Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Khởi. Phần nghi lễ

24/06/201320:12(Xem: 13370)
Duyên Khởi. Phần nghi lễ

TVQD_Phat Lo Thien Phat Thich Ca

Từ Bi Thủy Sám Pháp

Duyên Khởi
Phần nghi lễ

Trước thuật: Ngộ Đạt Quốc Sư

Dịch Giả: Thích Huyền Dung




"Tội từ tâm khởi cũng từ tâm diệt
Tội diệt tâm không cả hai đều hết"
"Nguyện nghiệp chướng Báo chướng,
Phiền não chướng, ba chướng tiêu trừ.
Nguyện Tân duyên, Cựu duyên,
Oan trái duyên, mọi duyên giải thoát".


Duyên khởi

Thiết nghĩ ngoài những kinh, luật, luận của thánh giáo đã phiên dịch, nhiều sách vở của hiền nhân chế tác về sau đều do nơi sự cảm ứng mà làm ra cả. Nếu riêng từng phẩm loại mà nói thì không dễ gì kể ra cho hết được. Ngay như bản văn này mà gọi là Thuỷ Sám, tôi xin nói rõ đến căn do.
Thuở về chiều vua Đường Ý Tôn có một vị quốc sư hiệu là Ngô Đạt, tên là Tri Huyền, lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất Kinh Sư trong một ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy bị mắc bệnh ca ma la (bệnh cùi) ai cũng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han, không hề nhàm chán. Nhân khi chia tay, nhà sư vì quá cảm khích phong thái của ngài Tri Huyền mới dặn rằng:
- Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại Rành Châu đất Tây Thục tìm tôi và nhớ trên núi ấy có hai cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ.
Sau đó ngài Ngộ Đạt quốc sư đến ở chùa Ấn Quốc thì đạo đức của ngài càng vang khắp. Vua ý Tôn thân hành đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ân từ rất hậu cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương và từ đó trên đầu gối của ngài bỗng nhiên mọc mụn ghẻ tựa như mặt người, đau nhức khôn siết! Ngài cho mời tất cả các bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm.
Trên đường đi, trời đã mờ tối, trong khoảng âm u mây bay khói toả mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy dạng hai cây tùng mới tin rằng lời ước hẹn xưa không sai. Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thấy lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trước cửa nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân mật.
Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết tâm đau khổ của mình, nhà sư ấy nói:
- Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng ngày rửa cái mụn ấy khoẻ ngay.
Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụn ghẻ kêu lên:
- Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng giết Tiều Thố vậy? Thố bị chém ở chợ phía đông oan ức biết chừng nào. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá ưa chuộng nên khởi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ ngài Ca Nặc Ca tôn giả lấy nước pháp tam muội rửa oán cho tôi rồi , từ nay trở đi tôi không còn báo oán cho ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tuỷ, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết thánh hiền ẩn tích kẻ phàm tình không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư, nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Vì thế ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều nhà Tống mới sắc hiệu là "Chi Đức Thiền Tự". Có một vị cao tăng làm bài kí sự ghi chép việc này rõ ràng.
Khi đó ngài Ngộ Đạt nghĩ đến nỗi oan trái đã bao đời nếu không gặp được thánh nhân thì do đâu khỏi được? Vì cảm niệm cái ơn tế độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra pháp sám này để mai chiều lễ tụng, sau đó truyền bá khắp thiên hạ.
Ba quyển sám đây tức là bài văn của ngài làm ra lúc đó vậy.
Nghĩa chính của bài văn này là lấy nước Tam Muội rửa sạch nghiệp oan khiên nên mới đặt là Thuỷ Sám. Lại ngài Ngộ Đạt cũng vì cảm điềm dị ứng của đức Ca Nặc Ca nên dùng tên ấy mà đặt cho bộ Sám văn này để đền đáp cái thâm ân kia.
Nay tôi kể rõ sự thật và nếu công của tiên đức để cho những người lật bộ sám văn này, hoặc lễ, hoặc tụng, đều biết được sự tích của tiền hiền vì lẽ nhân quả tuy nhiều kiếp cũng không sai chạy.
(Bài này tôi cố tìm tác giả nhưng không thấy)


Phần nghi lễ

(Mọi người đều chỉnh tề đứng trước Tam Bảo mật niệm rằng)

Tịnh pháp giới chân ngôn: Án La Sa Ha (3 lượt)
(Chủ sám đọc)
Hết thẩy cung kính: Dốc lòng kính lễ mười phương pháp giới thường trụ Tam Bảo(3 lượt)
(Mọi người quỳ nguyện hương)
Nguyện đem lòng thành kính.
Gửi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tính làm lành,
Cúng pháp giới chúng sinh.
Cầu Phật từ gia hộ;
Tâm Bồ đề kiên cố.
Xa bể khổ sông mê.
Chóng quay về bờ giác.
Cúng dường đoạn: Dốc lòng kính lễ mười phương pháp giới thường trụ Tam Bảo.(1 lượt)
(Mọi người đều đứng dậy chắp tay tán phật)
Đấng pháp vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dậy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài,
Quy y trọn một niệm.
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán.
Ức kiếp không cùng tận.
Án phạ phật la vật.(3 lượt)
Chí tâm đảnh lễ, Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, chư phật, tôn pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ tam Bảo.(1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Sa bà giáo chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Tây phương Cực Lạc giáo chủ A Di Đà Phật. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Đương lai giáo chủ Di lặc Tôn Phật. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ Tát. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát. (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Ca Nhã Ca Bồ Tát.(1 lễ)
Chí tâm đảnh lễ, Ngộ Đạt Quốc Sư Bồ Tát.(1 lễ)
Con nay xin bốn ân ba cõi, pháp giới chúng sinh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ chí thành Sám hối...(1 lễ)
(cùng quỳ để sám hối)
Chúng con xin chí thành sám hối:
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp.
Đều vì ba nghiệp Tham, sân, si.
Bởi thân, miệng, ý phát sinh ra.
Hết thảy nay con xin sám hối.
Sám hối đoạn: Dốc lòng kính lễ Tam Bảo thường ở khắp mười phương.(1 lễ)
(Đồng quỳ: Chủ sám thỉnh) (1 lễ)
Kính nghe:
Lòng Từ Mẫn hằng vì muôn vật, tâm Bi Nguyện khéo độ quần sinh. Hai chữ Từ Bi làm tiêu hết muôn nghìn tội lỗi. Một lời niệm Phật cũng diệt trừ trăm vạn oan khiên.
Nguyên nhân làm ra văn Thuỷ Sám này, là do Viên Áng, Tiều Thố hai người, vì kết thành mối oan khiên, nên nghiệp quả kia khó tránh.
Dưới bóng song tùng ngài Ca Nhã hiện Phạm thể đoan nghiêm, trong ao Tam Muội ngài Ngộ Đạt thoát oan sang (mụn hình mặt người mọc nơi đầu gối.), khổ nạn. Nhân Từ tâm hướng về thiện niệm, vì thế nên đất hiện suối thơm. Văn Thuỷ Sám nay mở đầu, là nguyên do từ đó.
Sở sĩ, một giọt nước thấm nhuần lại là phương thuốc hay thoát khổ, một lời kêu Sám hối thực là đạo tối yếu trừ khiên; khả dĩ tiêu tan nhiều đời tội nặng; khả dĩ cứu vớt cực khổ nơi ba đường; khả dĩ gỡ mối oan khiên trong nhiều kiếp. Công đức sám ma ấy, khen ngợi mãi khôn cùng.
Hôm nay đàn tràng nghiêm tịnh, tiệc pháp kính bày. Quy mệnh mười phương Điều Ngự, Kính lễ Phổ Hiền nguyện vương, vận tưởng hương hoa, một lòng dâng cúng.
Muốn cho căn lành trong sạch, trước nên nghiệp chướng, tiêu trừ. Cúi mong đức đại Từ Bi trông xuống rủ lòng soi xét.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lượt)
(Chủ sám và mọi người ngồi, cùng tụng theo nhịp mõ)
Thiên thủ thiên nhỡn vô ngại Đại bi tâm đà la ni
Nam mô hát ra đát na đá ra giạ gia. Nam mô a rị gia. Bà lô yết đế thước bát ra gia. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đỏa bà gia. Ma ha ca rô ni ca gia. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị gia. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà già. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà gia đế, ma ha phạt xà gia đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất phật ra gia. Dá ra giá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm phật ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá gia. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề giạ bồ đề giạ. Bồ đà giạ bồ đà giạ. Di đế lị giạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắc ni na. Ba giạ ma na, sa bà ha. Tất đà giạ, sa bà ha. Ma ha tất đà giạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra giạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà giạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà giạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà giạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra gia, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra giạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra giạ gia. Nam mô a lị gia, Bà lô cát đế, Thước bàn ra giạ, sa bà ha.
Án tất điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà gia, sa bà ha.
Nam mô ly cấu địa bồ tát ma ha tát
(3 lượt)
Kính nghe:
Mỗi Đức Phật ra đời mở tám vạn bốn nghìn cửa Pháp. Một mặt trăng cõi thiên phá tối tăm quần sinh nơi đại địa. Mở rộng đạo mầu nhất thừa, sám diệt tội khiên hết thảy
Kính xin Bảy Phật Thế Tôn, mười phương Từ Phụ, hiện tướng hào quang sáng suốt, giám soi ý khẩn chân thành.
Phụng vì cầu sám cho tên là.........................Vận Sức Từ Bi Đạo Tràng Thuỷ Sám. Đây là quyển thượng, duyên khởi vào đàn, hành nhân chúng con, quỳ gối chắp tay, kính lễ mười phương Tam Bảo, quy y hết thảy Thánh Tăng, dĩa tỏ cầu thượng, mở bày sám hối.
Trộm nghĩ: Chúng con tên là.........................Nhất tính trái ngang chìm đắm hương về trong bốn thú, Nhất Chân mờ mịt loanh quanh ở mãi trong sáu đường. Nghiệp Thân, Miệng, ý buông lung, vì Tham, Sân, Si phóng túng. Làm càn làm bậy tạo ra nghiệp chướng vô biên, theo ác theo tà gây lấy lỗi lầm nhiều thứ.
Nay nhờ đức Như Lai mở bày cửa Pháp phương tiện, Khiến cho lũ chúng con phát khởi tam thành sám hối. Mong sạch tội cấu nghìn đời, trừ hết oan khiên nhiều kiếp. Con nguyện được như vậy, xin Phật rủ lòng thương; Ngửa mong đức Đại Từ Bi, vì con mà ngầm giúp.
(đại chúng ngồi tụng)
Lư hương vừa đốt,
Cõi pháp thơm lây
Chư Phật bốn biển đều xa hay
Thấu tâm thành này
Chư Phật hiện thân ngay.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.(3 lượt)
Chân ngôn tịnh tam nghiệp: án sa phạ bà phạ chuật đà xa phạ đạt ma sa phạ bà phạ chuật độ hám.(3 lượt)
Chân ngôn phả cúng dàng: án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhiệt la hộc.
(Lời Phát nguyện)
Kính lễ Đức Thế Tôn
Quy mệnh mười phương chư phật
Con nay phát nguỵên lớn
Trì tụng hành sám văn
Trên đền bốn trọng ân[1]
Dưới cứu khổ muôn loài
Nếu có ai thấy nghe Đều phát tâm Bồ đề
Tụ tập các công đức
thực hành hạnh lợi tha
khi nào hết báo thân này
Đều vãng sinh cực lạc.

Kệ khai kinh:

Chính pháp sâu xa rất nhiệm mầu!
Trăm nghìn ức kiếp cũng khó gặp,
Con nay thấy nghe xin thụ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chân của Như Lai.
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(3 lượt)
Khải vận đạo tràng Sám Pháp, một lòng quy mệnh chư Phật trong ba đời.
Nam mô Quá khứ tỳ bà Thi Phật[2], (1 lạy)
Nam mô thi khí Phật[3], (1 lạy)
Nam mô tỳ xá phù Phật[4], (1 lạy)
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật.[5], (1 lạy)
Nam mô Câu na Hàm Mâu Ni Phật[6], (1 lạy)
Nam mô Ca Diếp Phật[7], (1 lạy)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật[8], (1 lạy)
Nam mô Đương lai Di lặc Tôn Phật[9], (1 lạy)

Ý kiến bạn đọc
08/09/201720:22
Khách
Kính chào Trang nhà Quảng Đức!
NK đọc Văn Thủy Sám này so với bản gốc sai sót nhiều câu và sai chính tả cũng nhiều. Kính mong BBT trang nhà xem lại sửa chữa, bổ sung để trọn vẹn công đức. Xin cảm ơn!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567