì nóc Thượng điện chùa Thái Lạc, Bối Khê...

+ Vị trí, thế đất

Ở thời kỳ đầu, chùa tháp được xây dựng dưới sự chỉ đạo của hoàng cung. Thờ Phật được thờ trong một điện thờ riêng, cây tháp không còn chức năng thờ Phật nữa mà trở lại tính chất là mộ chí của các nhà tu hành đạo Phật hoặc tháp kỷ niệm. Thời Trần cũng như thời Lý, chùa tháp thường được lựa chọn những địa thế trên đồi lớn, núi cao để xây dựng. Vị trí những ngôi chùa xây dựng thời kỳ đó chẳng những xa lánh cuộc sống trần tục mà còn gợi nên không khí trầm mặc, thanh tịnh và u nhã phù hợp với sự thiêng liêng của Thần Phật mà nhu cầu tôn giáo đòi hỏi.

Với địa hình núi cao thì các kiến trúc được xây dựng theo các lớp nền tương tự như thời Lý với các cao độ khác nhau như chùa Yên Tử hay chùa Lấm (Quảng Ninh). Nhiều chùa được dựng trên địa thế rộng như chùa Lân (chân núi Yên Tử), chùa dựa vào chân núi, trước mặt hướng ra suối lớn, vườn chùa rộng rãi chạy dài từ cổng vào. Chùa Hoa Yên được dựng trên hai nền đất bạt ở sườn núi. Các ngôi chùa quay hướng Nam, lấy núi làm hậu chẩm, những dãy núi trùng điệp hai bên như tay long, tay hổ ôm lấy Thái cực. Trước mặt lấy suối Giải Oan làm minh đường.

Về sau, chùa làng phát triển mạnh. Theo văn bia chùa Thiên Phúc (Bắc Giang), nhà nho Lê Quát đã cảm thán rằng: “Việc họa phúc của nhà Phật rung động lòng người sao mà sâu và mạnh đến thế! Trên thì từ vương công, dưới thì đến thứ dân, phàm lo việc Phật thì tuy hết của cải cũng không tiếc gì. Ngày nay cúng tiền vào chùa tháp thì hớn hở như cầm tờ chứng khoán để được báo đáp ngày mai. Cho nên từ kinh thành ở trong cho đến châu phủ ở ngoài, khắp hang cùng ngõ hẻm, người ta không được lệnh mà cứ theo, không thề thốt mà cứ tin, nơi nào có dân cư là nơi đó có chùa Phật, phế rồi lại hưng, đổ rồi lại sửa, chuông trống lâu đài, gần nửa dân cư lao vào đó.” Từ văn bia này và nhiều văn bia khác cũng như thực địa, có thể thấy chùa quy mô nhỏ được xây dựng ở khắp nơi trong thời kỳ này.

Từ một số vị trí hiện nay của các công trình xây dựng vào thời Trần, ta thấy các công trình đều được xây dựng ở các vùng tách biệt với xóm làng, nhưng lại là trung tâm của nhiều vùng lân cận (ví dụ chùa Phổ Minh, chùa Vĩnh Khánh). Thứ hai, các công trình đều được xây dựng ở nơi phong quang thoáng đãng. Ví dụ, chùa Bối Khê nằm giữa vùng đất trù phú cửa ngõ phía Tây của kinh thành Thăng Long, thuộc tả ngạn sông Đáy, từng một thời là con đường giao thông huyết mạch trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trước chùa xưa kia có sông Đỗ Động làm nơi tụ thủy, rất đẹp và tạo nên những phong cảnh non nước hữu tình cho cả các công trình xây dựng trên đất bằng. Ngay cả những ngôi chùa đồng bằng cũng rất chú trọng đến lựa chọn vị trí phù hợp với cảnh quan chung. Ví dụ tháp chùa Phổ Minh được dựng trong phủ Thiên Trường xưa (hiện ở tỉnh Nam Định) hòa chung vào tổng thể xung quanh, xóm làng ở phía sau, đồng ruộng phía trước tạo nên điểm nhìn cho toàn bộ công trình.

+ Tổ hợp không gian

Các công trình chùa tháp liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên, phù hợp với cảnh trí xung quanh tạo nên một kiến trúc tổng thể hoàn chỉnh. Công trình như mọc lên và hòa vào với đất, phù hợp với thiên nhiên và khung cảnh thiên nhiên chung quanh cũng làm tôn thêm vẻ đẹp của kiến trúc rất nhiều. Đối với các công trình không thuộc dạng danh sơn, trong toàn cảnh cũng như từng thành tố cấu thành kiến trúc công trình, sự đăng đối tiếp thu từ kiến trúc thời Lý vẫn được đưa lên vị trí quan trọng hàng đầu.

Tháp thời Trần được dựng khá nhiều trong các công trình kiến trúc Phật giáo với chức năng làm nơi thờ Phật, kỷ niệm hoặc tháp mộ. Ví dụ, tháp Bình Sơn, tháp Phổ Minh là loại tháp được dựng nên với tính chất kỷ niệm, tháp ở Yên Tử thì thuộc dạng tháp mộ. Kích thước của tháp thời Trần nhỏ nhưng giống kiểu dáng tháp thời Lý. Tháp thường gồm nhiều tầng, tiết diện vuông, đôi khi có hình lục giác (tháp mộ thờ Trần Nhân Tông ở Yên Tử), kích thước càng lên cao càng thu nhỏ dần. Tháp giờ không còn là kiến trúc chính nữa mà chỉ là những kiến trúc phụ trong tổng thể một ngôi chùa. Lòng tháp thường hẹp không đủ làm Phật điện nên phải có một điện thờ Phật ở phía sau. Do đó, khác với thời Lý, tháp thời Trần thường có vị trí trước sân chùa, ví dụ tháp Phổ Minh chùa Phổ Minh, tháp Bình Sơn chùa Vĩnh Khánh, tháp Trần Nhân Tông chùa Hoa Yên... tháp thường được xây trước ngôi chùa.

Đến cuối Trần, chùa làng phát triển mạnh. Chùa gồm điện thờ Phật, sư Tổ, các phòng Tăng, các tháp mộ ở hai bên và phía sau điện thờ. Từ thời Trần, kiến trúc gỗ đã có những bằng chứng khảo cổ tồn tại. Một số Phật điện và tháp thời Trần còn khá nguyên vẹn cho đến thời nay. Nền điện thờ Phật cao và hình vuông (phát triển từ tháp thờ Phật thời trước). Chùa chỉ còn chức năng tu hành, không còn là hành cung cho vua ngự. Các công trình khiêm nhường về kích thước, vừa phải về quy mô nên mang lại cảm giác ấm cúng và gần gũi với con người hơn nhiều so với các công trình đồ sộ thời Lý.

+ Kiến trúc Phật điện

Kiến trúc gỗ: Kiến trúc gỗ tại một số ngôi chùa như Thái Lạc, Bối Khê, kiến trúc mang dấu ấn thời Trần chỉ còn lưu lại qua Thượng điện, còn ngôi chùa hiện nay được mở rộng rất nhiều qua các thời sau.

Những tòa thượng điện còn lại của ba ngôi chùa là chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê có chung một kiểu thức kiến trúc với kích thước tương đối tương đồng. Điện thờ Phật thời Trần thường có nền là hình vuông và thời Trần đã bắt đầu xuất hiện kiến trúc kiểu chuôi Vồ và chữ Tam. Các nền chùa thường được tôn cao hơn mặt đất bình thường và không lát gạch. Các chùa làng như Thái Lạc và Bối Khê có Phật điện xây trên nền cao trên dưới 1m, mỗi cạnh xấp xỉ 10m, tạo thành một nền đế hình vuông. Căn cứ vào khoảng cách giữa các cột cái với nhau thì kích thước chùa thời này thường nhỏ (ở chùa Bối Khê và Thái Lạc là 3m).

Kiến trúc Phật điện là kiến trúc một gian hai chái, không có tường vách bao. Các tòa thượng điện đều có bốn cột cái lớn ở giữa, 12 cột quân (đồng thời làm cột hiên vì chia gian chỉ có bốn hàng chân cột) xung quanh, do đó hai vì chia gian đều thuộc gian giữa. Kết cấu khung gỗ đỡ hai mái chính ở đằng trước và đằng sau, và hai mái bên, toàn bộ trọng lượng mái chuyển qua cột xuống nền nhà. Mái tỏa ra bốn phái, lan xuống thấp với các đầu đao vươn thành những đóa hoa ở bốn góc cong hất lên. Lối cấu trúc khung gỗ này được duy trì đến các thời sau như một mẫu mực của thức kiến trúc cổ Việt Nam.

Kết cấu kiến trúc điển hình là nền hình vuông, có bốn cột to ở giữa, tạo thành bộ vì theo kiểu giá chiêng gồm một câu đầu tỳ lực lên hai đầu cột cái. Các cột cái nối với nhau bằng những câu đầu to trên đỉnh, các cột quân nối với cột cái bằng xà nách. Bên trên câu đầu, có gắn một bộ phận gọi là giá chiêng thường thấp hơn so với các thời kỳ sau, bộ phận này gồm hai trụ chống đỡ một bộ phận nối gọi là bụng lợn. Các bộ khung giá chiêng có tác dụng giữ cho con chồng hai bên vững chắc và góp phần chống đỡ mái. Ở giữa khung giá chiêng, thời kỳ này người ta thường lắp thêm ván bưng trang trí thường chạm trổ hình lá đề với những phù điêu rồng, tiên nữ tạo thành một đặc điểm dễ nhận biết qua phong cách trang trí trên ván bưng đó. Từ cột cái nối với cột quân có xà nách nằm ngang, bên trên là các con rường chồng lên nhau qua các đấu kê. Từ cột quân ra ngoài hiên, đầu bẩy được chúc xuống theo độ dốc mái. Phái trên xà nách ngang và dọc có những bức cốn hình vuông là nơi hội tụ tinh hoa trang trí của toàn bộ ngôi chùa. Các thành phần gỗ thời kỳ này đều to mập, liên hệ với nhau bằng mộng (phần lồi lõm liên kết các bộ phận của kiến trúc với nhau) tạo ra các cấu kiện chặt chẽ, chắc chắn nhưng có thể tháo lắp và thay thế dễ dàng khi sửa chữa.

Kiến trúc tháp: Ta có thể thấy được hình ảnh kiến trúc tháp thời kỳ này qua hai ngôi tháp điển hình còn giữ được đến ngày nay, đó là tháp Phổ Minh và tháp Bình Sơn.

Tháp Phổ Minh là một công trình bằng đá và gạch gồm 14 tầng và cao 19,51m, mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh dài 5m21, tầng một cao 2m2. Tuy nhiên, có tư liệu cho rằng, 11 tầng dưới là của thời Trần, còn ba tầng trên không có nẹp đá ba góc và trang trí hoa văn là sản phẩm của thời gian gần đây. Mái các tầng nhô ra rất ít, càng lên cao càng thu hẹp lại, chiều cao các tầng càng thấp đi và kết thúc bằng một chóp búp tạo cho dáng tháp thêm thon thả, bốn mặt tháp đều trổ cửa tò vò. Tháp có dáng cao thanh mảnh do bề ngang hẹp, các rìa mái tầng tầng lớp lớp tạo một cảm giác siêu thoát và linh thiêng cho chốn cửa Phật.

Tháp Bình Sơn được xây dựng bằng đất nung già đỏ sẫm, giờ chỉ còn 11 tầng và cao 15m (theo ghi chú các viên gạch xây dựng tháp trong đợt trùng tu di tích cho thấy tháp có thể cao đến 14 tầng). Tháp Bình Sơn có cạnh đáy bệ tháp là 4,45m, cao 1,62m, cạnh tầng thứ 11 cạnh 1m55, dáng tháp chắc đậm. Tầng thứ nhất cao 2,72m, chiều mỗi cạnh rộng 3,3m, bốn mặt trổ cửa tò vò.

+ Vật liệu và kỹ thuật xây dựng

Vật liệu xây dựng:

Kỹ thuật xây dựng thời Trần phát triển rực rỡ do tiếp thu được tinh hoa của nền nghệ thuật thời Lý và được hun đúc trong quá trình lao động của ông cha. Chất liệu mỹ thuật thời Trần để lại phong phú hơn thời Lý, do đó kỹ thuật cũng có những riêng biệt ở một cấp độ cao hơn thời Lý. Đối với các nhà khung gỗ hiện còn như vì kèo thuần gỗ (gỗ mít, gỗ lim), như thượng điện chùa Thái Lạc, Bối Khê, Dâu đã giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát hơn về kiến trúc khung gỗ sớm nhất còn tồn tại cho đến ngày nay.

Chất liệu xây tháp:

Các ngôi tháp thường là sự kết hợp giữa đá và gạch, hoặc làm bằng đất nung. Các chất liệu như đá xanh được sử dụng làm bệ dưới tháp Phổ Minh tạo vẻ đẹp, và tăng độ bền vững cho công trình. Vật liệu được sử dụng ở các tầng trên là gạch nung mỏng, nhẹ. Hồ lô trên đỉnh tháp bằng đồng (giờ đã mất), các dây đồng được sử dụng ràng buộc các kết cấu với nhau. Các loại gạch vuông (22cm x 22cm) và loại dài (45cm x 22cm) được sử dụng để xây lõi tháp Bình Sơn, gạch trang trí bên ngoài có kích thước 46cm x 46cm và những viên gạch hình Thước Thợ (L) để tăng sự chắc chắn cho lớp gạch bên ngoài.

Kỹ thuật xây dựng:

Kiến trúc thời Trần đã để lại kỹ thuật dựng chùa và xây tháp. Khung gỗ của chùa là những thành phần to lớn chồng lên nhau, lấy sức nặng bản thân để tạo nên sự vững chắc. Những vì kèo còn lại của thời kỳ này có những thành phần cấu trúc cơ bản định hình nên kỹ thuật xây dựng nhà khung gỗ của các thời kỳ sau. Thành phần chủ yếu là cột cái, cột quân, xà, con chồng, đấu kê. Các thành phần kết cấu gỗ được liên kết với nhau bằng mộng chốt có thể tháo lắp một cách dễ dàng.

Kỹ thuật xây tháp:

Sự cân bằng của các tháp dùng sức nặng tự thân là chính, các thành phần của tháp được gắn kết bởi các chất keo vữa và mộng. Mộng chốt nối gạch ốp ngoài với khối trụ bên trong và mộng cá chì được dùng để nối các viên gạch với nhau. Ở các tầng gạch phía dưới, người xưa còn dùng các dây đồng xâu móc qua viên gạch để tăng độ liên kết kiến trúc (tháp Phổ Minh). Keo vữa xây tháp có hai loại, xây lõi gạch bên trong (tháp Bình Sơn) sử dụng keo bằng chất đất mịn vàng có độ kết dính cao và keo để xây ốp bên ngoài bằng hợp chất vôi, mật và giấy dó với độ kết dính rất cao.

Lòng tháp Bình Sơn được xây thành khối trụ vuông, càng lên cao càng thu hẹp tạo nên một cốt lõi hình trụ vững chắc cho công trình. Kết thúc mỗi tầng người ta xây nhô ra mấy hàng gạch để tạo diềm mái, vừa làm đẹp vừa tạo thế cân bằng cho tháp. Đặc biệt, các viên gạch trang trí mặt ngoài tháp được đánh dấu ghi rõ vị trí tầng thứ mấy và là viên thứ mấy trong tầng đó. Việc đánh dấu này phổ biến trong nhiều di tích phản ánh trình độ kỹ thuật và tư duy tổng hợp của thời kỳ này đã rất phát triển.

Ngoài ra, ta không thể không kể đến kỹ thuật làm móng của tháp Phổ Minh, với kinh nghiệm xây móng nền chịu lực. Để xây móng tháp, người ta đào sâu xuống 2,4m, móng được gia cố thành hai lớp, một bằng đá và một bằng sét trộn sỏi nện chặt. Lớp đất sét cũng được chia thành nhiều lớp, lớp sỏi trộn sét đen dưới cùng, các lớp trên là sỏi trộn sét nâu vàng (với độ dày 1,52) m tạo ra lớp móng đầu tiên vững chắc. Trên lớp này, người ta xây móng bằng đá khối kích thước trung bình 1,6m x 1,4m x 0,8m, tạo thành nền móng kiên cố hình vuông mỗi chiều 5,5m. Trên đó, người xưa bắt đầu xây dựng đế tháp và các tầng tháp. Nói chung, việc xây cất ở thời Trần đều sử dụng kỹ thuật cấu ráp các bộ phận kiến trúc với nhau trên căn bản vật lý rất logic.

+ Trang trí, điêu khắc

Trang trí trên gỗ của thời Trần không bay bướm như thời Lý nhưng sự khỏe khoắn hiện ra trong từng nét chạm khắc tinh xảo. Chất dân dã đã được thể hiện trong đường nét và bố cục hình khối tạo cho trang trí thời Trần mang một đặc điểm riêng dễ nhận diện. Đề tài trang trí thời Trần thường mang tính chất chính thống, quyền quý, như rồng, phượng, sấu, hoa mẫu đơn, quầng lửa, sóng nước, hoa sen, hoa dây… Một số yếu tố văn hóa Ấn có thể thấy trong hình tượng các vũ nữ múa, các nhạc công, các tượng chim kiểu Kinnari và chim thần kiểu Garuda...

Các vì kèo gỗ để lại từ đời Trần cho thấy sự phong phú trong nghệ thuật chạm khắc của ông cha ta. Những ván bưng giữa các giá chiêng chạm khắc quần lửa nhọn đầu với đề tài lưỡng long tranh châu. Ở chùa Thái Lạc, thì ván bưng đó chạm khắc hình hai tiên nữ đầu người mình chim, còn ở chùa Bối Khê là phượng hoàng chầu nguyệt. Những trụ đỡ cũng được trang trí với các hình tiên nữ dập dờn trên sóng nước, tay giơ lên đỡ bệ sen, hay hình phỗng (chùa Thái Lạc) và có khi là một đóa mẫu đơn (chùa Bối Khê). Hình tượng tiên nữ thường được chọn làm đề tài trang trí cho các bức ván nong, lúc thì thổi tiêu, kéo nhị hay thổi sáo đánh đàn. Có những bức chạm khác nhạc công thổi sáo và chơi các nhạc cụ dân tộc.

Bố cục cân xứng, đường nét mềm mại, đôi lúc gân guốc nhưng điêu luyện. Những mảng khối đầy đặn ẩn chứa sự chắc khỏe là đặc điểm nổi trội của trang trí thời kỳ này. Ví dụ như cảnh dâng hoa, tấu nhạc trong trang trí chạm khắc ván nong (giữa hai thành xà thượng và xà hạ) chùa Thái Lạc (Hưng Yên). Nhân vật trung tâm là vũ nữ, nhạc công hay có thể là chim thần Kinnari với những lối bố cục đăng đối và bút pháp giống nhau, làm bật lên sự lặp đi lặp lại trong không gian của hình tượng. Sự tương phản về khoảng đặc, khoảng rỗng, giữa sáng và tối đá được trải đều qua phần ván gỗ bằng phẳng với lớp hoa văn ken đặc.

Thứ đến, nét bình dị và hiện thực cũng là một đặc điểm không thể thiếu trong trang trí thời kỳ này. Thậm chí, những hình tượng nghệ thuật mang tính thần thoại như Kinnari vẫn mang những khuôn mặt hết sức thật đẹp, trầm tư của những con người thế tục. Những hình chạm nổ bẹt như hình cây cảnh và dê ngoạm nhánh lá ở hai đầu bệ, hình sư tử và con hổ chạm đá trên bệ thờ chùa Quế Dương (Hà Tây) tựa như những bức họa đơn giản với lối tả thực mạnh mẽ, hình phỗng trên trụ gỗ chùa Thái Lạc với mảng khối chắc khỏe… Nói chung, đề tài mỹ thuật thời Trần rộng hơn ở thời Lý, vì vừa tập hợp hết các đề tài chính thống lại còn có những đề tài gần gũi với dân gian hơn và có tính hiện thực hơn.

Trang trí tháp thời kỳ này đơn giản hơn rất nhiều so với trang trí thời Lý. Các thành bậc cửa vào (quanh tháp Phổ Minh) là hình tượng sấu và rồng quen thuộc. Cửa tháp và các mặt tường trang trí các hình hoa dây. Các tầng trên của tháp Phổ Minh thường thấy trang trí chủ yếu trên mặt gạch với những hình rồng cuộn mây. Trang trí tháp Bình Sơn cũng rất phong phú, ở lớp đế tháp chạm các hình phù điêu sư tử hí cầu, cửa tầng 1 trang trí hình rồng, trên có hình đấu ba chạc xen kẽ giữa các hình sừng tê và hoa lá, nằm gọn trong hình lá đề. Tầng 2 và 3 trang trí hoa dây, đấu ba chạc, cánh sen. Các tầng trên tháp Bình Sơn thì trang trí chủ yếu hình cánh hoa cúc, từ tầng 8 trở lên là hình tháp 5, 6 tầng đang tỏa hào quang tương đối đơn giản xen kẽ hoa chanh, các diềm mái trang trí hoa dây.

Một số đặc điểm về trang trí mỹ thuật phân biệt với thời Lý như sau: hình tượng con rồng thời kỳ này thân thường chạm nổi cao, uốn khúc nhẹ nhàng mềm dẻo và thoải mái, hình khối tròn lẳn, đuôi múp dần. Khác hẳn với hình rồng thời Lý với thân hình thanh mảnh và uốn khúc gò bó. Mào lửa dần mất đi mà có thêm cặp sừng và đôi tay. Hoa sen thời Trần như bệ đá chùa Ngọc Đình (Hà Tây) hay tháp Phổ Minh đều mập và khác với hoa sen thanh dài trong trang trí thời Lý. Cúc dây thời Trần như trên bệ đá chùa Bối Khê hay bia chùa Hướng Đạo (Hưng yên) là dạng hồi văn uốn tròn, thoáng đạt khác với thời Lý cúc dây thường ở trong vòng tròn do đường dây cuốn lại, hai bên dây có hai hàng lá song song. Ngoài tượng tròn, chạm nổi trang trí giống thời Lý, thời Trần có thêm hình trang trí được khắc vạch những nét chìm nông và mảnh như trên đá ở tháp Phổ Minh và các bệ hoa sen khối hộp.

+ Bài trí tượng thờ

Theo sách Tam Tổ Thực Lục cho thấy số lượng tượng Phật được làm rất nhiều, có nhà sư cúng một lần đã cho đúc tới 1300 pho tượng Phật lớn nhỏ. Vua Minh Tông khi mới lên ngôi đã cho đúc ở chùa Siêu Loại ba pho tượng lớn cao 17 thước. Có những tượng kích thước khá lớn như tượng Di Lặc cao 1,6 trượng hoặc hơn nữa. Vào đời Kiến Trung, thứ 7 (1231), “Thượng Hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ”. Nhưng hiện vật về tượng Phật thời Trần cũng như hệ thống bài trí tượng thờ trong chùa như thế nào đến nay vẫn còn chưa xác định được.

Tuy nhiên, ở một số chùa làng, trong điện Phật còn giữ được những bệ thờ bằng đá dài suốt chiều rộng gian giữa khoảng 3m x 1m (4m x 2m) và cao hơn 1m, được người xưa gọi là “Phật bàn” hay “Thạch Phật bàn” là một dạng như nhang án, không có dấu vết đặt tượng bên trên. Có giả thuyết cho rằng có thể người xưa thờ chữ Phật hoặc tranh Phật thay thế cho tượng.

Cho đến ngày nay, chưa tìm được tượng Phật chắc chắn của thời Trần nhưng tìm được khá nhiều bệ ba tượng (thường ghi niên đại cuối thế kỷ XIV). Vậy đến thời Trần, Phật giáo Đại thừa đã khẳng định sự lớn mạnh qua việc thờ ba vị chư Phật Quá khứ, Hiện tại và Vị lai.

- Kết luận phần 2

Trải qua gần 200 năm tồn tại, thời Trần đã đóng góp cho kiến trúc chùa tháp Việt Nam nhiều công trình có giá trị còn tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn… Thừa hưởng một nền kiến trúc đồ sộ thời Lý (từ các công trình, kỹ thuật xây dựng, trang trí…), nền kiến trúc thời Trần giai đoạn đầu mang những ảnh hưởng đặc trưng của kiến trúc thời Lý. Công trình luôn gắn bó với môi trường, cảnh quan đẹp đẽ, vị trí thuận tiện, những bố cục trang trí tinh xảo và cân xứng. Không còn những công trình đồ sộ như thời Lý nhưng những kiến trúc Phật giáo với tầm vóc vừa phải của thời Trần cũng để lại một dấu ấn đáng tự hào trong lịch sử phát triển Phật giáo ở nước ta.

Kế thừa di sản nghệ thuật từ thời Lý, nghệ thuật thời Trần đã phát triển theo một con đường riêng, tạo ra một thời đại phát triển rực rỡ nữa của Phật giáo. Khác với sự tinh vi, trau chuốt trong nghệ thuật thời Lý, phong cách nghệ thuật giai đoạn này giản đơn, khỏe khoắn, như muốn thoát khỏi lễ nghi thể hiện trong từng đường nét chạm trổ và kiến trúc. Trang trí thời Trần đã để lại những nét riêng với hình dáng chắc khỏe, đề tài gần gũi người dân và mang tính hiện thực cao hơn. Tuy nhiên, do chiến tranh của phương Bắc và phương Nam đã hạn chế sự phát triển của kiến trúc thời Trần và mang lại nhiều ảnh hưởng ít nhiều của nền kiến trúc ngoại lai trong các lối bố cục và hoa văn trang trí. Nhưng trên hết, những nét truyền thống dân tộc về cơ bản vẫn được bảo lưu nguyên vẹn trong nền kiến trúc thời Trần, đóng góp không nhỏ vào kho tàng kiến trúc của dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

Lê Mạnh Thát. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 1 (1999), tập 2 (2001), tập 3 (2002), NXB TP.HCM

Nguyễn Đức Nùng (chủ biên). Mỹ thuật thời Trần. NXB Văn Hóa Hà Nội 1977.

Chu Quang Trứ. Mỹ thuật Lý - Trần, Mỹ thuật Phật giáo. NXB Thuận Hoá 1998.

Trần Lâm Biền. Chùa Việt. NXB VH-TT 1996.

Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn Học Hà Nội 1979.

Nguyễn Bá Lăng. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Viện Đại học Vạn Hạnh 1972.

Nguyễn Duy Hinh. Tháp cổ Việt Nam 1992.

THÁP Ở SANCHI (ẤN ĐỘ), BIỂU TƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO^

Quang Đức

Vị trí địa lý Ấn Độ nằm ở bán đảo Nam Á, ngày trước có diện tích 5 triệu km2, nay còn 3 triệu km2. Ấn Độ có hai con sông lớn: sông Ấn (2900km) mang nhiều chứng tích lịch sử và sông Hằng (3090km) ẩn tàng phong thái tâm linh huyền bí. Ở Ấn Độ có nhiều vùng khí hậu phân hóa rõ rệt. Yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm cũng như hệ tâm thức của con người. Từ đó, nó sản sinh ra nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật phong phú mà nền nghệ thuật kiến trúc là đặc điểm được thể hiện rõ nhất.

Khác với nền văn hóa muốn chinh phục thiên nhiên ở phương Tây, Ấn Độ có nghệ thuật kiến trúc dựa trên xu thế phương Đông, sống hòa mình với tự nhiên. Đặc biệt, dòng kiến trúc Phật giáo Ấn Độ với nhiều loại hình khác nhau từ thế kỷ III đến thế kỷ thứ VII sau CN đã thể hiện đầy đủ tính triết lý giải thoát sâu sắc.

Là cái nôi của Phật giáo, là nơi phát sinh và thịnh hành giáo lý giác ngộ, cho nên Ấn Độ thường được người Phật tử xem là “đất Phật”. Với giáo lý vô ngã (anatman), vô thường (anitya), đức Phật cho chúng ta thấy nguyên lý sinh diệt diệt sinh của van vật đều đi theo quá trình sinh-trụ-dị-diệt; rồi qua đó, Ngài chỉ rõ bốn chân lý lớn (Arya-satya - Tứ diệu đế) mà cuộc sống phù du, đau khổ (dukka) của mọi chúng sanh muốn thoát ra vòng luân lưu ấy đều không thể phủ nhận được. Từ nền tảng giáo lý cơ bản ấy đã làm tiền đề cho nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Ấn Độ sau này. Như thế chắc hẳn rằng, những khách thể cho dòng kiến trúc với một bộ mặt rất Phật giáo phải định hình là điều hiển nhiên.

Hình thức chủ yếu của kiến trúc Phật giáo Ấn Độ là lăng tháp (stupa), điện thờ đục trong hang đá, còn gọi là chùa hang (chaitya) và tinh xá (vihara). Song, xét đến yếu tố lịch sử gắn liền với các truyền thuyết, quan niệm, thì kiến trúc lăng tháp được tạo ra trên những hình tượng có tính tượng trưng bao quát hơn cả. Tiêu biểu là quần thể lăng tháp ở Sanchi, được đánh giá là cụm di tích nghệ thuật Phật giáo cổ xưa nhất. Bên cạnh đó, nó còn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của vua Asoka (A-dục), người có công rất lớn trong việc truyền bá đạo Phật ra ngoài biên giới Ấn Độ.

Chính tại Sanchi (thuộc bang Matha Paradé), đứa con trai của vua Asoka là Mahendra đã lên đường ra đảo Lanka (Srilankca) để truyền bá đạo Phật. Cũng tại Sanchi vào khoảng năm 250 trước CN, vị vua sùng Phật Asoka đã cho dựng một ngôi tháp lớn (Sanchi I). Một thế kỷ sau, dưới vương triều Sunga (180-150 trước CN), ngôi đại tháp này được tu bổ và làm lớn gấp đôi so với trước đó. Hiện nay, ngôi tháp cao 16m và rộng 36m. Lăng tháp nói chung được xây dựng ở những nơi thiêng liêng, ban đầu chỉ là nơi tôn trí xá-lợi Phật; về sau trở thành biểu tượng kiến trúc của Phật giáo, tượng trưng cho nguyên lý hình thành vũ trụ có bốn cổng là bốn phương vị của trời đất.

Tương truyền khi Phật còn tại thế, các vị đệ tử đã hỏi về hình thức ngôi tháp để tương lai thờ xá-lợi của Ngài. Phật không nói gì mà chỉ đặt tấm áo cà sa xuống đất, rồi úp chiếc bình bát lên ấy. Từ mô hình ban đầu đó tới quần thể tháp ở Sanchi được phân ra các cấu trúc khác nhau, thân là một khối bán cầu xây bằng đất có đường kính 23m như một chiếc bát úp tượng trưng cho bầu trời, biểu tượng cho sự bao la của cõi Niết-bàn, và ở giữa tâm có một trục trung tâm là hình ảnh của trục vũ trụ nối liền trời và đất với nhau; những chiếc lọng phía trên tượng trưng cho nấc thang dẫn tới Niết-bàn. Ngoài ra, đĩa lọng còn mang một ý nghĩa sâu xa là chứng tỏ người tu hành có lâu năm hay chưa (theo số lượng của các đĩa này). Xung quanh thân được bao bọc bởi hệ thống hàng rào cao 4,3m và bốn hướng có bốn cổng cao 10m bao gồm ba thanh cao và hai thanh ngang tượng trưng cho tam thế. Trước đây, hàng rào làm bằng gỗ sau này thay bằng đá được mô phỏng theo kiến trúc gỗ với điêu khắc chạm trổ rất tinh vi. Hiện nay, cổng phía Bắc còn lại khá nguyên vẹn. Nó được xem là kho sách sống, mô tả lại những hoạt động, sự tích ra đời của Phật giáo: sự tích vua Tịnh Phạn đón con trai là thái tử Tất-đạt-đa sau khi đắc đạo, vua Tịnh Phạn đi thăm Phật Thích-ca, vua Asoka chiêm ngưỡng cây Bồ-đề nơi Phật đắc đạo.

Đến thời Sunga, tháp chính ở Sanchi không những chỉ được làm lớn hơn mà còn bổ sung thêm một số chi tiết: làm thêm con đường chạy đàn (Pradaksiva) quanh chân tháp, lối rào gỗ bao quanh và bốn cổng gỗ được thay thế là hàng rào làm bằng đá (Veđiđa) và các cổng đá (Tôrana), chân của cán ô được thay thế bằng khối đá vuông (Harmica). Ngoài giá trị kiến trúc còn là nơi lưu giữ các tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ. Ngôi tháp với bốn chiếc cổng được tạo nên trên mặt các thanh đá, bao phủ kín với những hình chạm trổ, thể hiện nhiều chủ đề khác nhau: các biểu tượng Phật giáo, truyền thuyết Phật giáo, cỏ cây hoa lá…

Ngoài tháp do vua Asoka xây dựng, còn một vài tháp Phật giáo xây dựng vào thế kỷ II trước CN (Stupa Sanchi II và III). Trong hai tháp này, có giá trị hơn là tháp Sanchi III với các cổng đá đẹp của thế kỷ I trước CN. Trong lòng tháp Sanchi III, người ta tìm thấy, hai hòm xá-lợi có ghi tên hai đệ tử Phật: ngài Sariputta và Mòngallina. Hai tháp này có cấu trúc và hình dáng nhỏ hơn tháp Sanchi I. Sau thế kỷ thứ VII, Ấn Độ không xây tháp nữa, nhưng ở các nước mà Phật giáo truyền sang thì “tháp” là kiến trúc biến tướng của tháp Ấn Độ lại rất thịnh hành, thể hiện nhiều chủ đề khác nhau: các biểu tượng Phật giáo, truyền thuyết Phật giáo, cỏ cây hoa lá…

Quả thật, chúng ta thấy hầu như mảng điểu khắc nào của đại tháp Sanchi cũng đều xứng đáng là kiệt tác nghệ thuật. Phải nói tháp Sanchi là một điển hình đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Ấn Độ đã góp phần làm phong phú cho kho tàng kiến trúc văn hóa nhân loại.

Nhìn Lại Gốc Rễ ^

TT. Thích Thái Hòa

Bạn hãy nhìn kỹ cây thông để học tập với nó mỗi ngày. Mỗi ngày cây thông đã dạy cho ta rất nhiều về cuộc sống của nó. Cây thông mỗi ngày nó hút khí tiết của đất trời để đọt của nó vươn mình lên trời cao và để gốc rễ của nó bám sâu xuống lòng đất. Gốc rễ của thông càng bám sâu xuống lòng đất bao nhiêu, thì đọt của thông càng cao vút và xanh tươi bấy nhiêu. Nhờ vậy mà cây thông đã có khả năng đứng vững chãi và xanh tươi giữa đất trời.

Cũng vậy, ta muốn đứng vững chãi, xanh tươi và vươn mình lên cao giữa cuộc đời, trước hết là ta phải bám sâu vào gốc rễ tâm linh của ta, và của gia đình ta. Gốc rễ tâm linh của ta là tuệ giác. Tuệ giác của ta càng sâu, thì tâm hồn của ta càng vững chãi và tươi mát. Gốc rễ tâm linh của gia đình ta là tình thương. Không có tình thương, ta không bao giờ có gia đình và ta không bao giờ có sự lớn khôn. Tình thương của ta càng rộng, thì tâm hồn của ta càng hỷ xả, bao dung và gia đình của ta càng hạnh phúc và lớn rộng, nên cuộc sống của ta càng vững chãi mọi bề.

Bạn hãy nhìn vào một cây to lớn mà gốc rễ của nó không sâu, chắc chắn nó sẽ bị đổ nhào khi gặp gió, hay khi có một sự chuyển động; hoa trái và chim muông muốn nương tựa vào nó sẽ chuốc lấy tai họa!

Cũng vậy, nếu bạn là người lớn ở trong một gia đình, làm chỗ nương tựa cho con cái, cháu chắt mà bạn không có gốc rễ tâm linh nào cả, làm sao bạn có thể đứng vững chãi để làm nơi nương tựa an toàn cho con cháu của bạn! Bạn là một vị thủ trưởng của một cơ quan mà bạn không có gốc rễ tâm linh nào cả, làm sao bạn có thể đứng vững chãi để che chở và bảo toàn cho những thuộc cấp của bạn! Và nếu bạn là lãnh tụ của một quốc gia mà bạn không có gốc rễ của tâm linh nào cả, thì làm sao bạn có thể đứng vững chãi để che chở và bảo toàn cho muôn dân trong quốc gia của bạn!

Cây thông bốn mùa xanh tươi, đã bảo toàn cho hoa trái của nó, cho những loài chim chóc lưu trú trên nó, là nhờ nó đã biết kiên trì, chịu đựng, biết hút dưỡng khí của đất trời để nuôi dưỡng gốc rễ và gốc rễ của nó biết bám sâu vào lòng đất.

Bởi vậy, cây thông hiện hữu giữa cuộc đời không phải chỉ là trăm năm mà đến cả ngàn năm và có khi còn hơn thế nữa. Nhưng, bạn thì như thế nào, bạn hãy nhìn xem lại gốc rễ của bạn, để biết rõ sự an toàn của bạn và những gì do bạn sinh ra và đang che chở.

TIẾN TRÌNH CHẾT CỦA CON NGƯỜI^

Nguyên Liên

Cổ thi có câu:

“Ta nay thấy người chết

Trong lòng nóng xót xa

Chẳng xót vì kẻ chết

Vì phải đến phiên ta”.

Bài thơ nói lên tâm trạng lo âu đầy sợ hãi của con người khi đối diện với cái chết mà một ngày nào đó sẽ đến phiên mình. Cuộc sống thì quá mong manh, cái chết lại chắc chắn. Do vậy, sống chết là vấn đề lớn, chúng ta dù cố né tránh cũng không thể thoát khỏi. Vì thế, chúng ta hãy can đảm đối diện với cái chết để tìm hiểu tiến trình chết của con người như thế nào? Sau khi chết con người đi về đâu? Ngõ hầu trong cuộc sống hiện tại chúng ta có sự định hướng và chuẩn bị tư lương trước một cuộc sắp đi xa này.

Trước khi đi vào tìm hiểu về tiến trình chết của con người, chúng ta thử sơ lược qua một vài quan điểm của các nhà khoa học, các nhà tôn giáo và của đạo Phật nói về cái chết và sau khi chết là hết hay còn.

I. Quan điểm chết của đạo Phật và các nhà khoa học, các nhà tôn giáo khác

Trạng thái chết và sau khi chết con người còn hay mất, nếu còn sẽ có sự tái sanh như thế nào, luôn là vấn đề nóng bỏng của các nhà tôn giáo, các nhà khoa học cũng như của đạo Phật. Có rất nhiều quan điểm được trình bày xoay quanh chủ đề này. Mỗi quan điểm đưa ra ít nhiều có sự biện minh cho quan điểm của mình là chính xác. Tựu trung, chúng ta có thể phân biệt thành ba quan điểm nổi bật trình bày trạng thái chết và sau khi chết như sau:

1. Quan điểm của các nhà khoa học (Duy vật)

Các nhà khoa học cho rằng con người là một dạng vật chất do tinh cha huyết mẹ cấu thành. Thân mạng này sau khi chết là hết, cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Như thế, các nhà khoa học chủ trương chỉ có đời hiện tại không có đời sau. Quan điểm này đạo Phật gọi là “Đoạn kiến ngoại đạo”.

Quan điểm con người sau khi chết là hết, sẽ đưa đến những định kiến sai lạc, đưa con người vào việc sống gấp, cố tận hưởng mọi khoái lạc, bất chấp những việc làm đầy tội lỗi... bởi con người không chịu trách nhiệm trước mọi việc làm của mình. Chủ nghĩa hiện sinh của Tây phương, hay đạo Ahum của Nhật Bản... cũng từ quan điểm này mà phát sanh.

2. Quan điểm của các nhà tôn giáo (Duy tâm)

Các nhà tôn giáo chủ trương con người sau khi chết thân thể tan rã và linh hồn sẽ đầu thai sang kiếp khác. Quá trình đầu thai theo họ, xoay quanh hai quan điểm sau:

Quan điểm thứ nhất, cho rằng con người sau khi chết tái sanh vào cảnh giới nào, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào ý muốn của Thượng đế. Quan điểm thứ hai là chúng sanh ở cảnh giới nào sẽ tiếp tục tái sanh vào cảnh giới đó. Ví như con người sau khi chết sẽ đầu thai tiếp tục làm người, loài trời sau khi chết sẽ tiếp tục đầu thai làm trời...

Quan điểm tái sanh tùy thuộc ý muốn của Thượng đế, hay hiện đời làm loài gì đời sau sẽ đầu thai tiếp tục làm loài đó. Quan điểm này, đạo Phật gọi là “Thường kiến ngoại đạo”.

3. Quan điểm của đạo Phật

Đạo Phật hoàn toàn không chấp nhận hai quan điểm trình bày trên. Đạo Phật cho rằng con người hay chúng sanh là một hợp thể của năm uẩn. Do vậy, khi con người chấm dứt thân mạng, phần sắc thân sẽ tan rã, tứ đại trả về với tứ đại nhưng phần tinh thần (thần thức) thì không hoại diệt.

Thần thức đó sẽ tùy theo nghiệp thiện hay ác đã tạo trong quá khứ mà thác sanh một trong sáu cảnh giới luân hồi. Trừ trường hợp người nào hiện đời có công phu tu tập, dứt trừ các hoặc nghiệp phiền não, thì sau khi chết không còn tái sanh vào một trong sáu cảnh giới luân hồi.

Như thế, đạo Phật chủ trương chết chỉ là một quá trình vận động và thay đổi của con người từ một dạng xác thân này sang một dạng xác thân khác, dưới sự dẫn dắt của nghiệp lực. Chỉ khi nào con người tự chấm dứt được nghiệp, tức đạt đến cảnh giới Niết-bàn giải thoát, không còn lẩn quẩn trong vòng sống và chết đầy bi ai khổ lụy này.

II. Hiện tướng chết của con người

Thông thường, tất cả chúng sanh nói chung và con người nói riêng, trước khi chết đều có các tướng chết hiện ra. Những tướng chết hiện ra đối với con người, nhân gian thường gọi là “điềm” báo hiệu cái chết. Một số người thường hay cọ xát với việc sống chết, khi nhìn vào một số biểu hiện của người bịnh nặng nào đó, họ có thể đoán định người này sắp chết.

1. Hiện tướng chết của chư thiên (Ngũ tướng suy hao).

Trước khi tìm hiểu về các hiện tướng chết của con người, chúng ta thử tìm hiểu về các hiện tướng của chư thiên. Theo trong các kinh dạy, một vị thiên tử khi sắp chết sẽ có năm tướng suy hao hiện ra. Thuật ngữ chuyên môn của đạo Phật gọi là Ngũ tướng suy hao.

a. Y phục dính bụi: Do phước báo, thiên y của thiên tử không bao giờ dính bụi, nhưng khi có hiện tượng thiên y dính bụi thì đó là tướng chết của thiên tử hiện ra.

b. Vòng hoa trên đầu héo: Mỗi vị thiên tử đều có thiên quan làm bằng vòng hoa báu, luôn tươi tốt, rực rỡ, nhưng khi vòng hoa trên đầu tự nhiên rũ héo, đó là tướng chết của thiên tử hiện ra.

c. Hai nách chảy mồ hôi: Hai nách của thiên tử không bao giờ có mồ hôi như con người, nhưng khi hai nách chảy mồi hôi thì đó là tướng chết của thiên tử hiện ra.

d. Thân có mùi hôi: Thân thể của thiên tử luôn có mùi thơm ngào ngạt dễ chịu, nhưng khi trong thân bốc mùi hôi khó chịu thì đó là tướng chết của thiên tử hiện ra.

e. Không thích ngồi trên chỗ ngồi của mình: Trong cung điện mỗi vị thiên tử đều có thiên tòa riêng biệt và khi ngồi vào thì có cảm giác an ổn khoái lạc, nhưng khi không thích ngồi trên thiên tòa thì đó là tướng chết của thiên tử hiện ra.

2. Hiện tướng chết của con người.

Thiên tử trước khi chết có ngũ tướng suy hao, còn con người trước khi chết có những hiện tướng gì? Theo trong Thọ mai gia lễ, hiện tướng chết của con người đại để chia thành ba phần, đó là biến tướng, cử chỉ thay đổi và lời nói khác thường.

a. Biến tướng (dung mạo có sự biến đổi).

- Hai vầng thái dương tối đen, quanh miệng có màu vàng hoe bao bọc.

- Lưỡi đen hoặc trở nên xanh lè.

- Đầu sống mũi xiên vẹo.

- Hai gò má tự nhiên bị lệch.

- Hai mắt long lanh sáng ngời.

- Mắt ưa nhìn trộm, nhưng khi người khác nhìn lại thì tránh đi.

b. Cử chỉ thay đổi.

- Thích cạy răng và gãy móng tay.

- Hay vuốt mắt và vuốt tóc.

- Ưa vân vê tà áo cho có nếp vuông.

- Hay nói lảm nhảm một mình và liếm môi.

- Những người bịnh tự nhiên từ bàn chân đến đầu gối sưng lên rồi xẹp xuống hai lần.

c. Lời nói khác thường:

- Hay nói chuyện nhân nghĩa vu vơ để tỏ rõ lòng mình.

- Hay nói chuyện chán đời.

- Hay nói chuyện mai hậu.

- Hay thở dài chép miệng, con mắt lờ đờ ưa ngó xa xăm.

- Tự nhiên nói chuyện hậu sự, chia của cải cho người khác.

Như vậy, nếu người bịnh có một trong vài hiện tướng kể trên, tức tướng chết hiện ra, báo hiệu người này sắp chết. Với các hiện tướng như thế, người trợ niệm cần phải nắm rõ để tùy cơ nghi niệm Phật trợ niệm cho người sắp chết, mới được thành tựu.

3. Giải thích về một số hiện tượng khác trước khi chết

Ngoài ra, có một vài hiện tượng biểu hiện của con người trước khi chết, như tự nhiên đột tỉnh, bắt chuồn chuồn, thở mang cá, chết đi sống lại, khi chết hộc máu... Giải thích các hiện tượng này đại để như sau:

Hiện tượng người bịnh nằm mê man, đột nhiên tinh thần có sự tỉnh táo, thân thể tự nhiên khỏe mạnh, hoặc nói cười sảng khoái... đây là hiện tượng bừng tỉnh trước khi chết. Cũng như ngọn đèn trước khi tắt, ánh lửa tự nhiên rực sáng, hiện tượng người bịnh tự nhiên đột tỉnh cũng như thế. Thông thường người bịnh rơi vào trường hợp này thì khoảng hai tiếng đồng hồ sau sẽ chết.

Hiện tượng bắt chuồn chuồn là tay người hấp hối quơ cào trên không... đây là một hình thức thể hiện sự cố gắng kháng cự lại cái chết, cố gắng níu kéo sự sống của người hấp hối. Bởi vì, phần nhiều con người ai cũng đều tham sống sợ chết. Hiện tượng thở mang cá: con cá thở bằng mang, hơi thở của nó rất yếu và chậm. Người hấp hối ở thời điểm thở mang cá tức hơi thở đã đuối dần, để rồi chuyển qua giai đoạn tắt hơi.

Hiện tượng chết rồi sống lại, do vì con người mới chết, thời điểm hơi thở mới tắt, nhịp tim tuy ngưng đập, nhưng thần thức của người này vẫn chưa ra khỏi thể xác, ở giai đoạn này con người được tính là chưa chết. Vì thế họ có thể tỉnh lại, sống lại. Hiện tượng người chết khi có người vào tự nhiên hộc máu, đấy là giữa người chết và người sống đó, khi sống có sự oán hận lẫn nhau, hoặc đôi khi người chết có nhiều việc oan ức chưa kịp bày tỏ, khiến tâm thức cảm thấy bực tức, sân hận, biểu hiện ra bằng hình thức máu hộc ra bên ngoài...

III. Trạng thái chết

Trạng thái chết và sau khi chết là một vấn đề khó lý giải, nếu không nói là việc làm không tưởng đối với hạng người chưa chứng ngộ như chúng ta. Do vậy, tất cả những vấn đề được đặt ra và trình bày trong bài viết này chúng tôi đều y cứ theo kinh điển.

1. Các nguyên nhân dẫn đến cái chết

Ngọn đèn dầu tắt là do bốn nguyên nhân, một là dầu hết, hai là bị gió thổi, ba là vừa hết dầu lại có ngọn gió thổi, và bốn là do nguyên nhân khách quan khác. Cũng vậy, con người sở dĩ chết, theo đạo Phật cũng không ra ngoài một trong bốn nguyên nhân sau:

a. Sự kiệt lực của nghiệp tái tạo: Thân mạng con người sở dĩ tồn tại là do nghiệp. Khi năng lực nghiệp (làm người) từ quá khứ đã hết thì những sanh hoạt của nguồn cơ thể ở trong đó cũng chấm dứt.

b. Tuổi thọ hết: Tuổi thọ dài hay ngắn tùy theo phước báo của mỗi cảnh giới. Khi tuổi thọ con người đã hết, thường tuổi thọ của con người trong giai đoạn hiện nay trung bình là bảy mươi lăm tuổi, dù nghiệp lực chưa chấm dứt con người cũng phải chết.

c. Nghiệp tái tạo và tuổi thọ đồng chấm dứt: Khi nghiệp tái tạo (nghiệp làm người) và tuổi thọ đồng một lúc chấm dứt thì con người phải chết.

d. Một nghiệp lực ngược chiều ngăn chặn nghiệp tái tạo: Trường hợp nghiệp tái tạo chưa hết, tuổi thọ chưa chấm dứt, nhưng do một nghiệp lực ngược chiều thật mạnh ngăn chặn nghiệp tái tạo, rơi vào trường hợp này, con người cũng chết. Những cái chết đột ngột, bất đắc kỳ tử... đều rơi vào tình huống này.

Trong kinh Dược sư có nêu chín thứ chết yểu (ăn không đúng lượng, ăn thức ăn không tiêu, ăn không tiêu lại ăn nữa, vật sống không nôn ra, vật chín lại giữ lâu, không gần thầy thuốc, với việc đã qua không biết nên giảm hay nên tăng, chẳng phải thời làm hạnh bất tịnh, chẳng phải lượng làm hạnh bất tịnh) cũng thuộc trường hợp này.

Sự chấm dứt thân mạng của con người không thoát ra ngoài một trong bốn trường hợp kể trên. Do vậy, chúng ta dễ cảm nhận được thân phận mong manh “đèn treo trước gió của đời người”. Chỉ có việc xả - ly huyễn thân chứng đắc Pháp thân, chúng ta mới có thể an tâm yên nghỉ, mới là làm xong việc lớn. Nào, ai là bạn tri âm!

2. Tiến trình chết của sắc thân

Khi con người chết, trải qua hai tiến trình là tiến trình chết của sắc thân và tiến trình chết của tâm thức.

Sắc thân con người hay chúng sanh vốn do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) giả hợp mà thành. Do vậy, khi thân này mạng chung tứ đại sẽ trở về với tứ đại. Nói cách khác, tiến trình chết của con người là tiến trình phân tán của tứ đại. Tiến trình chết nơi sắc thân con người lần lượt diễn bày như sau:

a. Địa đại lấn áp thủy đại: Đầu tiên người bệnh cảm thấy cơ thể nặng nề, mệt mỏi, các đốt xương trong thân nhức mỏi vô ngần. Thế nên bịnh nhân có các hiện tượng như tay chân co rút, gân mạch run rẩy... Đây là trạng thái địa đại lấn áp thủy đại.

b. Thủy đại lấn áp hỏa đại: Tiếp theo bệnh nhân cảm thấy như có một luồng hơi lạnh từ ngoài xâm nhập vào cơ thể, khiến toàn thân lạnh cóng tợ như nằm trên băng tuyết... Thế nên bệnh nhân có các hiện tượng: hơi thở buốt lạnh, tứ chi lóng cóng... Đây là trạng thái thủy đại lấn áp hỏa đại.

c. Hỏa đại lấn áp phong đại: Giai đoạn này mạng sống chỉ còn một nửa. Bấy giờ người hấp hối cảm nhận như một luồng hơi cực nóng từ bên ngoài thổi vào thiêu đốt cơ thể, sự nóng bức còn hơn ngồi trên hố lửa... Thế nên bệnh nhân có hiện tượng sắc mặt ửng đỏ, ngực ran nóng, tinh thần tối tăm. Đây là trạng thái hỏa đại lấn áp phong đại.

d. Phong đại phân ly: Sau cùng, bệnh nhân cảm nhận như có một luồng gió cực mạnh thổi bạt làm cho cơ thể tan nát như vi trần, đau đớn rã rời. Đến giai đoạn này xác thân đã chết, bốn đại đều phân tán, các giác quan đều bại hoại, chỉ còn thần thức chuẩn bị lìa khỏi thân để tùy theo nghiệp duyên đã tạo trong quá khứ và hiện tại mà tái sanh vào các cảnh giới tương ứng.

Sự chấm dứt thân mạng của con người quả thật là vô cùng đau đớn. Nỗi đau đớn khi tứ đại phân tán, trong kinh đức Phật đã dùng rất nhiều ví dụ để diễn bày. Đại để Ngài dạy rằng, nỗi khổ của con rùa bị đem đốt trên đống lửa cũng không thể sánh bằng nỗi khổ đau của con người khi tứ đại phân ly. Trong sự đau đớn tột cùng của xác thân ấy mấy ai là người có thể làm chủ, có thể an lòng nhớ Phật niệm Phật. Nếu chúng ta suốt đời không nỗ lực dụng công tu hành thì làm sao thoát ra khỏi cảnh “Thiên đường hữu lộ vô nhân vấn. Địa ngục vô môn hữu khách tầm”.

3. Tiến trình chết của tâm thức

Sau khi tứ đại phân ly, tâm thức người chết rơi vào trạng thái hôn muội mà không có chiêm bao. Bấy giờ minh liễu ý thức không có tác dụng hiện khởi, không thể biết được cảnh sở duyên của sáu chuyển thức. Tâm thức của con người sẽ tùy theo sự chỉ đạo của Nghiệp đã tạo, từ đó diễn tiến Hiện tượng của nghiệp và Biểu hiện lâm chung có đau khổ hay hạnh phúc dẫn dắt thần thức đi tái sanh.

Theo Phật giáo, có ba giai đoạn xuất hiện cho con người thấy khi sắp lâm chung, đó là Nghiệp, Hiện tượng của nghiệp và Biểu hiện lâm chung.

Nghiệp là những hành động thường ngày huân tập, đến khi lâm chung tâm thức sẽ nhớ lại rõ ràng. Hiện tượng của nghiệp là những biểu tượng xuất hiện trong tâm thức người lâm chung dưới hình thức sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Biểu hiện lâm chung là dấu hiệu có tương quan đến cảnh giới mà người chết sắp tái sanh, khiến họ có những biểu lộ lo âu hoặc vui mừng.

Một người lâm chung và tái sanh vào cảnh người thì đối tượng của phần tư tưởng cuối cùng là nghiệp lành. Hiện tượng của nghiệp này là họ thấy mình đang lễ Phật hay làm việc bố thí... Biểu hiện lâm chung là thân không bệnh khổ, sanh lòng chánh tín, quy y Tam bảo...

Tâm thức tái sanh đó gọi là Tán hữu tâm hay Sanh tử tâm. Tâm này vô cùng nhạy cảm, có công năng dẫn dắt thần thức đi tái sanh vào các cảnh giới tương ưng. Cảnh giới thác sanh khổ đau hay hạnh phúc hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp lực hiện tiền mà mỗi người đã tác tạo và những sự trợ duyên hộ niệm của Tăng Ni cùng Phật tử lúc thần thức chuẩn bị tái sanh.

IV. Xác định cảnh giới tái sanh

Con người lúc sắp chết do sự diễn tiến của nghiệp và hiện tượng của nghiệp mà có biểu hiện lâm chung mỗi người mỗi khác. Cũng như khi sắp chết, xác thân sẽ có những chỗ nóng ấm sau cùng. Tìm hiểu biểu hiện lâm chung và hơi nóng đi ra cuối cùng trên xác thân người chết, chúng ta có thể biết được cảnh giới họ đang chuẩn bị tái sanh. Việc xác định cảnh giới tái sinh của người sắp chết có thể dựa vào hai hình thức sau.

Xác định dựa vào hơi nóng sắc thân

Con người khi chết toàn thân lạnh dần, chỗ nào trên cơ thể còn hơi nóng sót lại là nơi đó thần thức xuất ra khỏi thân. Chỗ nóng sau cùng trên cơ thể người chết giúp chúng ta xác định được cảnh giới tái sanh của họ. Bài kệ trong Đại thừa trang nghiêm kinh luận đã chỉ rõ cho chúng ta vấn đề này.

Đảnh sanh cõi Thánh, mắt sanh Trời

Bụng nóng Ngạ quỷ, tim nóng Người

Bàng sanh nóng ở nơi đầu gối

Nóng ở bàn chân Địa ngục thôi.

Ví như chúng ta sờ vào cơ thể người mới chết, nếu thấy toàn thân lạnh hết, chỉ còn hơi nóng ở đỉnh đầu, tất biết người đó được vãng sanh Tịnh độ. Hoặc như toàn thân lạnh hết nhưng còn hơi nóng giữa hai con mắt, tức biết người đó sẽ tái sanh về cảnh trời. Hoặc toàn thân lạnh hết nhưng hơi nóng vẫn còn nơi ngực, tức biết được người đó sẽ tiếp tục tái sanh vào cảnh người... Các cảnh giới còn lại chúng ta có thể xác biết qua hơi nóng còn sót lại nơi nào trên cơ thể người mới chết như bài kệ trên đã trình bày.

Có điều, chúng ta cần nên tránh sự hiếu kỳ quá đáng, tìm kiếm hơi nóng làm động chạm cơ thể người chết, khiến họ phát sanh phiền não rất dễ đọa lạc. Việc dò biết hơi nóng này, nên để những vị tu hành có định lực cao, các Ngài có năng lực vận chuyển hơi nóng đi lên, xác định cảnh giới sắp tái sanh của người mới chết để tìm phương cứu độ.

2. Xác định theo biểu hiện lâm chung

Con người sau khi chết tùy nghiệp mà tái sanh vào cảnh giới tương ưng. Do thần thức cảm nhận cảnh giới tái sanh khổ đau hay hạnh phúc mà tâm thức có lo âu hay sung sướng, biểu hiện qua hình thức trước khi chết. Cho nên, nhìn vào biểu hiện lâm chung của người sắp chết, hoặc chết đau khổ hay chết nhẹ nhàng, chúng ta có thể đoán định được cảnh giới tái sanh của họ.

Đại để người nào sắp sanh về cảnh giới Tịnh độ, thì chánh niệm phân minh, biết trước giờ chết, nói bài kệ từ biệt đại chúng... Người nào sắp tái sanh về cõi trời... thì biểu hiện sung sướng, thân tâm thơ thới, miệng mỉm cười... Người nào sắp đọa vào một trong tứ ác thú, thân thể biểu hiện có sự run sợ, mình mẩy xú uế, tay chân quờ quạng... Chung quy, do cảnh giới tái sanh có đau khổ hay hạnh phúc khác nhau, mà người chết có những biểu hiện lâm chung không giống nhau (Vấn đề này chúng tôi sẽ trình bày kỹ nơi tiết “Các cảnh giới tái sanh”)

Trong kinh Pháp cú câu 253, đức Phật dạy: “Thân ông bây giờ như lá héo! Sứ giả thần chết đang chờ ông! Ông đang đứng trước ngưỡng cửa tử vong! Ông sắp phải làm cuộc lữ hành trên đường trường của cái chết. Vậy mà sao ông chưa chuẩn bị lương thực gì cả?” Chúng ta đang sống và chuẩn bị làm lữ khách trên đường trường của cái chết. Sống và chết luôn là hai việc lớn nhất của đời người, chúng ta dầu có muốn hay không cũng không thể tránh khỏi cái chết. Ai là người có chút lo xa chẳng thể dửng dưng qua ngày, buông thả đời mình trong nhục dục, mà ngay bây giờ hãy chuẩn bị lương thực Tín, Hạnh, Nguyện đừng để phải rơi vào cảnh: “Tiền lộ mang mang vị tri hà vãng” (Quy sơn cảnh sách).

Đường về Hạnh Phúc^

Nguyên Châu

Con đường đưa đến đời sống an lạc và hạnh phúc có muôn lối ngàn nẻo, mỗi chúng ta có thể chọn cho mình một pháp môn thích hợp để có được giá trị đích thực cho cuộc sống. Cái gần gũi với đời sống chúng ta nhất là hơi thở. Nó là đối tượng mà chúng ta dễ có điều kiện để tiếp xúc. Nhưng thực ra, trong mỗi chúng ta, mấy ai đã tiếp xúc với hơi thở, và mấy khi chúng ta trở về với hơi thở trong chính ta. Trở về với hơi thở của chính ta như thế há không phải là một bước thành công lớn của sự thực tập hay sao?

Hơi thở là cái bình thường nhất, và cũng là mầu nhiệm nhất. Nó cùng với trái tim tạo nên căn bản sự sống, gắn liền trực tiếp với sinh mạng của chúng ta. Bởi vậy, điều chính yếu của sự sống là trái tim và hơi thở.

Phép quán niệm hơi thở giúp ta trở về với thực tại, trở về với sự sống của chính mình, nhận chân được sự hiện hữu và giá trị của sự sống. Đức Phật dạy: “Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lãnh vực quán niệm; bốn lãnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được thực tập liên tục sẽ đưa đến trí tuệ và giải thoát.” (kinh Quán niệm hơi thở, trích Thiền môn Nhật Tụng 2000, Thiền sư Nhất Hạnh dịch, Nxb Tôn giáo, 2004. tr 36).

Hơi thở là sự sống mầu nhiệm, là phương thức thần diệu để rũ bỏ những tâm hành ràng buộc trong ta như bực bội, gắt gỏng, lo âu, sợ hãi, và nghi ngờ... Nếu chúng ta quán chiếu thật sâu từng hơi thở, thì chúng ta sẽ thấy hơi thở này là hơi thở của cha mẹ, tổ tiên, ông bà, là hơi thở của dòng họ tâm linh và huyết thống; là hơi thở của giang sơn tổ quốc, của mọi người và mọi loài.

Khi chúng ta sống có ý thức trong từng hơi thở thì khi ấy chúng ta sẽ cảm thấy rất hạnh phúc. Chúng ta cảm thấy mừng vui, khi biết rằng mình có phước báo hơn các sinh vật khác, và có hạnh phúc hơn những người đang giam hãm tù đày.

Bởi vậy, khi đón nhận hơi thở, chúng ta phải biết cách trân quý, nuôi dưỡng và chăm sóc hơi thở ấy, rồi từ đó mới có thể vun trồng bằng cách nào đó để cho thân và tâm được an tịnh, biết rõ mọi cảm thọ và vạn pháp đang diễn ra.

Khi theo dõi hơi thở một cách có ý thức thì chúng ta sẽ làm chủ được tất cả những hành động của thân, biết rõ tường tận mọi trạng thái đang xảy ra trong thân, nhận diện được sự giả hợp và biến chuyển của nó. Càng thực tập, thì toàn thân của chúng ta càng trở nên an tịnh, không còn phải lao theo những tiếng gọi đời thường, không còn tạo ra những ngục tù giam hãm chính bản thân mình và những người chung quanh. Quán niệm về hơi thở trên lĩnh vực thân thể, trước hết là phát khởi ý thức về hơi thở: “Thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào, thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra”. Trở về với hơi thở có ý thức sẽ đưa ta trở về với chính ta, sẽ giúp ta tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm trong ta và chung quanh ta.

Lại nữa, từ sự thực tập quán niệm hơi thở, chúng ta có thể nhận diện, quán chiếu các cảm thọ đang có mặt trên thân và tâm. Biết rõ các cảm thọ (dễ chịu, khó chịu và trung tính) này do đâu mà có, nó đang hiện diện như thế nào, hậu quả của nó ra sao,… thì chúng ta sẽ thoát ra được mọi sự khống chế của thân hành; có một cái nhìn thấu triệt, có một tâm hồn bao dung. “Tôi đang thở vào và làm an tịnh cảm thọ trong tôi; tôi đang thở ra và làm an tịnh cảm thọ trong tôi”.

Tới đây, ta bước sang lĩnh vực quán niệm tâm ý. Quán chiếu về tâm ý như vậy, có nghĩa là quán chiếu về các loại dục vọng; đó là ngũ dục: tài dục (ham giàu sang), sắc dục (ham dâm sắc), danh dục (ham danh vọng), thực dục (ham cao lương mỹ vị), thùy dục (ham ngủ nhiều). Ngoài ra, hành giả còn quán niệm để thấy rõ tâm của mình có thiện căn hay không có thiện căn, quán niệm về tình trạng ô nhiễm hay thanh tịnh của tâm hành, quán chiếu về tâm có giải thoát hay không có giải thoát… Sự thực tập quán niệm hơi thở sẽ giúp cho hành giả thâu nhiếp tâm ý, làm cho tâm ý được an tịnh, vượt khỏi mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Từ đó tâm của hành giả mới trở nên mát dịu, thấy rõ được trời xanh, mây trắng. “Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta, ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta; ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được thanh tịnh, ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được thanh tịnh.” (kinh Quán niệm hơi thở).

Lại nữa, khi quán chiếu về hơi thở một cách sâu sắc, thì hành giả sẽ phát kiến được tính duyên sinh, vô thường và vô ngã của vạn pháp. Nhờ thấy được như thế, nên tâm của hành giả không còn ý tưởng tham cầu, vướng mắc đối với vạn pháp, vượt ra ngoài mọi cực đoan của cuộc đời. “Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp, ta đang thở ra và quán chiếu về tính vô thường của vạn pháp; ta đang thở vào và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp, ta đang thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp.” (kinh Quán niệm hơi thở).

Khi hành giả đã thực sự an trú trong phép quán thân trong thân, quán cảm thọ trong cảm thọ, quán tâm ý trong tâm ý, quán đối tượng tâm ý trong tâm ý, thì lúc ấy năng lượng chánh niệm được thành tựu, tinh tiến, tỉnh thức trong mọi động thái của thân và tâm, và hành giả bắt đầu đạt được yếu tố thứ nhất là Niệm. Niệm là yếu tố đầu tiên trong bảy yếu tố giác ngộ, làm nền tảng để phát triển những yếu tố giác ngộ về sau này. Niệm luôn luôn ghi nhận và biết một cách rõ ràng những trạng thái định và tuệ (chỉ và quán) ở nơi tự tâm. Trên nền tảng này, hành giả tiếp tục quán chiếu để quyết trạch (trạch pháp)về các pháp. Quyết trạch tức là dùng trí tuệ để chọn lựa và biết rõ pháp nào là pháp đưa đến cảnh giới sanh tử, pháp nào thì đem lại an lạc và hạnh phúc.

Sau khi đã chọn pháp hành đúng lý và cơ, hành giả tiếp tục nỗ lực thực hành thường xuyên theo pháp đã chọn ấy, để tâm luôn thăng tiến ở trong đời sống giải thoát và giác ngộ, đó là Tinh tấn.

Khi hành giả đi vững chãi và bền bỉ trên con đường Chánh đạo, thì tâm hành giả phát khởi niềm vui, yếu tố Hỷ lạcthành tựu.

Hành giả tiếp tục an trú trong trạng thái hỷ lạc, cảm thấy thân và tâm nhẹ nhàng, an tịnh và linh hoạt. Đây là giai đoạn mà hành giả đã làm chủ được trạng thái vui, buồn, yêu, ghét… và bắt đầu vượt trên những thứ đó. Bấy giờ, yếu tố thứ năm được sinh khởi và phát triển, đó là yếu tố Khinh an.

Sau khi đạt được yếu tố khinh an, hành giả tiếp tục thực tập và đi vào Địnhmột cách dễ dàng. Tâm của hành giả hướng đến và an trú vào một đối tượng duy nhất, không còn tán loạn. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi cái nhìn… tất cả đều an trú trong định, rồi đến và đi một cách thong dong; không còn bị ràng buộc bởi những lề lối eo hẹp của đời thường, mang lại sự tĩnh lặng, an lạc, tự do và thảnh thơi. Lúc này yếu tố thứ bảy thành tựu, đó là Hành xả. Hành xả tức là các pháp vận hành thuộc về tâm sở đã bị loại trừ, tâm của hành giả hoàn toàn ở trong các trạng thái an tịnh và thuần nhất.

Khi đã đạt được bảy yếu tố giác ngộ này rồi, thì hành giả sẽ bước những bước thảnh thơi, thừa hưởng được sự mát mẻ của dòng suối thương yêu trên con đường trở về bến bờ giác ngộ, xem sự thịnh suy trong cõi phù du chỉ như hạt sương trên đầu ngọn cỏ.

Phương pháp Quán niệm hơi thở là phương thức thực tập thiền quán căn bản nhất, mà bất cứ ai muốn đi vào con đường hạnh phúc đều phải kinh qua; là phương pháp quán sát vạn pháp mà không có định kiến nào. Cứ quán sát đi, đừng có một ý niệm phân biệt, phán đoán hay lượng định đối với các pháp mà ta đang quán chiếu; có như thế thì tự tính của các pháp ấy mới hiển lộ. Và có như vậy ta mới đạt được sự bất sinh, bất diệt, tương tức và tương nhập; trở về tiếp xúc với những hiện tượng mầu nhiệm của cuộc sống như một buổi mai đẹp trời, một đêm trăng thu, một đóa hoa vàng tươi, v.v...

MẤT VỢ DO TIN SAO TỐT - XẤU ^

Quang Sơn

Trong một lần trú tại tinh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện này về một vị ngoại đạo tà mạng đã làm cản trở đám cưới của người khác. Chuyện kể rằng, có một thiện nam tử sống ở miền quê đã hỏi cưới cho con trai mình một cô gái môn đăng hộ đối ở thành Xá-vệ. Thế rồi khi ngày rước dâu đã được định đâu vào đấy, ông lại đi hỏi một vị ngoại đạo tà mạng thân thiết với gia đình mình rằng vào ngày tổ chức lễ cưới các vì sao có tốt không. Khi nghe hỏi thế, vị ngoại đạo tà mạng này suy nghĩ: “Người này trước đây không chịu hỏi ta mà tự định lấy ngày, bây giờ lại hỏi ta một cách rỗng tuếch như thế. Được, ta sẽ dạy cho y một bài học.” Vì thế, vị này trả lời rằng vào ngày tổ chức lễ cưới các ngôi sao không tốt, không nên tổ chức lễ cưới vào ngày đó, nếu tổ chức thì sẽ gặp tai họa khủng khiếp. Gia đình ở miền quê vì tin lời vị ngoại đạo nên vào ngày ấy đã không đi rước dâu. Trong khi đó thân hữu của nhà gái ở thành thị đã chuẩn bị tất cả mọi thứ cho việc tổ chức lễ cưới, và khi nhận thấy rằng phía nhà trai không đến, họ nói:

- Chính họ đã định ngày hôm nay làm lễ cưới, thế mà bây giờ lại không đến. Họ đã khiến chúng ta bị hao tổn rất nhiều. Họ là hạng người gì vậy? Chúng ta hãy gả con gái mình cho một người khác thôi.

Vì thế họ tìm cho con gái mình một vị hôn phu khác và tổ chức lễ cưới với tất cả những gì mà họ đã chuẩn bị.

Ngày hôm sau, đám người ở miền quê đi đến rước dâu, thì bị những người sống ở Xá-vệ đã trách mắng họ:

- Dân quê các ông là bọn người xấu. Các ông đã tự định ngày cưới, và thế rồi lại xúc phạm chúng tôi bằng cách không đến rước dâu. Chúng tôi đã gả con gái chúng tôi cho người khác rồi.

Đám người ở miền quê bắt đầu tranh cãi, nhưng rốt cuộc cũng phải lên đường trở về mà không thể đón được dâu.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo biết rõ việc vị ngoại đạo tà mạng kia ngăn cản đám cưới và chư vị bắt đầu bàn luận chuyện này trong Chánh pháp đường. Đức Thế Tôn đi vào, nghe họ bàn luận việc ấy thì nói:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên vị đạo sĩ này làm trở ngại lễ cưới của gia đình kia. Trước đây vì tức giận họ, vị này cũng đã từng làm như vậy.

Nói vậy xong, đức Thế Tôn kể câu chuyện Tiền thân dưới đây.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Bramadatta) trị vì vương quốc Ba-la-nại, có một người ở thị thành đã hỏi một cô gái ở miền quê làm vợ và định ngày kết hôn. Sau khi mọi việc đã được sắp xếp chu đáo, người ở thành thị lại đi hỏi một vị ngoại đạo thân quen với gia đình mình rằng vào ngày tổ chức lễ cưới các ngôi sao có tốt không. Hờn giận vì họ đã tự định ngày cưới mà trước đó không hỏi ý kiến mình, vị này quyết định làm cản trở lễ cưới được tổ chức vào ngày đó. Vì thế ông ta trả lời rằng vào ngày đó các ngôi sao không tốt, nếu họ khăng khăng quyết làm như vậy thì họ sẽ gặp tai họa khủng khiếp. Tin theo lời vị ngoại đạo, những người ở thành thị đã ở nhà không đi rước dâu! Khi những người ở miền quê nhận thấy những người ở thành thị không đến, họ nói với nhau:

- Chính họ đã định hôm nay làm lễ cưới, vậy mà bây giờ họ lại không đến. Họ là thứ người gì vậy?

Tức giận, họ đem cô con gái gả cho một người khác. Vào ngày hôm sau, những người thành thị đi đến xin đón dâu, nhưng những người ở miền quê nói:

- Những người thành thị các vị thật thiếu đứng đắn. Chính các vị đã tự định ngày cưới, và thế rồi lại không đến đón dâu. Vì các vị không đến nên chúng tôi đã gả con gái tôi cho người khác rồi.

- Vì chúng tôi hỏi vị đạo sĩ của chúng tôi, và ông ấy nói rằng những ngôi sao không tốt. Vì lý do đó mà hôm qua chúng tôi không đến đón dâu được. Xin trao cô gái cho chúng tôi!

- Các vị không đến đúng giờ nên bây giờ cô ta làm vợ của người khác rồi. Chúng tôi có thể làm đám cưới cho cô ta lần thứ hai được sao?

Trong khi họ đang cãi nhau như vậy thì có một người hiền trí vì một vài công việc đã từ thành phố đến miền quê ấy. Nghe những người ở thị thành giải thích rằng họ đã hỏi ý kiến vị đạo sĩ của họ, và rằng họ không có mặt là do hướng của các ngôi sao không tốt, vị hiền trí nói:

- Các ngôi sao thì có nghĩa lý gì chứ? Việc đón dâu thì có liên quan gì đến các ngôi sao?

Nói vậy xong, người hiền trí đọc lên bài kệ này:

Kẻ ngu chờ ngày lành

Nhưng điều lành mất đi

Điều lành là sao tốt

Sao thôi làm được gì?

Những người ở thành thị dù có tranh cãi thì rốt cuộc vẫn không thể đón được cô gái, và vì thế đành phải quay trở về.

* * *

Đức Thế Tôn nói:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải lần đầu tiên vị ngoại đạo tà mạng đó ngăn cản lễ cưới của gia đình kia, mà trước đây vị này cũng đã từng làm như vậy.

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nêu lên mối liên hệ của hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

- Vị ngoại đạo này chính là vị ngoại đạo thuở đó, các gia đình cũng như thế, còn ta chính là người hiền trí đã đọc lên bài kệ.

(Tiền thân Nakkhatta, số 49, dịch từ bản tiếng Anh.)

Lời bàn:

Tin vào ngày giờ tốt xấu là tập tục vốn có của đa số người Á Đông. Ngay vào thời đức Phật, tập tục này cũng đã có mặt và được nhiều người tin theo.

Theo Phật giáo, vấn đề tốt xấu không phụ thuộc vào ngày giờ mà hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của con người. Nếu một thời điểm được cho là “tốt ngày tốt giờ” mà chúng ta không tạo ra được những việc làm có ích thì đó không phải là những ngày giờ tốt. Ngược lại, nếu một thời điểm được xem là xấu, nhưng chúng ta biết tạo ra những việc làm tốt thì đó là những ngày giờ tốt.

Việc xem ngày giờ tốt xấu trong một phạm vi nào đó nó có thể đem lại cho con người sự “an tâm” khi thực hiện công việc. Nhưng nếu tin tưởng và chấp chặt vào đó quá mức thì sẽ trở thành một chướng ngại, đôi khi còn đưa đến những đổ vỡ trong cuộc sống. Chúng ta thấy có không ít trường hợp vì tin vào ngày giờ, tuổi tác mà dẫn đến những đổ vỡ rất tai hại. Như chàng trai ở câu chuyện trên chỉ vì quá tin tưởng vào vị ngoại đạo tà mạng, sợ việc rước dâu vào ngày đó sẽ gặp điều không tốt nên cuối cùng nhận lấy sự thất bại, trong khi việc làm của anh ta đáng lẽ sẽ tốt đẹp nếu anh ta đừng tin vào lời của vị ngoại đạo kia. Chỉ vì một sự tin tưởng thiếu căn cứ mà anh ta phải gánh chịu sự thất bại như vậy.

Qua câu chuyện trên, ngoài việc kể lại một vấn đề có mối quan hệ giữa đời sống quá khứ và đời hiện tại, đức Phật còn cho chúng ta thấy rằng không nên tin vào ngày giờ tốt xấu mà chỉ tin vào việc làm của con người. Các ngôi sao hay ngày giờ tự nó không thể nào làm cho đời sống của một người tốt hơn hay xấu hơn. Tốt hơn hay xấu hơn hoàn toàn tùy thuộc vào con người.

Bởi vậy trong cuộc sống, chúng ta đừng quá chấp chặt vào việc xem ngày giờ, sao hạn tốt xấu mà phải làm sao cố gắng thực hiện được những việc làm có ích cho bản thân và tha nhân. Một việc làm đúng, làm tốt tự thân nó có thể làm thay đổi được bản thân mình và hoàn cảnh xung quanh theo chiều hướng tốt. Còn những chuyện may rủi đôi khi chúng ta gặp phải trong cuộc sống, nếu đã là một người Phật tử tin sâu luật nhân quả thì chúng ta chẳng có gì phải thắc mắc cả. Vấn đề quan trọng là chúng ta phải sống làm sao cho cuộc đời này ngày càng tốt đẹp hơn.

Nắng Sẽ Lên ^

Nguyên Đức

Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Đứng ở gác chuông nhìn ra, con sông mùa này trông mênh mông và quạnh quẽ. Trời còn sớm nhưng bến sông đã vắng. Dòng sông lặng lẽ, im lìm dưới lớp mưa bụi giăng giăng.

Tôi yêu con sông này vì sự hiền lành lẫn chút hoang sơ của nó, hơn nữa dòng sông đã để lại trong tôi thật nhiều dấu ấn về những tháng ngày thơ ấu. Nơi đây, tôi đã chứng kiến bao biến động thăng trầm của những thân phận con người giống như dòng sông lúc lở lúc bồi, quằn mình gánh chịu tất cả mọi vui buồn của trời đất.

– Mấy năm rồi Nguyên Chương không về nhỉ?

Tiếng Nguyên Hải thì thầm khi tôi đang mãi nhìn lớp khói sóng đang bốc nhẹ trên mặt sông.

– Từ sau ngày Thầy mất. Tôi đáp.

Vậy là sáu năm. Hải nhẩm tính rồi nói.

À, thì ra Hải đang nhớ về Chương. Tôi và Nguyên Hải mỗi năm gặp nhau ở chùa một lần vào dịp cuối năm. Đứa ở Huế ra, đứa ở Nam về. Mỗi lần như vậy, chiều nào tôi và Hải cũng kéo nhau ra gác chuông, ngồi đấy nhìn dòng sông và kể với nhau một vài chuyện gì đó mà mỗi người đã gặp trong những tháng ngày rong ruổi. Và mỗi lần như thế, chúng tôi cũng không thể không nhắc đến Nguyên Chương, một người bạn đầy cá tính với cõi lòng luôn mang nặng buồn khổ.

Tôi, Hải và Chương xuất gia cùng một năm. Tôi và Chương cùng tuổi còn Hải nhỏ hơn một. Hải người cao ráo, khôi ngô. Khuôn mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười như chưa bao giờ biết buồn. Hải học sau tôi và Chương một lớp. Chú chăm chỉ và học khá giỏi. Ba năm học Trung học, năm nào tôi cũng thấy Hải nhận phần thưởng kèm tờ giấy khen biểu dương học sinh tiên tiến. Thầy tôi rất hài lòng về Hải, nhưng không phải ở sở học mà ở sự vô tư và trong sáng của Hải. Ở chùa, Hải siêng năng, cần mẫn; học cũng như làm khi nào cũng hết mình. Hải sống không bao giờ làm ai giận và cũng chẳng bao giờ giận ai. Chú ít bận lòng đến bất cứ điều gì, tự tại như một người đắc đạo. Đặc biệt hơn, Hải có một niềm tin rất mãnh liệt vào đạo, và chính niềm tin đó đã giúp cho Hải cảm thấy an ổn khi bước trên con đường mà mình đang đi.

Những tính cách của Hải hoàn toàn không có ở Chương. Chương trầm lặng và ít nói, đôi mắt sâu buồn, xa xôi. Ở Chương phảng phất chút lãng mạn của một nhà thi sĩ, lẫn chút tư duy khô người của một triết gia. Chương học giỏi, thông minh. Chương học gì, làm gì cũng tỏ ra xuất sắc, nhưng Thầy tôi chưa bao giờ hài lòng về điều đó. Nét mặt trầm buồn và những tiếng thở dài kín đáo của Chương đã làm thầy tôi bận lòng.

– Hình như con có điều chi không vui? Thầy tôi hỏi.

– Bạch Thầy, không ạ! Chương trả lời.

– Sao con lại tự dối lòng như thế! Cuộc sống ở chùa không đem lại cho con chút niềm vui nào sao?

Chương cúi đầu im lặng.

Chương ham học và học tất cả những gì mà mình thích. Chương xin thầy đi học vẽ. Thầy tôi không tán thành nhưng cũng không phản đối. Chương học khá nhanh và vẽ đẹp. Bức tranh đầu tiên Chương vẽ về dòng sông trước chùa. Bức tranh buồn bởi việc diễn đạt cảnh tượng và sử dụng gam màu. Thầy tôi nhìn bức tranh lắc đầu.

Chương thích làm thơ và làm cũng khá hay. Thầy tôi rất bực mình khi đọc thơ Chương.

– Sao con lại ưa than vãn như vậy, rồi con sẽ khổ cả đời. Cái khổ do những vết thương bởi chính con tạo ra nơi cõi lòng con chứ không phải do ai gây ra cả. Thầy không muốn đọc những bài thơ thế này, càng không muốn con phí sức vào những bài thơ vô bổ đó… Người ta thích cải đổi thế giới, cải đổi cuộc đời mà không thích cải đổi tâm mình. Sao con không nhổ sạch những khổ đau phiền muộn nơi tâm con trước khi mong muốn cải đổi con người và thế giới. Than thân trách phậnliệu có ích gì?

Chương có thói quen thích ra ngồi ở lầu chuông để ngắm sông vào lúc hoàng hôn, đôi khi lại lang thang xuống tận bờ sông. Chương thường làm như vậy một mình nhưng thỉnh thoảng lại rủ tôi và Nguyên Hải cùng đi. Có lần Chương hỏi tôi:

– Chú có thích con sông này không?

Tôi cười. Chương nói tiếp:

– Người ta có thể học hỏi được rất nhiều từ dòng sông đấy.

Nghe thế, Hải cười và nói xen vào:

– Và chú cũng đang học hỏi từ dòng sông này - học để rồi chú luôn cảm thấy khổ sở, bất an chứ gì? Chú có vẻ giống triết gia đấy, chắc nhiễm Hermann Hesse rồi.

– Tui không bao giờ nhiễm Hermann Hesse, cũng không thích bắt chước ai cả. Thầy thường dạy tui phải nên học theo cách sống của chú nhưng tui không thể nào. Mỗi người đều có một thân phận riêng.

Hải vô tư và ít hiểu Chương. Hải cứ nghĩ rằng con người có thể rủ sạch mọi muộn phiền một cách dễ dàng như rủ một chiếc áo bụi. Hải không hiểu vì sao Chương lại buồn khổ như vậy khi cuộc sống này không có gì để Chương buồn cả! Hải đâu biết rằng, nỗi khổ đau của con người rất đa dạng, dễ sinh khởi nhưng lại khó đoạn trừ. Không phải chỉ vài lời khuyên, vài lời động viên là có thể thay đổi được Chương. Chừng nào những hạt giống của khổ đau còn ngự trị, còn được nuôi dưỡng, và chừng nào tư tưởng của Chương chưa được khai thông thì nỗi đau đó vẫn còn xâm chiếm cõi lòng của Chương. Thay đổi tư tưởng còn khó hơn dời núi lấp sông. Hải ít hiểu Chương. Chương biết điều đó, nên đối với Hải, Chương luôn xem như một người em hơn là một người bạn. Cho dù thế, Chương vẫn rất thương Hải. Và cả ba chúng tôi đều sống chung với nhau một cách êm ấm, hòa thuận.

Rồi biến cố xảy ra. Thầy chúng tôi qua đời. Ngày đó Hải khóc lu loa như một đứa trẻ. Chương vốn đã trầm lặng nay càng trầm lặng hơn; đôi mắt quầng thâm, mặt đanh lại một cách đau đớn, chịu đựng. Tôi buồn đau vì sự ra đi quá vội vàng của Thầy tôi và xót xa nghĩ đến thân phận của mình trong những ngày sắp đến, nhưng lòng tôi càng nhói đau hơn khi nhìn thấy Chương. Tôi cứ nghĩ sau biến cố này thế nào Chương cũng hoàn tục, nhưng sự việc lại không xảy ra như vậy. Sau đám tang Thầy tôi, chúng tôi được sắp xếp đưa vào Huế học Trung cấp Phật học. Hải vâng lời một cách ngoan ngoãn. Tôi chưa muốn đi nên lấy cớ qua chung thất Thầy rồi sẽ vào. Chương thì trầm ngâm suy nghĩ, không đồng ý cũng không từ chối. Trước ngày Hải vào Huế, chúng tôi gặp mặt và nói chuyện với nhau thật nhiều. Sáng sớm hôm sau, tôi đạp xe chở Hải lên bến xe. Hải dặn tôi:

– Chú phải vào Huế nhé, em chờ chú đấy.

Tôi cười. Xe chạy. Chợt thấy lòng buồn khôn tả…

Hai tháng sau, một chiều, Chương rủ tôi ra sông chơi. Con sông mùa hè nước cạn và trong vắt. Những đám mây bồng bềnh trôi vô định trên không in hình xuống nước lung linh, kỳ ảo.

Chắc tui phải đi chú ạ. Chương mở lời.

Tôi im lặng một lúc rồi hỏi:

Chú định vào Huế hay đi đâu?

Tui không vào Huế. Cólẽ tui sẽ vào Sài gònthi vào một trường đại học nào đó.

Tui không dám khuyên chú vì tui đã quá hiểu chú, nhưng nhớ lại lờiThầy, tui cảm thấy ái ngại. Không biết chú vào trong đó rồi sẽ thế nào? Trông chú lúc nào cũng có vẻ buồn khổ, không biết khi nào mới thấy chú vui lên được?

Nghe tôi nói, Chương thở dài:

Tui thật có lỗi với Thầy và với chú quá. Nhưng chú này, khổ đau có phải là một cái gì đó xấu xa lắm không? Đôi khi tôi nghĩ đau khổ cũng cần thiết cho con người đấy. Tình thương và lòng vị tha dễ nảy mầm trên khổ đau hơn là trên hạnh phúc… Nếu Siddhattha không biết gì đến khổ đau thì có lẽ không bao giờ có đạo Phật. Nói vậy không phải để biện hộ cho mình đâu nhé…

Chương nhìn tôi, cười và nói tiếp:

– Chú yên tâm, một ngày nào đó chú sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn khác, tột đỉnh của đau khổ là khởi điểm của giải thoát mà…

– Tui thật không muốn nghe thứ triết lý đó chút nào. Nhưng thôi, cứ hy vọng như vậy đi.

Chương vỗ vai tôi và cả hai rời bờ sông.

Hôm sau, Chương vào Huế để thăm Hải. Tôi ở nhà sắp xếp hành lý cho Chương. Hành lý của Chương không có gì ngoài mấy quyển sách và vài ba bộ đồ. Chương ở Huế ra, tôi hỏi:

– Hải thế nào?

– Khỏe, nhưng khóc như một đứa con nít. Chương đáp, mặt quay đi.

Hai ngày sau, tôi lại chở Chương lên bến xe. Chương nhìn tôi và hỏi:

– Khi nào chú đi?

– Tui chưa tính. Tôi trả lời.

– Tui không biết nói gì với chú lúc này… Khi nào chúng ta sẽ gặp lại nhau nhỉ?

Chương nói, mắt đỏ hoe. Lần đầu tiên tôi thấy Chương xúc động như vậy.

* * *

Gió từ sông thổi vào càng lúc càng mạnh, trời mưa lớn và rét hơn. Hải vừa xoa tay vừa nói:

– Sắp hết lạnh rồi đấy, thường khi nào cũng vậy, cuối một đợt rét trời thường lạnh hơn lúc bắt đầu - tết thế nào cũng nắng.

Thật vậy ư? Tại sao trời phải rét đậm hơn trước khi bắt đầu nắng?! Sao tôi không biết điều đó nhỉ? Trời đất kia cũng phải đau đớn khi chuyển giao sao? Tôi lại nghĩ đến Chương và những gì chú đã nói với tôi ở bờ sông trước khi ra đi. Tôi tin lời Chương. Một ngày nào đó, tôi sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn mới, một Nguyên Chương không còn những khổ đau ngự trị tâm hồn, một Nguyên Chương như cơn nắng sẽ lên sau những ngày đông mưa rét. Tôi nhìn ra sông rồi nhìn Hải. Hải cười, nụ cười rạng rỡ, ấm áp. Tôi cảm thấy lòng mình dịu lại. Vậy là sắp hết rét, rồi nắng sẽ lên và mùa xuân sẽ về

Lắng Nghe ^

HẠNH PHƯƠNG

“Diệu âm, quán thế âm

Phạm âm, hải triều âm

Thắng bỉ thế gian âm”*

Lắng nghe nhịp trái tim anh

Tự ngàn xưa vẫn Xuân hành cùng tôi

Lang thang mấy nẻo luân hồi

Dòng sông trăng hiện vui ngồi hát ca.

Lắng nghe nhành bụt nở hoa

Tao nôi ấm dậm khúc ca thanh bình

Trang đời lộng lẫy bình minh

Dặm đường xa, bước chân mình bước đi.

Lắng nghe sâu kiến từ bi

Trên đầu ngọn cỏ nhu mì hạt sương

Niềm thơ muôn thuở hướng dương

Nghe câu kinh Bụt mười phương đại hùng.

Non cao biển rộng chập chùng

Tự ngàn xưa đã vô cùng… diệu âm

Muôn trùng sóng lắng vào tâm

Lại từ tâm lắng tri âm muôn trùng.

*Pháp Hoa Phổ Môn phẩm

Ca Huế

Lê Ngọc

(Nhân đọc bài thơ Âm hưởng Huế của Phổ Đồng)

Về đến Huế tự nhiên lòng ấm lại

Dù ngoài trời giá rét tận tim gan

Trải sông Hương ngọt ngào dòng tóc chảy!

Nhạc cung đình lãng đãng vọng âm vang

Đây Kim liên nhẹ nhàng câu mái đẩy

Phu văn lâu với câu hát trữ tình.

Kim tiền-Lưu thủy gần xa

Nhớ vui chuyện cũ, đậm đà chuyện nay

Đông ba, Thượng tứ, chợ dinh

Ai về chợ Nọ cho em theo cùng!

Cầu Tràng tiền sáu vại mười hai nhịp

Tiếng ca xang dìu dặt tận trời cao.

Thương-Nhớ

Đợi-Chờ

Mong ước

Hay là những giọt sầu thế kỷ

Chạnh lòng ai mang âm hưởng diệu kỳ.

Đi tìm con sóng

Mặc Không Tử

Nửa mùa trăng du thủ

Nửa đời em ruổi rong

Tàn đông chưa giũ mộng

Xuân đến rộn tơ lòng.

Em nửa đời là sóng

Rào rạt giữa trùng khơi

Ta nửa đời là biển

Đêm trăng huyền ghé chơi.

Dẫu ngàn năm sóng vỗ

Xô dạt bến bờ tôi

Mênh mông lòng biển rộng

Trăng vẫn là trăng thôi.

Một chút thôi

Hoa Hàm Tiếu

Một chút thương yêu và giúp đỡ

Làm cho cuộc sống lại nở hoa

Một chút cảm thông và an ủi

Đủ làm vơi bớt bao tủi hờn

Một chút lắng nghe và chia sẻ

Làm cho trẻ lại bao tâm hồn

Một chút vui cùng người thành đạt

Đủ cho tình thương thêm dạt dào

Một chút mỉm cười lúc gặp nhau

Đủ để khổ đau không hiện hữu

Một chút lặng im và nhẫn nhịn

Khiến cho cuộc đời bớt quạnh hiu

Một chút hòa ái và nhã nhặn

Làm cho mọi người gần nhau hơn

Một chút quan tâm và chăm sóc

Làm cho tiếng khóc được lắng dần

Một chút nhớ về những kỷ niệm

Cũng đủ sống dậy bao niềm vui

Một chút ước mơ và hoài vọng

Có thể đạt đến những thành công

Một chút siêng năng và kiên định

Đủ làm toả sáng ánh quang minh

Một chút những điều nhỏ bé ấy

Đủ làm hạnh phúc thêm tràn đầy

HỨNG VÌ SAO LẠC

Ngư Ca Tử

Đèo mây heo hút bụi đời

Ngăn chia đôi đứa phương trời đã lâu

Chừ đây ngó ý thâm sâu

Vượt ngàn sương gió gặp nhau chốn này

Bàn tay ta nắm bàn tay

Tình thơ lai láng trao ngay tâm tình

Từ nay muôn vạn dặm trình

Ta cười ngất nghểu giữa miền phù du

Em về mở cánh song thu

Trăng tròn bao thuở âm u lại cười

Em ta ra đứng bên trời

Hứng vì sao lạc đã rơi đêm nào.

TÂM KHÚC

Ngàn Thương

Người lên núi tìm trầm

Nhà sư ngồi tự tại

Chiếc lá rơi vô tình

Từng hồi chuông vọng lại

Sống trong vòng hệ lụy

Chân bước giữa lòng nhau

Cõi trần gian ngọt đắng

Xin hẹn về mai sau

Có một thời để nhớ

Và một thời để quên

Thoáng bên sông chiều tím

Gió lồng lộng mênh mông…

Nhà Nghiên Cứu Đức cho rằng Đức Phật chào đời tại Orissa^

Mới đây, giả thuyết cho rằng nơi đức Phật thực sự chào đời chính là Orissa, một tiểu bang của Ấn Độ (hình trang sau) chứ không phải tại Lumbini của vương quốc Nepal, đã làm dấy lên nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Sự tranh luận càng gia tăng khi học giả nổi tiếng người Đức mà cũng là chuyên gia về nền văn minh Ấn Độ, Tiến sĩ Hermann Kulke tán thành giả thuyết trên đây.

Tại hội nghị cấp cao nhóm họp ở Viện Bảo Tàng Quốc Gia Ấn Độ về di sản Orissa của Phật giáo, Tiến sĩ Kulke chia sẻ những nhận xét của ông sau khi thực hiện cuộc nghiên cứu sâu rộng về lịch sử và văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là tiểu bang Orissa. Ông cho rằng với nhiều chứng cớ về địa chất, Orissa đang dần dần được quốc tế công nhận là nơi đức Phật đản sinh.

Chỉ huy hai công trình nghiên cứu về Orissa do Đức quốc tài trợ, Tiến sĩ Kulke đề nghị nên mở cuộc khai quật khẩn cấp tại vùng Kapileswar để khai phá thêm sự thật. Được biết tấm bia văn từng bị thất lạc trước đây vốn ghi lại nơi đức Phật chào đời sẽ được giải mã và phân tích tại Bảo Tàng Viện Ashutosh ở Kolkata Ấn Độ, Bảo Tàng Viện Quốc Gia Sri Lanka và Bảo Tàng Viện Luân Đôn. Khi bia văn nầy được tìm thấy ở Kapileswar, gần Bhubaneswar (Orissa), người ta đã đưa tấm bia văn đến các Bảo Tàng Viện trên đây để giải mã và kiểm chứng sự thật.

Với uy tín và tính chuyên môn cao của các Bảo Tàng Viện nầy về mặt kỷ thuật kiểm chứng, phân tích địa chất, khả năng am tường các loại cổ tự và các nền văn minh cổ đại, các tôn giáo cổ xưa, người ta hy vọng các khám phá bất ngờ sẽ là những tia sáng bình minh chiếu rọi lên nơi đản sinh của đức Thích Ca Mâu Ni hơn 2600 năm trước.

Cần nhắc lại, thư viện Quốc gia Anh từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2004, đã mở cuộc triển lãm về Con Đường Tơ Lụa (Silk Road), giúp cho công chúng hiểu biết được giá trị và ảnh hưởng của các nền văn minh dọc theo đường Tơ Lụa bắt đầu từ cố đô Samarkhan (Uzbekistan hiện nay) và kết thúc tại Trung Quốc. Các thủ bản và hình tượng được lưu giữ trong gần 1000 năm qua trong cuộc triển lãm là bằng chứng hùng hồn cho quá trình lan tỏa và phát triển rực rỡ của Phật giáo dọc theo đường Tơ Lụa nầy. Đây cũng là chứng tích lịch sử của một thời văn minh Phật giáo Gandhàra cực thịnh. Về thiên văn, một tấm bản đồ tìm được ở Đôn Hoàng, Cam Túc (Trung Quốc) làm người ta ngạc nhiên: toàn bộ 1500 tinh tú mà con người biết đến 8 thế kỷ sau nầy đều giống như những gì được mô tả trong tấm bản đồ thời đó.

Ngoài ra thư viện Anh Quốc, sau khi thu thập được một bộ kinh văn Phật giáo gồm 29 quyển bằng cổ tự Kharosthi, cổ tự chính được dùng trong thời kỳ Gandhàra, đã phối hợp với Đại học Washington, Hoa Kỳ suốt 5 năm trời dày công nghiên cứu, sau đó xuất bản hai bộ tác phẩm quan trọng về Phật giáo, mang tựa đề: “Ancient Buddhist Scrolls from Gandhàra”. Điều đáng chú ý nhất là trong số gần 30 thủ bản được giải mã và phiên dịch ra Anh ngữ, có một số bản kinh lạ, xưa nay chưa hề biết đến so với các bản kinh Phật được lưu truyền từ trước đến giờ.

Như vậy, mỗi khám phá mới ngày nay về văn minh Phật giáo không những là một đóng góp hữu ích cho nền văn minh nhân loại, đồng thời còn khai mở thêm những khung trời còn khép kín của thế giới Phật giáo vi diệu vô biên tế.

Quảng Anh

Cuộc triển lãm nghệ thuật tại Học Viện Phật giáo ở Honolulu, Hawaii ^

Thông Tánh

Hôm thứ tư ngày 16-2-2005 vừa qua, các tu sĩ đến từ Tu viện Dzindu miền Đông Tây Tạng bắt đầu thực hiện kế hoạch vẽ Mandala bằng cát để triển lãm suốt trong một tuần tại Học viện nghệ thuật Phật giáo ở Honolulu thuộc thành phố Hawaii. Công trình Mandala này là một biểu đồ vũ trụ thiêng liêng và mục đích của cuộc triển lãm là đem đến cho du khách thưởng thức về nghệ thuật truyền thống Phật giáo Tây Tạng, đồng thời cũng là giới thiệu về nét truyền thống văn hóa Phật giáo Tây Tạng cho Phật tử khắp nơi và rộng rãi hơn cho bất cứ ai trên thế giới muốn tìm hiểu về nét đẹp truyền thống Phật giáo. Theo Phật giáo Tây Tạng, Mandala xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương đỉnh. Nó là cơ sở hợp nhất thế giới hiện tượng và thế giới bản thế, là đối tượng của thiền quán. Mandala là đàn tràng thường được làm bằng đất để hành giả bày biện các lễ vật hay pháp khí khi hành lễ, cầu nguyện, tu luyện. Sau khi các vị Tăng thực hiện xong đã tổ chức buổi cầu nguyện hòa bình, thể hiện lòng từ bi nhằm khích lệ tinh thần lá lành đùm lá rách, tương thân tương ái với nhau của mọi người cùng sống trong thế giới này.

Ông Robert Clark, giáo sư trường đại học Stanford ở San francisco Bay, đã phát biểu rằng: “Đây chính là sự miêu tả về sự hiện hữu bất diệt (Niết-bàn) được làm từ công nghệ thủ công của Phật giáo Tây Tạng.”

Xá-lợi Phật được tôn trí vĩnh viễn tại Trụ sở Liên Hiệp Quốc ^

Cuộc hành trình của Xá-lợi Phật qua nhiều quốc gia trên thế giới đã kết thúc tại Thái Lan vào cuối năm 2004. Ngọc Xá-lợi Phật sẽ được chính phủ và Phật giáo Thái Lan cung tống đến trụ sở trung ương của Liên Hiệp Quốc ở New York và tôn trí Xá-lợi Phật vĩnh viễn tại đây để chào mừng ngày Phật đản được cơ quan Liên Hiệp Quốc công nhận trên toàn thế giới.

Ngọc Xá-lợi Phật được cung thỉnh từ ba quốc gia Phật giáo Thái Lan, Miến Điện và Tích Lan để đưa đi khắp thế giới cho công chúng chiêm bái và có dịp tìm hiểu về giáo lý Phật-đà. Hành trình của Ngọc Xá-lợi Phật kéo dài gần 5 năm, khởi đầu tại Na Uy vào năm 2000 và kết thúc tại Thái Lan, sau khi đã đi qua 30 quốc gia trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, Venezuela, Brazil, Cộng Hòa Tiệp, Áo, Thụy Sĩ, Đức, Mông Cổ, Trung quốc, Tanzania, v.v...

Tại Argentina, nhiều công ty tư nhân lớn đã bảo trợ buổi lễ cung nghinh Xá-lợi Phật; đặc biệt là sự có mặt của các tu sĩ Thiên Chúa giáo như Linh mục và Giám mục trong buổi lễ nầy. Xá-lợi Phật cũng được đưa đến nhiều cơ quan chính quyền như Ngân hàng Quốc gia, Công ty Điện Lực và Đại học Quốc gia Argentina.

Những ngày Xá-lợi Phật được tôn trí tại Thái Lan đã mang lại niềm hân hoan và an lạc của hàng Phật tử Thái tại tỉnh Nakhon Pathom, bởi vì được chiêm bái các bảo vật thiêng liêng như thế này là dịp vô cùng quý hiếm. Sau thời gian này, 12 viên ngọc Xá-lợi Phật được lưu giữ trong bảo tháp pha lê, do chính Đại Lão Hòa thượng Viện chủ Tu Viện Wat Bovornnives Vihara (năm nay Ngài 93 tuổi), Tăng Thống của Tăng-già Phật giáo Thái Lan chứng minh và tự tay phong kín bảo tháp chứa Xá-lợi Phật trong buổi lễ cung tống trang trọng nầy. Bắt đầu từ năm 2005, Liên Hiệp Quốc sẽ mở cửa cho công chúng chiêm bái Xá-lợi Phật mỗi năm một lần đúng vào ngày Phật đản.

Trước đây trong khóa họp ngày 15 tháng 12 năm 1999, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua một quyết nghị công nhận trên toàn thế giới ngày đức Phật lâm phàm là một ngày lễ và Lễ Phật đản sẽ được Liên Hiệp Quốc tổ chức hàng năm vào ngày Rằm tháng 4 âm lịch tại trụ sở trung ương ở New York cũng như các văn phòng của Liên Hiệp Quốc ở khắp nơi trên thế giới.

Dự thảo quyết nghị nầy đã được ông Đại sứ Tích Lan trình bày trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, đại diện cho các nước đồng ký tên gồm Tích Lan, Bangladesh, Bhutan, Cam Bốt, Ấn Độ, Lào, Maldives, Mông Cổ, Miến Điện, Nepal, Pakistan, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Tây Ban Nha, Thái Lan và Ukraine.

---o0o---

Trình bày: Jacinta & Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567