Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I - B. Kinh Cựu tạp thí dụ

04/04/201319:54(Xem: 9104)
I - B. Kinh Cựu tạp thí dụ
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 2

B. Kinh Cựu Tạp Thí Dụ

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


1
Xưa vô số kể, có một nhà buôn tên gọi Tát Bạc, lúc ấy đến một nước khác mua hàng hóa. Chỗ trú chân gần nhà một đệ tử Phật. Nhà đệ tử Phật bấy giờ làm lễ cầu phước lớn, đặt tòa cao, các tăng thuyết pháp, giảng bàn tội phước thiện ác đều do thân, miệng, ý tạo ra và giáo lý bốn sự thật, vô thường, khổ, không. Người buôn đường xa lúc ấy đến nghe, lòng hiểu, vui tin, bèn thọ 5 giới gọi là ưu bà tắc. Vị thượng tọa đem giáo lý khuyên dỗ, nói: “Thiện nam tử, giữ thân miệng ý thì mười lành đầy đủ. Mỗi giới có 5 thần, năm giới có 25 thần, đời này hộ vệ khiến không chết oan, đời sau tự tại, đạo lớn vô vi”. Nhà buôn nghe giảng càng vui vô kể.

Sau về nước mình, trong nước hoàn toàn không có Phật pháp. Bèn muốn truyền đạo, sợ không người nghe, nên đem giáo pháp đã nhận giáo hóa cha mẹ, anh em, vợ con và người làm trong ngoài, ai cũng vâng theo.

Cách nước nhà buôn ngàn dặm có một nước, dân đông giàu sướng, của quý nhiều, đẹp. Hai nước ngăn cách, tuyệt không thông hiếu đã hơn trăm năm, trên đường có quỉ Dạ xoa ở, bắt người ăn thịt, trước sau khôn kể, vì thế đoạn tuyệt không người vãng lai. Nhà buôn tự nghĩ: “Ta giữ giới Phật, thì như kinh dạy, có 25 vị thần hộ trợ, không nghi ngờ gì. Còn quỉ kia nghe nói chỉ một mình nó. Ta đến hàng phục, chắc được thắng lợi”.

Bấy giờ có hơn 500 nhà buôn cùng đi, bèn nói với họ: “Tôi có sức lạ, có thể phục quỉ, còn quý vị có đi đến gặp quỉ thì chắc không có lợi lớn”. Họ bèn tự bàn nhau: “Hai nước không thông hiếu đã lâu lắm rồi. Nếu thông được, thì lợi được không nhỏ”. Họ đồng ý lên đường đi. Đến giữa đường thấy chỗ quỉ ăn người, hài cốt tóc tai lăn lóc đầy đất. Tát Bạc tự nghĩ: “Quỉ thần trước sau đều có thể ăn thịt người, nay là điều chứng nghiệm. Ta chết, đó đúng với chức phận, chỉ sợ cho những người này thôi”. Bèn nói với họ: “Quí vị ở lại đây, chỉ một mình tôi đi tới. Nếu thắng được quỉ, thì sẽ trở lại đón. Nếu không trở lại thì biết ngộ hại, các vị nên mỗi người trở về, chớ đừng đi tới nữa.”

Rồi Bạc một mình đi tới. Mới đi vài dặm đã gặp thấy quỉ đến, bèn một lòng niệm Phật, ý định không sợ. Quỉ đến hỏi: “Ông là ai?” Đáp: “Tôi là người hướng đạo mở đường”. Quỉ cười lớn nói: “Ngươi có nghe đến tên ta không mà muốn mở đường?”. Tát Bạc đáp: “Biết ngươi ở đây, nên đến tìm để đấu với ngươi. Nếu ông thắng, ông ăn ta. Nếu ta thắng, thì mở đường cho muôn họ, làm lợi ích cho thiên hạ”. Quỉ hỏi: “Ai nên hạ thủ trước?” Nhà buôn đáp: “Ta đến tìm, nên phải hạ thủ trước”. Quỉ đồng ý. Bạc dùng tay phải đánh nó, tay đụng bụng quỉ, mắc cứng không ra. Tay trái lại đánh, cũng mắc. Như vậy, hai chân và đầu đều mắc vào bụng quỉ, không thể đụng đậy được. Bấy giờ, Dạ xoa dùng bài tụng hỏi:

Tay chân cùng với đầu
Năm món vậy cột chắc
Chỉ nên ra chịu chết
Vùng vẫy lại ích gì?
Nhà buôn dùng kệ đáp:
Tay chân cùng với đầu
Năm món tuy bị cột
Giữ lòng như kim cương
Rốt không bị ngươi giết
Quỉ ma lại nói kệ:
Ta là vua các thần
Làm quỉ nhiều “sức lớn”
Trước sau ăn bọn ngươi
Số không thể đếm xiết
Nay ngươi chết gần rồi.
Sao lại nói năng lắm.
Khách buôn dùng kệ đáp:
Vô thường là thân này
Ta muốn sớm bỏ đi
Mà nay nguyện ta thỏa
Đem ra bố thí mày
Nhờ thế được chính giác
Trí vô thượng chứng ngay
Quỉ nói kệ đáp ý:
Chí mầu người vĩ đại
Ba cõi hiếm có ai
Chắc làm thầy độ ngươi
Chẳng lâu đức trùm cả
Xin đem thân tự qui
Đầu diện kính lạy ngài.

Rồi thì Dạ xoa ra xin thọ năm giới, lòng thương chúng sinh, xong làm lễ, rút vào trong núi sâu. Tát Bạc trở lại kêu mọi người tiến lên về nước kia. Từ đó, hai nước đều biết chuyện 5 giới 10 lành dẹp quỉ mở đường, mới biết Phật pháp chí chân vô lượng, đều cũng giữ giới, cung kính Tam bảo, nước thành thái bình, sau lên trời đắc đạo. Ấy là nhờ ân lực của vị hiền giả thẳng tin 5 giới.

Phật bảo các Tỳ kheo: “Tát Bạc lúc ấy là thân ta”.
Bồ tát thực hành giới Ba la mật, độ được như vậy.


2
Quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có vua công với 500 vợ công theo nhau đi khắp các núi non, thấy công xanh kia sắc rất đẹp, bèn bỏ 500 vợ đi theo công xanh. Công xanh chỉ ăn quả ngọt cam lộ. Lúc ấy, vợ vua có bệnh, đêm mộng thấy vua công. Thức dậy trình vua: “Xin vua nên treo giải lớn để bắt”. Vua ra lệnh thợ săn ai bắt được vua công đem dâng thì sẽ thưởng vàng 100 cân, gả con gái cho làm vợ.

Các thợ săn chia nhau đi khắp các núi, thấy vua công đang theo công xanh, bèn lấy hồ ngọt đem bôi khắp cây. Vua công ngày ngày đi lấy thức ăn ấy cho công xanh. Như vậy quen thói, thợ săn bèn lấy hồ ngọt đem bôi lên thân mình. Vua công đến lấy hồ ngọt, liền bị người bắt được, bèn nói với người: “Ta đem một núi vàng cho ông, ông có thể thả ta ra?” Người đáp: “Vua cho ta vàng và gả con gái làm vợ, đủ để sống một đời rồi”. Rồi mang nạp vua.

Vua công trình vua: “Vua vì quá yêu phu nhân, nên mới bắt tôi. Xin đem nước đến, tôi chú nguyện cho phu nhân uống, tắm rửa, nếu không lành bệnh thì giết cũng chẳng muộn”. Vua bèn lấy nước cho chú nguyện, rồi đem trao phu nhân uống. Bệnh liền hết. Trong cung hay ngoài ai có bá bệnh đều nhờ nước ấy mà được chữa lành. Vua và nhân dân đến lấy nước, số nhiều không kể. Vua công nói với vua: “Ngài có thể lấy cây cột chân tôi, để tôi đi lại tự do trong hồ nước cùng chế thuốc chú nguyện, khiến dân xa gần có nước lấy thoải mái”. Vua đáp: “Rất hay”. Công đem cây đi vào trong hồ nước, tự chế nhiều phương, vừa chú nguyện. Người dân uống nước, mù được sáng, điếc được nghe, què gù được thẳng.

Vua công lại trình vua: “Trong nước các bệnh dữ đều được chữa lành hết. Nhân dân thờ cúng tôi như thiên thần không khác. Tôi rốt cuộc không có ý bay đi. Đại vương có thể mở chân tôi, khiến tôi được bay đi lại vào trong nước hồ. Đêm đến tôi nghỉ đêm trên rừng kia”. Vua liền sai mở. Như vậy được vài tháng.

Một hôm đứng trên rừng vua công cười lớn. Vua hỏi: “Ngươi sao lại cười?”. Đáp: “Tôi cười thiên hạ có 3 cái ngu. Một là cái ngu của tôi. Hai là cái ngu của thợ săn. Ba là cái ngu của vua. Tôi có 500 người vợ đi theo, mà lại bỏ để được theo công xanh. Vì lòng ham muốn nên bị thợ săn bắt. Đấy là cái ngu của tôi. Người thợ săn, tôi cho một núi vàng không lấy, lại nói có vua cho vàng và vợ. Đó là cái ngu của thợ săn. Vua có được thần y vương, phu nhân, thái tử, nhân dân trong nước, ai bệnh đều được chữa lành, lại thêm đẹp đẽ. Vua được thần y mà không giữ kỹ, lại thả cho đi. Đó là cái ngu của vua”. Nói rồi vua công bay đi.

Phật bảo Xá lợi phất: “Vua công bấy giờ là thân ta đó. Quốc vương bấy giờ là thân ông. Phu nhân bấy giờ, nay là vợ Điều Đạt. Thợ săn bấy giờ là Điều Đạt”.


3
Xưa có quốc vương đi săn trong vùng đầm rộng, rất đói khát mệt mỏi. Xa trông thấy nhà cửa cây cối um tùm, bèn đi đến đó. Trong nhà có người con gái, vua đến xin ăn uống trái cây các loại. Vua xin gì được nấy, bèn xin gặp người con gái. Người hầu trả lời: “Trần truồng, không có áo quần”. Vua liền cởi áo đem cho, tự nhiên có lửa cháy áo. Ba lần như thế. Vua kinh ngạc hỏi người con gái: “Vì sao lại như vậy?”. Người con gái đáp: “Đời trước tôi là vợ vua. Vua đãi cơm các sa môn Phạm chí, lại muốn dâng áo. Tôi lúc đó nói: Chỉ đãi cơm là được rồi, khỏi cần cho áo. Nên bây giờ mắc tội này. Nếu vua còn nghĩ tới, xin may áo cúng cho các sa môn đạo sĩ trong nước. Nếu có ai hiểu kinh Phật, xin chú nguyện cho người con gái ấy thoát được sự khổ cực kia”.

Vua nhận lời, trở về nước may áo, tìm các sa môn đạo sĩ mà không có ai. Lúc ấy trong nước không ai hiểu kinh Phật. Vua nhớ lại, bảo hỏi ông chèo đò thì chắc biết. Ông chèo đò nói: “Trước đây có người muốn qua sông, không có tiền trả, bèn lấy kinh Năm giới một cuốn trao tôi để đọc”. Vua bảo: “Người biết kinh Phật thì đem áo cho người”. Rồi khiến người chèo đò chú nguyện cho người con gái trần truồng được phước vô lượng mà thoát khỏi sự cực khổ. Người con gái lúc ấy có áo mới mặc vào thân. Nên sau hết sống trong đường quỉ, sẽ sinh lên cõi trời thứ nhất.


4
Xưa bờ biển có quốc vương đi săn, bắt được một sa môn, bèn khiến sa môn ban đêm tụng kinh tán nhạc. Vua bảo: “Người này là một ca sĩ lớn”. Nên hễ có khách, bèn bảo ca. Bấy giờ có một nhà buôn ưu bà tắc nước khác đến nước ấy. Vua xin đem sa môn ra bảo ca. Vị ưu bà tắc nghe đọc kinh xong, trong lòng hớn hở ra đi. Nhà buôn đem một ngàn muôn đến chuộc, đến 3 ngàn muôn, vua mới cho chuộc. Nhà buôn làm lễ nói: “Tôi đem ba ngàn muôn đến chuộc mới được như vậy”. Nhà sư tức khắc bay lên giữa hư không, nói: “Khanh tự chuộc mình, chứ không phải chuộc tôi. Sao vậy? Xưa vua là người bán hành. Ông đến vua mua hành, không trả đủ ba tiền. Ta bấy giờ cho ông mượn. Ông lại không trả lại 3 tiền. Nay tiền ấy sinh cháu con tới đến 3 ngàn muôn, mà ông phải trả lại cho 3 tiền gốc”. Ý vua liền hiểu, hối lỗi, thọ 5 giới làm ưu bà tắc.

Thầy nói: “Nợ không kể nhiều ít, không thể mắc, cũng không giao cho người khác.”


5
Lúc Phật còn ở đời có một bé con cùng ở với con người anh. Bé hằng ngày đến chỗ Phật nghe kinh giới. Con người anh can mãi không được, sau bắt bé kiềng giữ lại, lấy gậy đánh, nói: “Phật, tỷ kheo tăng sẽ đến cứu mày”. Bé khóc kêu sợ hãi tự qui Tam bảo thì chứng được quả Tu đà hoàn. Nhờ oai thần của Phật, bé liền bay đi cùng với cây kiềng trói, vào tường ra tường, lên đất độn thổ một cách tự do theo ý. Con người anh thấy thế, sợ hãi cúi đầu hối lỗi. Bé liền nói các việc làm lành dữ cho con người anh, rồi cùng đến chỗ Phật thọ giới. Phật tái hiện lại đầu đuôi đời trước, con người anh vui vẻ, lòng hiểu hết, do thế được quả Tu đà hoàn.


6
Xưa có la hán cùng hành đạo với một sa di trong núi. Sa di hằng ngày đến nhà đạo hữu lấy cơm. Đường đi qua trên một con đê gồ ghề hiểm trở, thường trượt chân đổ cơm vào trong bùn. Sa di lấy phần cơm sạch bỏ trong bát thầy, còn phần cơm nào dơ bèn đem rửa để ăn. Chuyện như thế chẳng một ngày. Thầy hỏi: “Sao rửa mất đi mùi cơm?” Đáp: “Khi đi xin thì trời tạnh, về thì mưa. Trên đường đê trượt chân đổ cơm”. Thầy lặng lẽ thiền định, biết là do rồng chọc ghẹo sa di. Bèn đứng dậy, đến trên đê, cầm gậy gõ vào đê. Rồng hóa làm một ông già, cúi đầu lễ sát đất. Sa môn hỏi: “Ngươi vì sao lại chọc ghẹo sa di của ta?” Đáp: “Không dám chọc ghẹo. Sự thật là thích dung mạo của sa di”. Rồng lại hỏi: “Sao ngày nào cũng thấy đi?” Thầy đáp: “Đi xin cơm”. Rồng nói: “Từ ngày nay trở đi, xin hằng ngày đến nhà con ăn cơm cho đến hết đời con”. Sa môn mặc nhiên nhận lời, trở về bảo sa di: “Con đi chỉ xin phần cơm của con, chớ đừng mang phần cơm thầy về”.

Sa di từ đó đến nhà kia ăn. Sau thấy trong bát thầy có vài ba hạt cơm thơm ngon khác với cơm thế gian. Bèn hỏi Hòa thượng: “Phải cơm trên trời không?” Thầy mặc nhiên không đáp. Sa di muốn rình biết cơm thầy từ đâu, bèn chui xuống giường, ôm lấy chân giường. Hòa thượng tọa thiền, dùng định ý cùng giường bay đến cung bảy báu của rồng. Rồng cùng vợ và các thể nữ đều đến làm lễ sa môn, rồi lại làm lễ sa di. Thầy biết, kêu ra, nói: “Chính tâm ngươi, chớ động. Đây là một việc phi thường. Sao lại làm dơ lòng mình. Ăn xong trở về, ta sẽ nói cho biết. Rồng kia tuy cung điện nhà cửa bảy báu, vợ con thể nữ, cũng vẫn là súc sinh. Ngươi là sa di, tuy chưa đắc đạo, nhưng nhất định sinh lên trời Đao Lợi, hơn kia trăm lần. Nên chớ vì thế mà dơ lòng”. Lại bảo sa di: “Cơm trăm vị này, vào miệng hóa thành ểnh ương. Lòng ghét mửa ngược ra lại, cơm lại ăn không xuống. Hai là đàn bà con gái đẹp khó sánh, muốn làm lễ vợ chồng thì hóa thành hai con rắn quấn nhau. Ba là lưng rồng có vẩy ngược, cát sinh ở trong, đau tới tim gan. Rồng có ba nỗi khổ đó. Ngươi sao muốn làm rồng?” Sa di không đáp, ngày đêm tương tư không ăn, mắc bệnh mà chết. Thần hồn sinh làm con rồng, oai thần dũng mãnh. Sau rồng hết số, thoát được làm người.

Thầy nói: “Ngươi chưa đắc đạo, không thể khiến thấy đạo và trong nhà quốc vương”.


7
Xưa có vợ vua sinh một người con gái. Cha mẹ đặt tên Nguyệt Nữ, đẹp đẽ vô song. Vua đem cho quần áo trân báu, cô bảo là tự nhiên. Đến năm 16 tuổi, vua giận nói: “Đấy là đồ ta cho, sao con bảo tự nhiên”. Sau có đứa ăn mày đến xin, vua nói: “Đó thật là chồng con”. Nguyệt Nữ thưa: “Vâng, tự nhiên”. Bèn bị đuổi đi. Người ăn xin sợ hãi, không dám nhận. Cô gái nói: “Anh xin ăn thường không no, vua cho anh vợ, sao anh từ chối”. Rồi cùng nhau ra khỏi thành, ngày nghỉ đêm đi.

Đến một nước lớn, vua nước ấy mới băng hà, không có thái tử. Vợ chồng ngồi ở ngoài thành. Những người đi vào ra hỏi: “Các người là ai, tên họ là gì, từ nước nào đến?” Đáp: “Tự nhiên”. Như vậy hơn mười ngày. Bấy giờ quan đại thần sai tám Phạm chí ra ở cửa kinh thành theo thứ tự, xem tướng những người vào ra cửa, chỉ có hai vợ chồng ấy là đúng tướng. Lúc ấy, quần thần cả nước cùng đón về làm vua. Hai vợ chồng vua dùng chính pháp cai trị, nhân dân yên ổn. Các tiểu vương đến chầu, trong đó có vua cha của Nguyệt Nữ. Ăn uống xong, Nguyệt Nữ đặc biệt giữ vua cha lại. Nguyệt Nữ dùng bảy báu làm một chiếc máy cá, màn kéo một con thì 120 con hiện ra, gõ cửa một con thì (120 con) mở, bèn xuống làm lễ cha, thưa với cha: “Nay được như vậy là tự nhiên”. Người cha nói: “Phu nhân làm vậy, thần không bì kịp được”.

Thầy bảo: “Nguyệt Nữ cùng người ăn xin đời trước là hai vợ chồng cùng làm ruộng, chồng bảo vợ đi lấy cơm. Chồng xa thấy vợ gặp sa môn dừng lại bên bờ sông theo vợ khất thực. Vợ chia phần cơm dâng cho nhà sư. Nhà sư dừng lại ăn. Chồng từ xa thấy hai người, không thể bảo là (không) có ác ý, liền cầm gậy đến xem. Nhà sư bèn đi. Vợ nói: “Phần anh đang còn đó, chớ giận”. Chồng bảo: “Phân làm hai, anh và em cùng ăn”.

Thầy nói: “Chồng có ác ý, nên đọa làm con nhà nghèo khó, sau thấy nhà sư, bèn vui vẻ tự hối lỗi, nên cùng hưởng phước ấy”.


8
Xưa có chúng Tỳ kheo cùng đi với nhau, gặp ba người say. Một người chạy vào trong cỏ trốn. Một người ngồi ngay ngắn, vỗ má bảo không có tình trạng phạm giới. Một người đứng dậy, múa, nói: “Ta cũng đâu uống rượu của Phật thì có gì mà sợ”. Phật bảo A Nan: “Người trốn trong cỏ, khi đức Phật Di Lặc chứng Phật, sẽ được độ thoát làm la hán. Người ngồi ngay ngắn vỗ má, thì qua một ngàn đức Phật, đến đức cuối cùng sẽ được độ thoát làm la hán. Người đứng dậy múa thì vô số kiếp sau mới được độ”.

Xưa có sa môn ngày đêm tụng kinh. Có con chó nằm dưới giường, một lòng nghe kinh, không còn nghĩ tới ăn uống. Như vậy mấy năm, khi chết, được làm thân người, sinh làm con gái ở nước Xá Vệ. Lớn lên, thấy sa môn khất thực, cô liền tự chạy đi lấy cơm, vui vẻ cúng dường. Như vậy sau cô theo sa môn xuất gia làm Tỳ kheo ni, tinh tấn tu hành, được quả la hán.


9
Xưa lúc đức Phật Duy Vệ còn ở đời, các họ lớn trong nước, mỗi họ cúng Phật và chúng Tỳ kheo một lần. Bấy giờ có một họ lớn, nghèo không có gì cúng Phật, bèn thưa rằng: “Xin chúng Tỳ kheo, có ai muốn có thuốc trị bệnh, tôi xin cung cấp hết”. Lúc ấy, có một Tỳ kheo, thân thể có bệnh. Họ lớn đem một quả ngọt cho ăn, Tỳ kheo được an ổn lành bệnh. Họ lớn sau chết, sinh lên cõi Trời, hơn các chư thiên khác năm điều: Một là thân không tật bệnh. Hai là đẹp đẽ. Ba là sống lâu. Bốn là được của giàu. Năm là có trí tuệ. Như vậy trong 91 kiếp, trên thì làm trời, thác xuống thì làm nhà họ lớn, không đọa vào đường dữ. Cho đến khi đức Phật Thích Ca Văn thì làm con nhà giàu, tên là Đa Bảo, gặp Phật thì vui vẻ, làm sa môn thì tinh tấn tu hành được đạo gọi là la hán. Hễ cúng dường sa môn cao hạnh một người còn hơn cúng dường người cả nước dơ dáy đầy tà kiến.

Xưa có vợ chồng đều giữ năm giới phụng sự sa môn. Có Tỳ kheo mới học, không biết kinh, đến nhà xin ăn. Vợ chồng mời vị Tỳ kheo lên ngồi làm cơm cúng dường. Ăn xong, vợ chồng đều cúi đầu làm lễ, thưa: “Chúng con phụng sự quí thầy chút ít, mà chưa từng nghe kinh. Mong thầy khai mở chỗ u tối bất cập của chúng con”. Vị Tỳ kheo cúi đầu, không biết gì để đáp, nói: “Khổ thay, khổ thay!” Tâm ý vợ chồng đều được cởi mở, nói rằng thế gian thật khổ, lúc ấy liền chứng được đạo. Tỳ kheo thấy hai người vui vẻ, cũng được chứng đạo.

Thầy nói: “Kiếp trước nhiều đời, ba người này là anh em nguyện học đạo cùng thực hành, nên nay đều chứng đạo”.


10
Xưa có quốc vương đi săn trở về, qua nhiễu tháp, làm lễ sa môn. Quần thần đều cười. Vua biết, bèn hỏi quần thần: “Có vàng trong vạc, vạc đang sôi, có thể dùng tay lấy ra được không?” Đáp: “Không thể được”. Vua nói: “Đem nước lạnh đổ vào, có thể lấy được không?” Quần thần thưa vua: “Có thể được”. Vua nói: “Ta làm việc vua săn bắn thì như nước sôi. Thắp hương đốt đèn, nhiễu tháp, thì như đem nước lạnh đổ vào nước sôi. Hễ làm vua thì có việc làm lành và dữ, sao lại chỉ có việc làm dữ mà không là việc lành?”.


11
Xưa có sa môn đi đến nước khác, ban đêm không được vào thành, nên ngồi trong cỏ ngoài thành. Đến đêm quỉ Dạ xoa tới bắt nói “Phải ăn mày”. Sa môn đáp: “Cách xa nhau rồi”. Quỉ hỏi: “Sao cho là cách xa nhau?”. Sa môn đáp: “Ngươi hại ta, ta sẽ sinh lên trời Đao Lợi, ngươi sẽ vào địa ngục, thế không cách xa sao?” Quỉ bèn dâng lời, từ tạ làm lễ mà đi.


12
Xưa có quốc vương sai người đi kêu người bạn. Người bạn bảo: “Cám ơn vua, tôi đang mắc đào đất làm hầm, muốn giấu bảy báu”. Vua nghe rất kinh ngạc. Vua lại sai người đi kêu người bạn. Người bạn thưa vua: “Nay đang mắc đưa của báu vào trong hầm”. Vua lại ra lệnh gọi người bạn. Người bạn thưa vua: “Nay đang mắc lấp đất hầm, lấp bằng xong sẽ đi”. Vua hỏi: “Ngươi sao ngu thế? Giấu bảy báu mà đi nói cho người biết ư ?”. Người bạn thưa: “Ban nãy lo thức ăn chén dĩa ngon đẹp, định để dâng cơm cho Phật và các thầy Tỳ kheo, ấy là đào đất làm hầm. Đem cơm canh ra dọn, ấy là đưa của báu xuống hầm. Quét đường sá, dâng nước rửa, giảng kinh, ấy là san lấp đất hầm. Thưa vua, của báu đó năm nhà không thể làm nhục được”. Vua nói: “Lành thay! Lành thay! Ngươi sao không nói sớm. Ta sẽ nói sớm. Ta sẽ kiểm lại các báu giấu trong kho”. Vua liền mở kho tàng, bố thí lớn, dâng cơm đức Phật và các thầy Tỳ kheo. Đức Phật vì vua giảng lẽ thanh tịnh và chú nguyện. Vua liền phát lòng đạo.


13
Xưa có nhà giàu thỉnh Phật dâng cơm. Bấy giờ có một người bán sữa bò, nhà giàu giữ lại ăn cơm, dạy giữ trai giới. Ở lại nghe kinh, khách mới về nhà. Vợ nói: “Em từ sáng chờ anh, chưa ăn cơm”. Rồi ép chồng ăn, phá việc trai giới. Tuy vậy, vẫn bảy lần sinh lên trời, bảy lần sinh ở đời.

Thầy nói: “Một ngày trì trai, có lương thực cho sáu mươi vạn tuổi. Lại có năm phước. Một là ít bệnh, hai là thân thể yên ổn, ba là ít lòng dâm, bốn là ít nằm ngủ, năm là được sinh lên trời, thường biết việc làm đời trước của mình”.


14
Đức Phật và chúng Tỳ kheo đáp lời mời. Có một sa môn cùng một sa di đến sau. Giữa đường gặp dâm nữ lôi kéo vị sa môn. Sa môn cùng dâm nữ ăn nằm. Ăn nằm xong mới đến nhà dâng cơm. Đức Phật bảo vị sa di: “Con đến dưới núi Tu Di lấy nước cam tuyền đến đây”. Sa di đã đắc đạo, bèn quăng bát lên trước, rồi chắp tay đuổi theo, phút chốc đã được nước đem về. Vị thầy hổ thẹn, tức tưởi, hối lỗi, trách mình, liền chứng la hán. Người nữ ấy kiếp trước từng là đôi bạn với sa môn. Gặp đôi bạn, hết tội, mới chứng được đạo.

Xưa vua A Dục mỗi ngày dâng cơm cho một nghìn la hán. Sau đến một sa môn trẻ tuổi, cùng một nghìn vị sư vào cung. Vị sa môn trẻ tuổi ngồi xong, nhìn cung điện vua trên dưới, rồi lại nhìn không ngớt vợ cả của vua. Vua có ý giận. Cơm xong, mỗi người tự ra về. Vua giữ lại ba vị thượng tọa, hỏi: “Vị sa môn trẻ tuổi từ đâu đến, tên họ là gì, thờ ai làm thầy, đó chẳng phải là sa môn, sao đem vào cung, nhìn mặt phu nhân, mắt không nhấp nháy?” Ba vị đáp: “Vị sa môn ấy từ Thiên Trúc đến. Thầy tên ấy, y họ ấy, tên ấy, có trí tuệ, hiểu rõ kinh điển, nên đến để xem cung điện xây cất, rồi ngó lên trời Đao Lợi, vừa ngang bằng, chứ không có ý gì khác. Vua đời trước đem cát cúng trong bát Phật, vòi vọi là vậy. Nay mỗi ngày lại dâng cơm cho một nghìn la hán, phước ấy vô cùng. Còn vì sao nhìn chính phu nhân, ấy là phu nhân đẹp đẽ vô song trên một vạn sáu ngàn người, nhưng sau bảy ngày thì chết sẽ vào địa ngục. Thế gian vô thường, vì thế nên mới nhìn”. Vua sợ hãi kêu phu nhân quy y với ba vị sư. Vị sư nói: “Vua tuy hằng ngày dâng cơm cho chúng tôi cả ngàn người, nhưng ngàn người không thể cởi mở được ý của phu nhân, nên phải mời được vị sa môn trẻ tuổi kia giảng kinh thì phu nhân mới mau thấy được đạo Phật”. Vua sai đi mời vị sư thật ấy. Vị sư trở lại. Vua cùng phu nhân cúi đầu sát đất, xin quy y, khiến cho tội nặng được nhẹ. Vị sư giảng cho phu nhân những gì đã thấy trải qua ở đời trước và giáo lý chính yếu của đạo. Bèn lúc ấy vui vẻ, lông tóc dựng ngược, chứng được quả Tu đà hoàn. Phu nhân năm trăm đời trước vốn là chị của vị sư này, có cùng nhau thề ai được đạo trước thì độ cho nhau.

Thầy nói: “Người không có đời trước, rốt cuộc không thể do đâu hiểu được, không thể gặp nhau, nói năng thì rốt cuộc không ăn ý với nhau. Mỗi người đều có thầy riêng của mình”.


15
Xưa có nhà giàu tên Y Lợi Sa, giàu không thể kể, nhưng bủn xỉn không chịu ăn ngon mặc đẹp. Bấy giờ có một ông già ham ăn cũng ở gần, hằng ngày ăn uống cá thịt tự do, khách khứa không dứt. Người nhà giàu tự nghĩ: “Ta của cải không kể xiết, trái lại không được như ông già ấy”. Bèn giết một con gà, nấu một thăng gạo trắng, đem lên xe, đến một chỗ không người. Xuống xe, vừa định ăn thì trời Đế Thích hóa làm chó đi đến, trông lên ngó xuống. Bèn nói mời chó: “Mày nếu treo ngược được giữa trời, ta sẽ cho mày ăn”. Chó liền treo ngược giữa trời. Người nhà giàu ý quá sợ, do đâu mà có việc đó, bèn nói: “Mắt mày văng ra ngoài đất, ta sẽ cho mày chăng?” Hai mắt chó liền văng rơi xuống đất. Người nhà giàu bỏ đi chỗ khác.

Vua trời hóa làm thân thể, giọng nói người nhà giàu, cưỡi xe trở về nhà, ra lệnh người nhà có ai trá xưng nhà giàu thì phải xua đuổi đánh đi. Người nhà giàu chiều trở về nhà. Kẻ giữ cửa la mắng bảo đi. Vua trời lấy hết của cải để bố thí lớn. Người nhà giàu cũng không được về. Của cải hết, ông vì thế phát cuồng. Vua trời hóa làm một người đến hỏi: “Ngươi sao mà buồn?” Đáp: “Của cải tôi sạch hết rồi”. Vua trời nói: “Hễ có của quí khiến người ta nhiều lo lắng. Năm nhà rốt cuộc đến không hẹn. Chứa của không ăn không cho, chết làm quỉ đói thường thiếu ăn mặc. Nếu thoát được làm người, thường sinh vào nhà hạ tiện. Ngươi không hiểu vô thường, giàu lại bủn xỉn không ăn, muốn mong cái gì?” Vua trời liền giảng bốn sự thật, khổ, không, vô ngã. Người nhà giàu lòng hiểu, vui vẻ. Vua trời liền đi. Người nhà giàu được trở về, tự mình hối lỗi trước, hết lòng đem bố thí, chứng được đạo.


16
Xưa có con một dòng họ lớn, đẹp đẽ, đem vàng đúc một tượng con gái, thưa với cha mẹ: “Có con gái ai giống như thế, con sẽ lấy làm vợ”. Bấy giờ nước khác có một người con gái cũng đẹp đẽ, cũng đem vàng làm một tượng con trai, thưa với cha mẹ: “Có người con trai nào như thế, con sẽ lấy làm chồng”. Cha mẹ mỗi bên nghe có việc ấy, bèn xa đưa lễ, hợp hai người làm vợ chồng. Lúc ấy, quốc vương đưa gương soi mình, bảo quần thần: “Người trong thiên hạ, có ai dung nhan như ta không?” Đáp: “Thần nghe nước kia có người con trai đẹp đẽ vô song”. Bèn sai sứ đến mời. Sứ giả đến, đem ý vua ra nói: “Vua muốn gặp hiền giả”. Bèn đóng xe ra đi. Rồi tự nghĩ: “Vua cho ta sáng suốt, nên đi mời”. Bèn trở về lấy những yếu thuật của sách vở thì gặp vợ đang gian dâm với khách. Buồn rầu trĩu nặng, bèn vì thế hết khí, nhan sắc hư hao cổ quái, lại xấu. Bề tôi thấy như vậy, nghĩ người đi đường khó nhọc, nên nhan sắc tiều tụy, bèn lấy chuồng ngựa để cho nghỉ ngơi. Đến ở chuồng ngựa, anh thấy chính phu nhân của vua ra thông dâm với tên nuôi ngựa. Lòng anh tự hiểu ra: “Phu nhân của vua còn vậy, huống nữa là vợ ta!”. Ý được cởi mở, nên nhan sắc trở lại như cũ. Bèn đến gặp vua, vua hỏi: “Sao ở ngoài đến ba ngày?” Đáp: “Sứ giả đến đón, tôi có chỗ quên, nên giữa đường trở về lấy thì thấy vợ gian dâm với khách, tức ý vì thế buồn giận, nhan sắc suy vi, phải ở chuồng ngựa ba ngày. Hôm qua trong chuồng ngựa thấy chính phu nhân đến tư thông với tên nuôi ngựa. Phu nhân còn vậy, huống nữa là những người khác. Lòng hiểu ra, nên nhan sắc trở lại như cũ”. Vua nói: “Vợ ta còn vậy, huống nữa đàn bà người thường”. Hai người cùng vào núi, cạo bỏ râu tóc, làm sa môn, nghĩ rằng không thể làm việc với đàn bà, tinh tiến không biếng nhác, đều được quả Phật Bích Chi.


17
Xưa có người đàn bà sinh một người con gái đẹp đẽ vô song. Năm ba tuổi, quốc vương lấy xem, kêu nhà sư coi tướng sau có trúng làm phu nhân không. Nhà sư nói: “Người con gái này sẽ có chồng, vua ắt đến sau” (Vua nghĩ): “Ta phải giấu kỹ nó”. Bèn gọi chim câu đến hỏi: “Ngươi ở chỗ nào?” Nó thưa vua: “Tôi ở lưng chừng núi lớn, có cây, người và súc thú không thể đến được, dưới có dòng nước xoáy, thuyền không thể qua được”. Vua nói: “Đem người con gái này gửi ngươi nuôi”. Bèn kẹp đem đi. Hằng ngày đều đến chỗ vua lấy cơm cho người con gái.

Như vậy lâu sau đó, thượng lưu có một xóm bị nước đẩy trôi đi, có một cây thẳng băng trôi theo nước, dưới dòng có một người con trai ôm được cây ấy, rớt vòng nước xoáy không trôi đi được. Xoáy một hồi, cây đứng thẳng lên, bám vào núi. Người con trai leo lên cây của chim câu, tư thông với con gái. Người con gái giấu người đó. Chim câu hằng ngày cân người con gái xem. Khi chưa có thân người con trai thì nhẹ. (Bây giờ) chim biết người con gái nặng. Bèn tìm hiểu phải trái thì biết được người con trai, đem quăng đi, rồi đến như thật trình vua. Vua nói: “Nhà sư đã xem tướng rồi”.

Thầy nói: “Người có đôi từ kiếp trước, không thể dùng sức mà ngăn được. Gặp đôi thì được. Các loài súc sinh cũng vậy.”


18
Xưa có quốc vương giữ kỹ phụ nữ. Vợ cả gọi thái tử bảo: “Ta là mẹ con, cả đời không thấy cảnh trong nước, mẹ muốn đi chơi một lần, con có thể thưa với vua”. Nói vậy đến ba lần, thái tử trình vua. Vua liền đồng ý. Thái tử tự làm người đánh xe, đưa quần thần ra đường nghênh đón, vái chào phu nhân. Phu nhân đưa tay mở màn cho người thấy được mình. Thái tử thấy đàn bà như vậy, bèn giả vờ đau bụng trở về. Phu nhân nói: “Ta vô duyên quá”. Thái tử nghĩ: “Mẹ ta còn như vậy, huống nữa là người khác”. Đêm đến, bèn giao việc nước lại, đi vào trong núi xem chơi.

Bấy giờ bên đường có cây, dưới cây có dòng suối đẹp. Thái tử leo lên cây, thấy Phạm chí đi một mình đến suối tắm rửa. Rồi đem cơm ra ăn. Dùng thuật mửa ra một chiếc bình. Trong bình có người con gái cùng Phạm chí ăn nằm ở chỗ kín đáo. Phạm chí thỏa mãn nằm ngủ. Người con gái lại dùng thuật ói ra một chiếc bình, trong bình có người con trai trẻ tuổi, lại cùng ăn nằm, xong lại nuốt bình. Giây lát, Phạm chí thức dậy, lại đem người con gái nhốt vào bình, nuốt bình, rồi cầm gậy mà đi.

Thái tử trở về nước trình vua mời nhà tu cùng các thần hạ, làm ba phần cơm để một bên. Phạm chí đến rồi, nói: “Tôi một mình thôi”. Thái tử nói: “Nhà tu nên đưa vợ ra cùng ăn”. Nhà tu bất đắc dĩ đưa vợ ra. Thái tử bảo bà vợ: “Phải đưa người con trai ra cùng ăn”. Như vậy đến ba lần, bất đắc dĩ bà đưa người con trai nọ ra cùng ăn. Ăn xong, họ bỏ đi.

Vua hỏi Thái tử: “Con làm sao biết được?” Đáp: “Mẹ con muốn xem cảnh trong nước, con làm người đánh xe. Mẹ đưa tay ra khiến người ta thấy. Con nghĩ người nữ hay có nhiều dục, nên vờ đau bụng trở về vào núi, thấy nhà tu ấy giấu vợ trong bụng ắt có điều gian. Như vậy, người nữ gian không thể dứt được. Xin đại vương tha những người trong cung tự do đi đâu thì đi”. Vua liền ra lệnh trong hậu cung ai muốn đi tùy ý mình.

Thầy nói: “Thiên hạ không thể tin người nữ”.


19
Xưa có hai người theo thầy học đạo, cùng đi đến nước khác. Trên đường đi thấy dấu voi. Một người nói: “Con voi mẹ này có mang voi con cái, một mắt nó mù, trên voi có một người đàn bà đang mang thai một bé gái”. Người kia hỏi: “Anh sao biết?”. Đáp: “Dùng ý tứ mà biết. Anh không tin đi tới nữa sẽ thấy”. Hai người đi bắt kịp voi, đều đúng như lời người trước nói. Đến sau, voi và người đều sinh. Như vậy, người kia tự nghĩ: “Ta với anh ấy cùng theo thầy học, riêng ta không thấy được chỗ chính yếu”. Sau trở về thưa với thầy: “Hai người con cùng đi, anh ấy thấy dấu voi, biết những điểm đúng, mà con thì không hiểu. Xin thầy giảng lại, con không lơ là”. Thầy liền gọi anh kia vào hỏi: “Con sao biết điều đó?” Đáp: “Ấy là điều thầy thường nói. Con thấy chỗ đất voi tiểu tiện thì biết đó là voi cái, thấy chân phải đạp đất lún sâu thì biết voi mang thai con voi cái, thấy cỏ phía bên phải đường không động đậy thì biết mắt phải nó mù, thấy chỗ voi dừng có tiểu tiện thì biết đó là người nữ, thấy chân phải đạp đất lún sâu thì biết mang thai gái. Con dùng ý tứ suy nghĩ chặt chẽ mà thôi”.

Thầy nói: “Hễ học thì phải dùng ý tứ suy nghĩ chặt chẽ thì mới đạt được. Hễ giản lược thì không tới, chẳng phải là lỗi của thầy”.


20
Xưa có người đàn bà có vàng bạc, cùng giao du với một người đàn ông, bèn đem hết vàng bạc, áo quần theo nhau mà đi. Đến bờ một con sông xiết, người đàn ông nói: “Em đem của cải đến đây, anh đưa qua trước, rồi trở lại đón em”. Người đàn ông qua rồi liền chạy đi không trở lại. Người đàn bà một mình ở lại bên này bờ sông, thấy cáo bắt được ó, lại buông ra đi bắt cá. Bắt không được cá, lại mất cả ó. Người đàn bà gọi cáo bảo: “Mày sao ngu quá! Bắt hai thì không được một”. Cáo nói: “Tôi ngu còn được, chứ bà ngu còn quá hơn tôi”.


21
Xưa con gái vua rồng đi chơi, bị đứa chăn trâu bắt trói đánh. Quốc vương đi thị sát, thấy bé gái, bèn cởi trói, bảo đi đi. Vua rồng hỏi con gái: “Sao lại khóc?” Bé gái đáp: “Quốc vương đánh oan con”. Vua rồng nói: “Vua này thường nhân từ, sao đánh oan người”. Vua rồng lén hóa làm một con rắn, nằm dưới giường nghe vua nói với vợ: “Ta đi thấy một đứa bé gái bị đứa chăn trâu đánh. Ta cởi trói bảo đi”. Hôm sau vua rồng hiện thành người đến gặp vua, nói với vua: “Vua có ơn lớn ở chỗ hôm qua hứa cho con gái đi chơi, bị người đánh, được vua đến cởi thả. Tôi là vua rồng, ngài có muốn được gì không?” Vua nói: “Của báu mình đã nhiều, xin nghe được tiếng súc thú nói”. Vua rồng nói: “Phải trai giới bảy ngày. Bảy ngày xong đến bảo tôi. Cẩn thận chớ cho ai biết”.

Như vậy, vua với phu nhân cùng ăn cơm, nghe con ruồi cái bảo ruồi đực lấy cơm. Ruồi đực bảo mỗi con tự mình lấy. Ruồi cái nói: “Bụng em bất tiện”. Vua lỡ cười. Phu nhân hỏi: “Sao vua cười?” Vua mặc nhiên. Sau cùng phu nhân ngồi, vua thấy ruồi leo vách, gặp nhau tranh giành, đánh nhau cùng rớt xuống đất. Vua lại lỡ cười. Phu nhân hỏi: “Sao lại cười?” Như vậy nghe tới lần thứ ba vua nói: “Ta không nói cho em”. Phu nhân nói: “Nếu vua không nói, em sẽ tự sát”. Vua nói: “Đợi ta đi về sẽ nói cho em”.

Vua bèn ra đi. Vua rồng hóa làm vài trăm đầu dê vượt sông. Có một con dê cái mang thai kêu con dê đực: “Anh trở lại đón em”. Dê đực nói: “Anh thật không thể đưa em qua”. Dê cái nói: “Anh không đưa em qua em sẽ tự sát. Anh không thấy quốc vương đang chết vì vợ”. Dê đực nói: “Vua ấy ngu si mới chết vì vợ. Em chết, nghĩ anh chắc không có dê cái khác hay sao?”. Vua nghe vậy, nghĩ: “Ta làm vua một nước, mà trí không bằng con dê ư?” Vua trở về, phu nhân nói: “Vua không vì em mà nói thì em sẽ tự sát”. Vua đáp: “Em tự sát được thì tốt. Trong cung ta còn nhiều phụ nữ, không cần đến em”.

Thầy nói: “Người đàn ông ngu làm theo ý muốn của vợ thì tự giết thân mình”.


22
Xưa có một nước, ngũ cốc được mùa, nhân dân yên ổn, không có bệnh tật, ngày đêm đàn hát, không có lo lắng. Vua hỏi quần thần: “Ta nghe thiên hạ có họa, nó giống cái gì?” Đáp: “Thần cũng không thấy”. Vua sai một bề tôi đến nước láng giềng tìm mua. Thiên thần hóa làm một người bán nó trong chợ, hình thù nó giống như con heo cầm khóa sắt trói chặt. Vị bề tôi hỏi: “Cái đó tên gì?” Đáp: “Mẹ họa”. Hỏi: “Bán bao nhiêu tiền?” Đáp: “Ngàn muôn”. Vị bề tôi bèn xem, hỏi: “Nó ăn gì?” Đáp “Mỗi ngày ăn thăng kim”.

(Từ đó), vị bề tôi phát động nhà nhà tìm kim. Như vậy nhân dân tụm hai, tụm ba gặp nhau đều tìm kim, khiến cho các quận huyện nhiễu loạn đến nỗi hoạn độc cũng không thảm hại hơn. Vị bề tôi trình vua: “Mẹ họa này đã khiến dân chúng rối loạn, trai gái thất nghiệp, muốn giết vứt đi”. Vua nói: “Rất hay!” Rồi ở ngoài thành, đâm không thủng, chém không đứt, phanh không chết, chất củi đốt, thân thể nó đỏ như lửa, bèn chạy đi. Chạy qua làng đốt làng, chạy qua chợ đốt chợ, chạy vào thành đốt thành. Như vậy, chạy qua nước, nước rối loạn, nhân dân đói khát. Ấy là do chán hưởng sướng mà vua đi mua họa.


23
Xưa có oanh vũ bay nhóm ở một núi khác. Chim chóc súc thú trong núi trở nên thương kính, không còn tàn hại nhau. Oanh vũ tự nghĩ: “Tuy vậy không thể ở lâu, nên phải trở về”. Rồi bèn đi. Sau đó vài tháng núi lớn thất hỏa, bốn bề đều cháy. Oanh vũ xa thấy, bèn bay vào sông, dùng lông mình lấy nước bay lên không trung, dùng lông mình rũ nước tưới lên, ý muốn diệt lửa lớn. Như thế cứ bay đi bay lại, bay đi bay lại. Thiên thần nói: “Hỡi oanh vũ, ngươi sao ngu thế. Lửa ngàn dặm, há vì nước đôi cánh ngươi mà dập được sao?” Oanh vũ nói: “Tôi cũng biết là không dập tắt được. Nhưng tôi đã từng ở trọ trong núi đó. Chim chóc súc thú trong núi đều hiền lành, thảy là anh em. Tôi không nỡ thấy chúng chết cháy”. Thiên thần cảm lòng chí thành, bèn làm mưa dập tắt lửa.


24
Phật với Tỳ kheo cùng đi, tránh (đường lớn) đi vào trong cỏ. A Nan hỏi Phật: “Sao thầy bỏ đường, mà đi trong cỏ”. Phật bảo: “Trước có giặc. Sau ba Phạm chí sẽ bị giặc bắt”. Ba người đến sau, thấy bên đường có đống vàng. Họ dừng lại, cùng lấy, rồi sai một người trở lại xóm mua cơm. Người đó lấy thuốc độc bỏ vào cơm để giết hai người kia. “Ta sẽ một mình được vàng”. Hai người kia lại sanh ý thấy người đó đến thì cùng giết, xong lại ăn cơm có thuốc độc, nên đều chết. Ba người mỗi người sanh ác ý, dần dà giết nhau như vậy.


25
Xưa có nhà giàu giấu vợ không để người thấy. Vợ sai đứa hầu đào hang đất, để tư thông với với tên dũa bạc. Chồng sau đó biết được. Vợ nói: “Em suốt đời không đi đâu, anh đừng nói bậy”. Chồng nói: “Phải đem em đến chỗ thần cây”. Vợ nói: “Tốt”. Trì trai bảy ngày, họ vào nhà trai. Người vợ lén nói với tên dũa bạc: “Anh phải làm gì? Anh giả vờ làm người điên, gặp người ở chợ thì ôm giữ kéo đi”. Chồng trì trai xong, bèn đem vợ ra đi. Vợ nói: “Em suốt đời không thấy chợ, anh đem em đi qua chợ”. Tên dũa bạc bèn ôm giữ nằm xuống đất làm vợ tại chỗ. Vợ bèn thở hổn hển kêu chồng: “Sao lại sai người ôm giữ em?” Chồng nói: “Đó là người điên”. Vợ chồng cùng đến chỗ thần, cúi đầu thưa: “Suốt đời không làm ác, chỉ bị người điên ấy ôm”. Vợ liền được sống. Chồng lặng lẽ hổ thẹn. Đàn bà gian trá đến như thế ấy!


26
Xưa có một người con gái đi về nhà chồng. Những cô gái khác cùng tiễn đưa, ăn uống vui chơi ở trên lầu. Một trái quít rớt xuống đất. Các cô cùng trông theo, nói: “Ai dám xuống lấy được quít lên thì sẽ cùng ăn uống”. Người con gái sắp gả bèn xuống lầu, thấy một thanh niên đã lấy được quít. Cô gái nói với cậu thanh niên: “Cho trái quít đi”. Thanh niên đáp: “Em đến lúc lấy chồng thì trước phải đến nhà tôi, tôi mới trả quít lại. Nếu không thì không cho”. Cô gái nói: “Vâng”. Thanh niên liền trao quít. Cô gái được quít mang trở về. Các cô cùng nhau ăn uống, rồi đem cô đến chỗ chồng. Cô gái nói: “Tôi có lời thề nặng, xin trước đến gặp cậu thanh niên, rồi trở về làm vợ anh”. Người chồng cho đi. Ra khỏi thành gặp giặc, cô xin xỏ giặc: “Tôi có lời thề nặng phải trả”. Giặc thả cho đi. Vừa lên phía trước thì gặp quỉ ăn thịt người, cô cúi đầu xin cỗi lời thề. Quỉ thả cho đi. Đến cửa nhà cậu thanh niên, bèn xin ngồi tại gia trước, cậu thanh niên không cản trở, còn dọn đồ ăn uống, rồi đem vàng riêng một bánh, đưa trở về.

Thầy nói: “Như vậy, chồng, giặc, quỉ, và cậu thanh niên, bốn người đều tốt. Tuy ý còn có chỗ khác nhau. Hoặc có người nói chồng hơn vì giữ kỹ vợ, hoặc nói giặc hơn vì giữ kỹ của cải. Hoặc nói quỉ hơn vì giữ kỹ ăn uống. Hoặc nói cậu thanh niên hơn vì là thường thường”.


27
Xưa có người đàn bà thường nói: “Ta không bao giờ mất gì”. Đứa con đem chiếc nhẫn của mẹ quăng xuống sông rồi đến hỏi mẹ: “Chiếc nhẫn vàng đâu rồi?”. Người mẹ nói: “Ta có mất gì đâu”. Hôm sau, người mẹ mời ngài Mục Liên, A Na Luật và Đại Ca Diếp đến ăn cơm. Bấy giờ đang được mùa cá. Bèn sai người đi chợ mua cá về làm thì tìm được chiếc nhẫn trong bụng cá. Người mẹ gọi con nói: “Ta có mất gì đâu”. Người con rất vui mừng, đi đến chỗ Phật hỏi: “Mẹ con vì đâu có được phước báu không mất ấy?” Đức Phật dạy: “Xưa có một tiên nhân ở phía Bắc núi, đến mùa đông thì tối tăm lạnh lẽo, ai ai cũng dời về phía Nam núi. Bấy giờ có một bà góa già nghèo khó không thể đi, một mình ở lại cất giấu của cải đồ vật cho mọi người. Xuân đến, mọi người trở về, người mẹ đem hết từng cái trao lại cho chủ chúng. Mọi người đều vui mừng”. Đức Phật dạy: “Người mẹ góa ấy là mẹ con bây giờ. Đời trước giữ của cải cho mọi người nên nay được phước báu không mất gì”.

Xưa có người con nhà giàu làm một nhà nhỏ cho Ly Việt, chỗ đủ để ở cho một người, lại làm chỗ kinh hành. Sau chết, bèn sinh lên trời Đao Lợi, có được nhà báu doanh vây bốn ngàn dặm, muốn gì thì được thỏa, vui vẻ đem hoa trời rải trên nhà Ly Việt. Vị trời nói: “Ta làm một chòi đất nhỏ, mà được cung điện đẹp, nhớ ơn nên đến rải hoa”.


28
Xưa có ba nhà tu cùng hỏi nhau: “Thầy vì sao đắc đạo?” Một người nói: “Tôi ở trong vương quốc, thấy vườn nho nở rộ đẹp, đến chiều người ta đến bẻ lấy đi mất. Cả vườn tàn tạ ngổn ngang trên mặt đất. Tôi thấy vậy biết đời vô thường, nhân thế đắc đạo”. Người kia nói: “Tôi ngồi bên bờ sông, thấy người đàn bà đưa tay giặt đồ, những chiếc vòng va nhau, nhân thế hợp thành tiếng. Tôi nhờ vậy mà đắc đạo”. Người thứ ba nói: “Tôi ngồi bên bờ sông có hoa sen, thấy hoa nở rộ đẹp, đến chiều có vài chục cỗ xe đến, người ngựa đều xuống tắm, lấy hoa đi sạch. Vạn vật vô thường là thế. Tôi giác ngộ điều đó nên đắc đạo”.


29
Xưa có Phạm chí tài cao, học vấn rộng lớn, luận nghị chi ly, chủ trương không mối, ép đổi lẽ ngay, đem hư làm thật, lấy vật kết dụ, chẳng ai đương nổi, các nước đều thờ làm thầy. Sau đến nước Xá Vệ, ban ngày thắp đuốc mà đi. Người trong thành hỏi: “Sao lại như vậy?” Đáp: “Nước tối tăm không ánh sáng, nên đốt đuốc”. Quốc vương rất xấu hổ, treo trống dưới cổng thành, chiêu tìm người sáng suốt có thể đánh bại kẻ kia. Bấy giờ có một sa môn vào nước hỏi: “Sao lại có chuyện đó?” Đáp: “Vua xấu hổ vì việc làm của Phạm chí. Nếu có ai sáng suốt thì xin đánh trống”. Sa môn dở chân nhảy vào. Vua nghe rất vui mừng. Bèn mời sa môn và Phạm chí lên điện ăn uống. Sa môn nói với vua: “Lành thay Phạm chí này, trí tuệ minh đạt, đúng là nhà tu, chẳng phải giống nô tì, lính tráng hay vác người chết”. Phạm chí mặc nhiên, không có gì đáp lại. Nhạc múa đồng thời trổi lên. Vua bèn đem Phạm chí quăng vào sọt phân, xóa dấu vết, đuổi ra khỏi nước, truyền bảo nói cho nhau biết.


30
Xưa có sa môn ăn xong, kỳ cọ trang sức mặt mày, chỉnh đốn áo quần, ngắm nghía trước sau. A Nan bạch Phật nói: “Tỳ kheo này không đúng phép nên mới thế”. Đức Phật dạy: “Ông ấy vừa đến từ kiếp đàn bà, nên thói cũ chưa hết”. Thầy Tỳ kheo liền hiện quả la hán, tịch đi luôn.


31
Xưa ngoài thành Xá Vệ có vợ nhà người kia là thanh tín nữ, giới hạnh thuần đủ. Đức Phật tự đến cửa nhà khất thực. Người vợ đem cơm đặt trong bát, rồi làm lễ. Đức Phật dạy: “Gieo một sinh mười, gieo mười sinh trăm, gieo trăm sinh ngàn, như vậy sinh vạn sinh ức, đến được thấy đạo chân”. Người chồng không tin đạo đức, lặng lẽ đứng sau nghe Phật chú nguyện, nói: “ Sa môn Cù Đàm nói sao như quá lắm. Cho một bát cơm mà được phước đến vậy, lại thấy được đạo chân”. Đức Phật hỏi: “Anh từ đâu đến?” Đáp: “Từ trong thành đến”. Đức Phật hỏi: “Anh thấy cây bàng cao bao nhiêu?” Đáp: “Cao bốn mươi dặm, mỗi năm vài vạn hộc trái, hạt lớn như hạt cải”. (Chỗ này chắc có thoát lạc đi một câu hỏi của đức Phật, đại khái như: “Trồng bao nhiêu hạt mà được nhiều thế?” để có lời đáp: “Chút ít thôi”) Đáp: “Chút ít thôi”. Đức Phật hỏi: “Một thăng ư?” Đáp: “Một hạt thôi”. Đức Phật hỏi: “Anh nói sao như quá lắm thế, trồng một hạt như một hạt cải, mà cao tới bốn mươi dặm, một năm vài mươi vạn trái”. Đáp: “Thật vậy”. Đức Phật dạy: “Đất vô tri, mà sức báo trả nó còn thế, huống nữa vui vẻ đem một bát cơm dâng Phật, phước không thể kể đo”. Vợ chồng lòng ý cởi mở, tức khắc chứng được quả Tu đà hoàn.


32
Xưa có sa môn đã chứng được quả A na hàm, ở trên núi nấu cỏ nhuộm y. Bấy giờ có người mất trâu, đi khắp nơi tìm trâu. Thấy trên núi có khói, bèn đến xem thấy trong nồi thảy là xương trâu, bát hóa thành đầu trâu, cà sa hóa thành da trâu. Người ấy bèn lấy xương cột với đầu, đi khắp trong nước. Mọi người đều thấy.

Sa di thấy mặt trời đã đứng bóng, đánh bảng, không thấy thầy đến. Bèn vào phòng ngồi suy nghĩ, thấy thầy đã bị người ta làm nhục, liền đến đảnh lễ thưa: “Vì sao như vậy?” Đáp: “Tội lỗi xa xưa”. Sa di nói: “Có thể tạm về ăn cơm”. Hai người liền duỗi chân thần cùng đi. Sa di chưa đắc đạo, thường có lòng giận chưa trừ, xem thấy thanh tín sĩ và người trong nước đối đãi với thầy mình như vậy, bèn sai rồng mưa cát đá. Thành quách nhà cửa đều bị phá hoại. Thầy bảo: “Ta kiếp trước một đời làm nghề mổ trâu, nên bị họa như thế. Con vì sao lại gây tội đó? Con đi không cần phải đuổi theo ta”.

Thầy nói: “Tội phước như vậy, há không cẩn thận ư?”.


33
Xưa có quốc vương và năm người đại thần. Một đại thần hôm trước đến mời Phật. Phật không nhận. Đại thần trở về. Nhân vua mời Phật, Phật nói: “Đại thần ấy hôm nay chắc hết sống, ngày mai nhờ ai mà làm phước ư?” Đại thần thường bảo thầy xem tướng nói: “Phải chết về việc binh”. Nên thường dùng lính để tự vệ. Bản thân mình cũng rút kiếm cầm lấy. Đêm khuya muốn ngủ, bèn đem kiếm giao cho vợ giữ. Vợ ngủ gục, rơi kiếm, cắt đầu chồng. Vợ liền khóc lóc nói: “Anh chết”. Vua liền triệu bốn đại thần đến hỏi: “Các ông tổ chức tự vệ, gấp rút đề phòng gian biến, mà đem vợ theo để bỗng chốc gây ra tội này, thì đứng giữ một bên là để cho ai”. Bèn chém tay phải của bốn đại thần.

A Nan hỏi Phật vì sao? Đức Phật nói: “Người chồng đời trước làm trẻ chăn dê, vợ là con dê mẹ trắng. Bốn đại thần đời trước làm giặc, thấy trẻ chăn dê, gọi trẻ cùng giơ tay phải chỉ khiến giết con dê mẹ trắng, rồi năm người cùng nướng ăn. Trẻ khóc lóc buồn bã, giết dê cho giặc ăn. Như vậy dần dà sống chết đến đời này mới gặp nhau để trả tội kiếp trước.”


34
Xưa có nhà giàu, giàu cả cự ức, thường thích bố thí, ai xin không trái ý. Sau sinh một đứa con trai không có tay chân, thân hình như cá, nên gọi là ngư thân. Cha mẹ cuối cùng mất đi, bèn thừa kế gia nghiệp, nằm ngủ trong nhà không có ai thấy.

Bấy giờ có lực sĩ được ăn bếp vua luôn thấy đói thiếu, một mình kéo mười sáu xe củi bán để nuôi mình, lại thường không đủ. Bèn đến nhà giàu trên xin chỗ không đủ, nói: “Nhiều năm được vua cho ăn uống, nhưng thường không đủ, luôn cảm thấy đói, (nay) nghe nhà giàu của cải cự ức, nên đến xin ăn.”

Ngư thân mời đến gặp. Thấy thân hình ấy, lực sĩ trở về tự nghĩ: “Sức đá nên vậy, gần không như người không tay chân nhờ lấy đồ vật”. Bèn đến chỗ Phật, hỏi chỗ mình nghi: “Đời hoặc có người giàu sang như quốc vương, mà chết không có tay chân. Lo làm giàu nên mới vậy. Gần hơn là con sức vóc trong nước vô địch, mà thường đói khát, ăn uống không đủ. Cớ sao như thế?”

Phật dạy: “Xưa vào đời Phật Ca Diếp, ngư thân với vua ấy cùng dâng cơm cho Phật, con lúc ấy nghèo khó, chạy đến giúp. Ngư thân lo đủ những gì cần có, rồi cùng vua đi, nhưng gọi vua bảo: “Hôm nay có việc, tôi không thể cùng đi được. Bỏ việc đó là chặt bỏ tay chân tôi không khác”. Người đi lúc ấy, nay là vua. Người thất hứa không đi, nay là ngư thân. Người nghèo khó giúp đỡ, nay là thân con”. Nhờ thế, lòng ý lực sĩ hiểu ra, liền làm sa môn, đắc đạo A la hán.


35
Đức Phật giảng kinh cho các đệ tử. Bấy giờ có người thợ săn vác nỏ và mang hơn mười con chim chết, qua đến xem Phật, với ý tinh thành, nguyện nghe giảng kinh, lòng muốn nghe nhận. Phật bèn ngưng, không giảng nữa. Người thợ săn bỏ đi, nói: “Nếu ta thành Phật, sẽ vì hết thảy mọi người thuyết pháp, không trái ý ai”.

A Nan hỏi Phật: “Người này dọn lòng, muốn nghe giáo lý, sao làm trái ý?” Phật dạy: “Người ấy là bậc đại Bồ tát, lập tâm kiên cố. Xưa làm quốc vương, lòng ở không đều với đám thể nữ, những kẻ không gặp sủng ái cùng nhau giết vua. Vua sinh vào nhà thợ săn. Các thể nữ đều đọa làm muông thú. Nay trả hết tội rồi, sau sẽ thành tựu. Nếu giảng kinh cho người ấy, e lòng y sợ hãi, sẽ đọa vào đường la hán, nên không giảng kinh cho y”.


36
Xưa trong chùa Phật có vạc vàng dùng để nấu thức ăn cung cấp cho các sư. Bấy giờ có người phàm vào xem, thấy vạc vàng, muốn lấy cắp, nhưng không có cách. Bèn giả vờ làm sa môn. Mặc áo tu vào ở trong các sư, nghe vị thượng tọa giảng kinh, nói về các chứng yếu của tội phước sống chết, các bằng cớ của quả báo ảnh hưởng không thể thoát được. Kẻ cắp trong lòng hiểu ra, cảm thấy hổ thẹn hối hận, dọn lòng chuyên tâm thì thấy được dấu đạo. Nghĩ đến nguyên do thì “vạc là thầy ta”, bèn đặc biệt trước đến lạy chiếc vạc, đi quanh ba vòng, rồi tự nói hết đầy đủ cho các sa môn nghe.

Phàm việc giác ngộ mỗi người đều có lý do. Lòng chuyên nhất thì không thể nào không thấy sự thật.


37
Xưa có A Na Luật đã chứng la hán thì dung nhan ông trong chúng Tỳ kheo đẹp đẽ như người con gái. Lúc ấy ông đi một mình trong cỏ. Có một thanh niên ăn chơi thấy, cho là con gái. Lòng tà nổi mạnh, muốn đến cưỡng hiếp, thì biết là đàn ông. Trông lại mình, thân hình biến thành con gái. Bèn hổ thẹn uất ức, tự đày mình vào núi sâu, không dám về nhà.

Trải hơn mấy năm, vợ con nhà anh ta không biết sống chỗ nào, cho là đã chết mất, khóc lóc không yên. (Một hôm) A Na Luật đi khất thực, đến tới nhà ấy. Người vợ khóc lóc, tự kể việc chồng mình đi không về, mong phước lực bố thí khiến chồng được sống sót. A Na Luật mặc nhiên không đáp, lòng có niềm thương. Bèn đến trong núi, tìm gặp. Người ấy hối lỗi tự trách, thân hình trở lại thành đàn ông, bèn trở về nhà, gặp lại vợ con.

Phàm người đắc đạo thì không thể dùng ý ác đối với họ, nếu không, trở lại mình chịu tai họa.


38
Xưa có Tỳ kheo ngồi dưới gốc cây trống vắng hành đạo. Trên cây có một con khỉ, thấy Tỳ kheo ăn, nó tụt xuống đứng một bên. Tỳ kheo lấy cơm dư đem cho. Khỉ được ăn, bèn đi lấy nước dùng để tắm rửa. Như vậy cả tháng. Hôm sau ăn, bỗng quên không để cơm lại. Khỉ không được ăn, rất giận, lấy cà sa của Tỳ kheo đem lên cây, xé nát hết. Vị Tỳ kheo tức con vật đó, lấy gậy đánh, lỡ trúng rớt xuống đất. Khỉ liền chết. Mấy con khỉ khác cùng đến gào khóc, khiêng con khỉ chết đến trong chùa Phật. Chúng Tỳ kheo biết tất có lý do. Họ tập hợp các Tỳ kheo tìm hỏi ý nghĩa. Vị Tỳ kheo ấy kể lại đầy đủ sự thật. Từ đó, đặt quy định: “Từ nay trở đi, Tỳ kheo mỗi khi ăn phải cắt bớt phần ăn để lại cho các loài động vật, không được ăn hết”. Đàn việt dâng cơm bắt đầu từ đó.


39
Xưa có ba ba gặp mùa khô hạn, ao đầm cạn kiệt, không thể tự mình đi đến chỗ có ăn. Bấy giờ có con cò đến đậu một bên. Ba ba đến xin thương xót, mong được cứu giúp. Cò ngậm ba ba, bay qua trên kinh đô. Ba ba không im tiếng, lại hỏi: “Đây là đâu?”. Như vậy không ngưng. Cò bèn đáp. Khi đáp thì mở miệng, ba ba liền rớt xuống đất. Người ta bắt được, làm thịt ăn.

Phàm người ngu không suy nghĩ, không giữ miệng lưỡi thì cũng ví như vậy.

Xưa có vị sa môn bảo người anh cạo đầu. Cạo xong, người anh cúi đầu sát đất làm lễ nói: “Xin cho ta đời sau, tâm ý trong sạch, trí tuệ như nhà tu”. Nhà tu nói: “Mong ông trí tuệ hơn tôi”. Người ấy làm lễ mà đi. Sau chết sinh lên trời Đao Lợi. Hết sống trên trời lại thác xuống sinh làm con nhà giàu, sau được làm sa môn có trí tuệ, thấy được dấu đạo. Đó là do lòng thành mà có.


40
Xưa có Phạm chí đến xin quốc vuơng. Quốc vương định đi săn, bảo Phạm chí chờ trên điện đợi ta về. Rồi ra đi săn, đuổi theo muôn thú, lạc mất đám bề tôi. Tới trong hang núi thì gặp quỉ. Quỉ muốn ăn thịt. Vua nói: “Hãy nghe ta nói. Sáng nay tại trong cửa hành, ta gặp một nhà tu tới xin. Ta bảo chờ trên điện đợi về. Nên nay ta xin tạm trở về cho đồ nhà tu ấy, xong sẽ đến cho ăn thịt”. Quỉ nói: “Nay ta muốn ăn ông, mà ông há chịu trở lại ư?” Vua nói: “Lành thay! Thật không có người tin là ta đang nghĩ tới nhà tu ấy sao?” Quỉ liền thả vua đi. Vua về cung, đem đồ vật cho nhà tu, giao nước cho thái tử. Vua trở lại gặp quỉ. Quỉ thấy vua đến, cảm lòng chí thành của vua, lễ tạ không dám ăn.

Thầy nói: “Vua dùng một chữ thành, mà toàn mạng cứu nước, huống nữa là người hiền giả vâng giữ năm giới, bố thí hết lòng, thì phước ấy vô lượng”.


41
Xưa vua A Dục thường thích bố thí, dâng cơm sa môn, bảo thái tử tự mình múc dọn các món ăn. Thái tử thầm giận nói: “Đến khi ta làm vua, sẽ giết hết các thầy tu”. Nhà tu biết thái tử tức giận, gọi thái tử bảo: “Ta không còn ở lâu thế gian nữa”. Thái tử kinh ngạc nghĩ: “Nhà tu sáng suốt nên mới biết tâm ý ta như vậy”. Bèn liền nghĩ ngược lại: “Khi ta làm vua, sẽ cúng dường các nhà tu hơn cha ta”. Lòng bèn thanh thản, bỏ ác theo thiện. Nhà tu nói: “Đến khi Ngài làm vua thì tôi đã sinh lên trời”. Thái tử nói: “Thánh thay vị sa môn”. Sau lên làm vua, bèn dùng năm giới mười lành làm quốc chính, nước thành thái bình.


42
Xưa có nhà giàu lấy hai vợ. Vợ lớn hằng ngày đem cơm ngon cúng dường sa môn. Sa môn mỗi ngày đến lấy cơm. Vợ bé ghét cay. Hôm sau sa môn lại đến. Vợ bé liền lấy bát, đem đồ dơ bỏ trong bát, lấy cơm đặt lên trên, rồi trao bát lại cho sa môn. Sa môn đem đi, ở trong núi vừa định ăn, thấy đồ dơ, bèn đi rửa bát, sau không dám đến nữa. Từ đó trong miệng và thân thể vợ bé đều hôi. Người gặp đều chạy tránh. Sau chết đọa vào địa ngục phân sôi. Như vậy trải qua ba đường dữ mấy ngàn vạn năm, tội hết mới được làm người, thường muốn ăn phân, nếu không được thì bụng quặn đau. Sau làm vợ người ta, đêm dậy lén đi ăn phân. Như thế nhiều lần, chồng lấy làm lạ, bèn đi tìm xem, thấy vợ ăn phân. Do việc làm đời trước đưa tới.

Người có bốn việc khó được thành. Một là tháp. Hai là nhà ở cho chúng Tăng. Ba là dâng cơm cho chúng Tỳ kheo. Bốn là xuất gia làm sa môn. Làm được bốn việc đó thì phước nó vô lượng. Vì sao vậy? Ba cõi có lúc có. Đã được làm người, lại có của cải, hay nhổ được gốc bủn xỉn, bố thí đúng lúc, công nghiệp dựng thành, đó cũng là khó được. Có thể biết phước đó, chỉ đức Phật mà thôi.

Phật dạy: “Tỳ kheo không đem chuyện cơm ăn, mà gọi nhau là thân đạo. Chỉ đem kinh pháp răn dạy nhau mới là thân. Tỳ kheo đem chuyện ăn uống ngon ngọt dâng cúng nhau thì đời này Tỳ kheo có tiếng lành, nhưng đời sau không có gì đáp lại, mà đối đức Phật thì mắc lời dữ. Vì sao vậy? Ngoại đạo thấy Tỳ kheo sẽ nói: “Đệ tử Phật chỉ đem cơm ngon áo đẹp cho nhau. Ai dạy họ thế, chính là Phật”. Nên Phật mắc lời dữ. Tỳ kheo đem kinh giới đạo pháp mời dạy nhau, thì mới là rất thân hậu. Vì sao vậy? Ngoại đạo thấy Tỳ kheo, sẽ nói: “Đệ tử Phật chỉ đem kinh giới đạo pháp cho nhau, chứ không cho nhau gì khác”. Thì đối với Tỳ kheo đời này được tiếng lành, đời sau được giải thoát, còn đối với Phật thì có lời lành. Sao lại nói thế? Đức Phật là thầy của các Tỳ kheo, dạy đệ tử chỉ dùng kinh giới đạo pháp. Cho nên, không nhất thiết cho cơm ăn là ân huệ, mà chỉ đem lời lành cho nhau thôi.

Phật dạy: “Tỳ kheo nên biết đủ. Những gì là nên biết đủ? Ấy gọi là đi tìm một manh áo, một bữa ăn, thường ở chỗ kinh hành nghĩ tới điều không nghĩ, bên ngoài tìm cách ngừng lại không làm loạn ý. Đó là biết đủ. Nhưng cũng không nên kể biết đủ, ấy gọi là kinh giới cho đến được định bốn thiền và bốn không; bậc Tu đà hoàn, Tư đà hàm, thì chưa thể kể là biết đủ. Như thếø không nên kể là đủ”.


43
Có Tỳ kheo đi khất thực. Đứng giữa đường, thấy quá muốn tiểu, bèn đi tiểu. Người đi đường thấy, đều chê cười, nói: “Đệ tử Phật đi đứng có phép tắc, ăn mặc có oai nghi. Mà Tỳ kheo này đứng tiểu thì thật rất đáng chê cười”. Bấy giờ có ngoại đạo phái Ni Kiền Tử thấy người ta chê cười Tỳ kheo ấy, bèn tự nghĩ: “Chúng ta giòng Ni Kiền Tử, trần truồng mà đi không ai hỏi. Đệ tử Phật đứng tiểu thì người ta đều cười chê. Như vậy, thấy chúng ta không có phép tắc, nên người ta không cười. Chỉ riêng đệ tử Phật, phép tắc trong sạch, có lễ nghi, dễ cho người ta bàn tán vậy”. Bèn tự mình đi về chỗ Phật, xin làm sa môn, liền được quả Tu đà hoàn.

Tỳ kheo là thầy của mọi người, giống như sư tử là vua của các loài thú, nên ăn nói phải đúng phép, đi đứng nằm ngồi phải có oai nghi, để làm phép tắc cho mọi người, không được tự khinh. Tự khinh tự hủy mình là làm nhục tiên hiền.

Vua trời Đế Thích và đệ nhất Tứ thiên vương, vào ngày rằm ba lần xem thiên hạ ai trì giới, thấy ai trì giới liền vui mừng. Bấy giờ vào ngày rằm, vua trời Đế Thích ngồi tại chánh điện, tự nghĩ: “Thiên hạ nếu có ai ba lần ăn chay ngày rằm thì khi chết có thể được ngôi ta”. Các trời ngồi bên vô cùng kinh sợ, nói: “Chỉ ngày rằm ăn chay ba lần, mà được chỗ của Đế Thích ư?” Có Tỳ kheo đã chứng A la hán, biết tâm niệm của Đế Thích, bạch Phật, nói: “Há có thể đúng như lời Đế Thích nói chăng?” Phật dạy: “Lời Đế Thích nói, không thể tin, vì không nói thật. Sao vậy? Người tinh tấn ngày rằm ăn chay ba lần có thể độ được đời, sao chỉ vì ngôi của Đế Thích? Như thế là nói không thật, chưa đủ tin. Ai có thể biết được phước của việc trì trai, chỉ Phật mà thôi”.


44
Trong biển có rồng lớn. Rồng muốn làm mưa trên đất cõi Diêm phù đề, nhưng sợ đất không chịu được nước mưa. Ý rồng nghĩ: “Đất không chịu được ta làm mưa, thì ta về biển mình mà mưa”. Phật ban cho đệ tử oai đức rất lớn, muốn đem ban cho chín mươi sáu nhà ngoại đạo, nhưng sợ không thể chịu được. Nên đệ tử Phật dần dà tự ban cho nhau, giống như rồng tự trở về làm mưa trong biển mình.


45
Xưa có Phạm chí đã 120 tuổi. Trẻ không lấy vợ, không có lòng dâm, ở chốn núi sâu không người, dùng tranh làm nhà, lác làm chiếu, dùng nước suối trái rừng làm thức ăn uống, không chứa của cải. Vua mời không đến, lòng lặng ở chốn vô vi, ở trong núi đã mấy chục năm hơn (chỗ này nguyên bản viết chữ “thiên” là ngàn, nhưng so với truyện này trong Lục độ tập kinh, thì Lục độ tập kinh có chữ “thập”, chúng tôi cho chữ “thiên” là in sai của chữ “thập”, và dịch “chục”), ngày cùng cầm thú vui chơi. Có bốn con: Một là cáo. Hai là khỉ. Ba là rái. Bốn là thỏ. Bốn thú này hằng ngày ở chỗ tu nghe kinh dạy giới, như thế đã lâu, nên các trái rừng đã bị ăn sạch.

Sau nhà tu có ý muốn dời đi. Bốn con ấy rất buồn không vui, bèn cùng bàn nhau: “Chúng ta mỗi con đi tìm thức ăn để cúng dường nhà tu”. Khỉ đi đến một núi khác, lấy quả ngọt dâng nhà tu, xin ngưng đừng đi. Cáo cũng đi, hóa làm người xin ăn được một túi cơm khô, đem về dâng nhà tu có thể dùng làm lương thực cho một tháng, xin ở lại. Rái cũng lại xuống sông bắt cá lớn đem đến, để dâng nhà tu, đủ lượng một tháng, xin đừng đi. Thỏ tự nghĩ: “Ta sẽ có gì cúng dường nhà tu?” Rồi tự nghĩ: “Sẽ đem thân ta đến cúng dường”. Bèn đi lấy củi, đốt lửa để làm than, rồi đến thưa với nhà tu, nói: “Nay con là thỏ rất nhỏ bé, xin được vào nướng trong lửa, đem mình dâng nhà tu, có thể dùng làm lương thực một ngày”. Thỏ liền tự nhảy vào trong lửa, lửa vì vậy không cháy, nhà tu thấy thỏ, cảm nó nhân nghĩa, thương xót, bèn dừng ở lại.

Đức Phật nói: “Phạm chí lúc ấy là Phật Đề Hòa Kiệt. Thỏ lúc ấy là thân ta, Khỉ là Xá Lợi Phất, Cáo là A Nan, Rái là Mục Kiền Liên ấy vậy”.


46
Xưa có năm nhà tu cùng đi đường, gặp mưa tuyết, đến qua đêm trong một đền thần, trong đền có tượng thần, mà quan dân trong nước phụng thờ. Bốn người nói: “Đêm nay lạnh quá, có thể lấy tượng gỗ kia đốt để sưởi ấm”. Người còn lại nói: “Đó là tượng người ta thờ, không thể đem phá”. Bèn để lại không chẻ. Trong đền quỉ thường ăn thịt người. Chúng đang tụ nói chuyện với nhau: “Chính nên ăn người ấy vì người ấy sợ ta, còn bốn người kia dữ, không thể phạm được”. Người kêu ngưng không dám chẻ tượng, đêm nghe quỉ nói, thức dậy kêu bạn mình: “Sao không lấy chẻ tượng đó dùng để sưởi ấm”. Họ lấy đốt đi. Quỉ ăn thịt người bèn bỏ chạy.

Phàm người học đạo thường nên vững lòng, không thể khiếp nhược, để cho quỉ thần được tự tiện đối với con người.


47
Xưa có quốc vương bỏ nước đi làm sa môn, ở trong núi tịnh tu, lấy tranh làm nhà, lách làm chiếu, tự bảo là đắc chí, cười lớn nói: “Khoái thay!” Nhà tu ở gần bên hỏi: “Ngài khoái lạc, nay một mình ngồi trong núi học đạo thì có khoái lạc gì?”. Sa môn đáp: “Lúc ta làm vua lo nghĩ nhiều việc, hoặc sợ vua láng giềng cướp mất nước ta, sợ người cướp của cải ta, hoặc sợ ta vì người mà tham lợi, thường sợ đám bề tôi lợi dụng của báu của ta mà làm phản nghịch bất cứ lúc nào. Nay ta làm sa môn, người không tham lợi ta, khoái không thể nói. Vì thế, nói là khoái”.


48
Xưa có quốc vương rất thích đạo đức, thường đi nhiễu tháp trăm vòng. Chưa xong thì vua nước láng giềng đến đánh, muốn cướp nước ông. Bề tôi hầu hạ rất sợ hãi, liền đi báo vua, nói: “Có quân đến đánh, xin đại vương bỏ việc nhiễu tháp này, trở về quyền biến suy nghĩ để ngăn giặc dữ”. Vua nói: “Cho quân nó đến, ta quyết không bỏ”. Tâm ý như cũ, nhiễu tháp chưa xong thì quân giặc tan bỏ. Phàm người định ý nhất tâm, thì không gì là không diệt được.


49
Xưa có quốc vương, thường đi qua Phật làm lễ, không kể bùn mưa. Tôi hầu ghét, đem nói với nhau: “Vua nghĩ sao mà làm phiền toái quá”. Vua nghe được, trở về cung, ra lệnh cho hạ thần đi tìm một trăm đầu thú và một chiếc đầu người đem đến. Hạ thần tâu vua: “Đã đủ”. Vua sai bán ngoài chợ. Đầu thú thì mua hết, còn đầu người thì không ai mua. Hạ thần trình vua: “Bán một trăm đầu thú thì mua hết. Còn đầu người này hôi thối không ai mua”. Vua bèn nói với các thị thần: “Các người không hiểu. Trước đây ta qua chỗ Phật làm lễ Phật, các người nói: 'Ý vua phiền toái'. Bây giờ muốn biết thì đầu ta như đầu người chết kia dơ dáy, nên đem cầu phước có thể được sinh lên trời. Các người ngu si không biết trở lại nói phiền”. Thị thần tâu: “Thật đúng như đại vương nói”. Họ cúi đầu tạ lỗi: “Chúng thần ngu si không nghĩ tới”. Vua sau đó lại ra đi. Các bề tôi đều xuống ngựa làm lễ Phật, lấy vua làm khuôn mẫu.


50
Xưa có quốc vương đi chơi, mỗi khi thấy sa môn, bèn xuống xe làm lễ sa môn. Nhà tu nói: “Đại vương ngưng, đừng xuống xe nữa”. Vua nói: “Ta lên, chứ không xuống. Sở dĩ nói lên chứ không xuống, là vì nay ta làm lễ nhà tu thì sau khi chết rồi sẽ sinh lên trời, nên nói lên chứ không xuống”.


51
Xưa có người sau khi chết rồi, thần hồn trở về tự vuốt ve bộ xương cũ của nó. Người ở bên hỏi: “Người đã chết, sao lại còn vuốt ve bộ xương khô?” Thần hồn đáp: “Đó là thân xưa của tôi, thân không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, không tật đố, không sân hận, không si mê, sau khi chết được sinh lên trời, ước gì tự nhiên có, khoái lạc vô cùng. Cho nên yêu chuộng nó”.


52
Xưa nước ngoài có sa môn ở trong núi hành đạo. Có quỉ hóa ra làm người không đầu, đi đến trước mặt sa môn. Sa môn kêu nói: “Không có nỗi khổ của đau đầu. Mắt nhờ đầu thấy sắc, tai nhờ nghe tiếng, mũi nhờ biết thơm, miệng nhờ nhận mùi. Bây giờ hoàn toàn không đầu, một nỗi vui sao!” Quỉ lại đi mất, lại hóa người không mình, chỉ có tay chân. Sa môn nói: “Không mình, không biết đau ngứa, không ngũ tạng, không biết bệnh hoạn. Một nỗi vui sao!” Quỉ lại đi mất. Lại hóa làm người không tay chân, từ một mặt bánh xe đang chạy đến sa môn. Nhà tu nói: “Rất vui là không có tay chân thì không thể lấy của cải người khác. Vui xiết bao!” Quỉ nói: “Sa môn giữ tâm không động”. Quỉ bèn hóa là một thanh niên đẹp đẽ đến cúi đầu đảnh lễ nhà tu, nói: “Nhà tu giữ lòng vững nên mới như vậy. Nay nhà tu học đạo, không lâu nữa thì thành công”. Bèn cung kính cúi đầu đảnh lễ mà đi.


53
Xưa sa môn hành đạo trong núi, cởi áo lót rớt đất, bèn ngó phải trái, rồi từ từ lấy áo mặc lại. Thần núi hiện ra bảo nhà tu: “Ở đây không có người dân nào. Áo rớt đất, sao lại vội vàng mặc lại?” Sa môn nói: “Thần núi thấy ta, ta cũng tự thấy mình. Trên có mặt trời, mặt trăng, chư thiên thấy ta. Theo lẽ thì không thể để mình trần, mà không xấu hổ, là không phải đệ tử Phật”.


54
Xưa có sáu người làm bạn nhau đều đọa địa ngục, cùng ở trong một vạc, đều muốn kể tội mình. Một người nói sa. Người thứ hai nói na. Người thứ ba nói đặc. Người thứ tư nói thiệp. Người thứ năm nói cô. Người thứ sáu nói đà la. Phật thấy vậy, cười. Mục Kiền Liên hỏi Phật: “Vì sao vậy?” Phật nói: “Có sáu người làm bạn đều đoạ địa ngục cùng ở trong một vạc, mỗi người muốn kể lại tội mình, nhưng nước sôi sùng sục, không thể nói tiếp, mỗi người chỉ nói một chữ, rồi bị nhận chìm xuống lại. Người nói sa là sáu mươi ức vạn năm ở thế gian là một ngày ở địa ngục thì bao giờ mới hết được. Người thứ hai nói na là không có hạn, cũng không biết bao giờ mới được thoát. Người thứ ba nói đặc là khốn khốn, buôn bán để làm gì như vậy mà không thể ngăn lòng, cướp mất phần năm của nhà cúng dường Tam bảo, ngu tham không biết đủ, nay hối ích gì? Người thứ tư nói thiệp là nói buôn bán không chí thành, tài sản ta thuộc người khác, thành ra bị đau đớn. Người thứ năm nói cô là ai sẽ bảo lãnh ta ra khỏi địa ngục thì không còn phạm giới cấm, được sinh làm trời người sung sướng. Người thứ sáu nói đà la là việc đó gốc gác không được lòng tính toán, ví như người đánh xe lạc đường, đi vào đường tà, gãy trục xe, hối không còn kịp nữa”.


SAO BẢY TRUYỆN THÍ DỤ BẺ GÃY LA HÁN

55
Xưa đức Phật sai Xá Lợi Phất đi về phía Tây nước Trang Nghiêm của Phật Duy Vệ, hỏi đức Phật kia ba việc: “Thân thể Phật an ổn không? Thuyết pháp như thường không? Người nghe có tăng lên không?”

Xá Lợi Phất liền nhờ oai thần của Phật đi đến nước kia, nói lời như vậy. Đức Phật kia trả lời: “Tất cả đều an ổn”. Bấy giờ, đức Phật kia quay bánh xe Bất thối chuyển, để thuyết pháp cho Bồ tát của trụ thứ bảy. Xá Lợi Phất nghe, rồi từ nước ấy trở về, mặt mày rạng rỡ, đi đứng khác thường.

Đức Phật hỏi Xá Lợi Phất: “Con đến cõi kia về, sao đi đứng vui vẻ thế?” Xá Lợi Phất bạch Phật: “Ví như người nhà nghèo đói rét được trân báu như núi Tu Di, há không vui mừng sao?” Đức Phật nói: “Rất hay!” Xá Lợi Phất thưa: “Con đến cõi kia, được nghe đức Phật kia giảng điều bất thối chuyển sâu xa, nên con hớn hở không thể kìm chế”. Đức Phật nói: “Lành thay như lời con nói!” Đức Phật bèn bảo Xá Lợi Phất: “Ví như trưởng giả Đại Ca La Việt rặt lấy vàng tử ma và châu ma ni làm của báu, trong cho quét dọn đồng sắt chì thiếc quăng vào sọt phân ở ngoài. Có người nghèo kiết xác vui được mang về, nói: Ta được của báu của Đại Ca La Việt, thì đó há có phải là của báu trân diệu của trưởng giả chăng? Đáp: Chẳng phải”. Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: “Điều con nghe cũng giống như người nghèo ấy. Đức Phật kia chỉ dạy lẽ mười trụ và thanh tịnh trong hành động. Nên điều con nghe không đáng nói”. Xá Lợi Phất liền buồn bã, nói: “Ta tưởng được báu, ngược lại là chì thiếc”. Khi Xá Lợi Phất nói điều ấy, vô số người phát lòng giác ngộ vô thượng, vô số người đạt được trụ A duy nhan.


56
Xưa Ma Ha Mục Kiền Liên ngồi dưới gốc cây tự thử mắt đạo, thấy được 8000 cõi Phật. Lòng tự nghĩ nói: “Chỗ đức Như Lai thấy, còn không bằng ta”. Bèn làm dáng đi sư tử đến chỗ Phật. Đức Phật bảo Mục Liên: “Con là giống thanh văn, nay sao lại làm dáng đi sư tử?” Mục Liên bạch Phật: “Con tự thấy tám phương tám ngàn cõi Phật, nghĩ chỗ Phật thấy chắc không bằng con, nên làm dáng đi sư tử”. Đức Phật nói: “Lành thay Mục Liên! Chỗ thấy rộng lớn nên mới như vậy”. Đức Phật bèn bảo Mục Liên: “Chỗ thấy của ông giống như ánh sáng cây đèn so với viên ma ni vuông, cách nhau nhiều lắm”. Đức Phật nói tiếp: “Chỗ mắt ta thấy là mười phương, mỗi phương có cõi Phật như cát mười sông Hằng. Mỗi hạt cát là một cõi Phật, ta thấy hết tất cả những gì có trong đó, từ chuyện từ trời Đâu Suất xuống vào trong bụng mẹ, rồi sinh ra, chuyện xuất gia học đạo, chuyện hàng phục ma vương, chuyện trời Đế Thích và Phạm Vương đến khuyến trợ, chuyện chuyển pháp luân thuyết pháp cho hết thảy, chuyện muốn nhập Niết bàn, chuyện Niết bàn rồi đốt Xá lợi. Những chuyện như vậy không thể kể xiết. Ta mang con mắt đó thì là thấy hết cả”.

Đức Phật phóng hào quang giữa hai mi mắt chiếu suốt phương trên, phóng thân quang chiếu khắp tám phương, phóng túc quang chiếu thông phương dưới, mỗi phương một trăm ngàn cõi. Lúc ấy mười phương các cõi sáu lần rung chuyển. Ánh sáng vĩ đại không gì ngăn cản. Bấy giờ Mục Liên liền ở trước Phật, thấy vô số hằng sa vô biên cõi, trong đó có những gì Phật đã nói trên, bèn bạch Phật: “Phật ban nãy nói ra mười hằng sa cõi, nay Phật hiện ra có phải thế không?” Đức Phật bảo Mục Liên: “Sợ con không tin, nên nói ít. Nay ta hiện ra như vậy, so lại thì không thể kể hết”.

Ma Ha Mục Kiền Liên nghe nói việc ấy rồi, mình xỉu xuống đất như núi lớn vỡ, lên tiếng khóc lớn: “Ta nhờ biết Phật có công đức ấy, nay mới thấy như vậy, há khiến thân ta đọa địa ngục lớn”. Người thấy bên hông phải thì qua trăm kiếp không nhận quả la hán. Mục Liên bèn nói: “Những ai ở hội này, đức Thế Tôn đều nói ta là thần thông số một. Điều ấy không còn đáng nói nữa. Công đức làm được, không bì kịp (đức Phật về sự) biết điều đó, huống nữa là chưa được gì cả sao? Phát tâm làm gì, nên có chí như Phật, chứ đừng bắt chước ta thành ra giống hư”. Tất cả những người dự hội, rồng thần nhân dân, số ngàn không thể kể, đều phát lòng vô thượng chánh đẳng chiùnh giác. Những ai phát lòng đạo lớn liền được bất thối chuyển. Những ai đã được bất thối chuyển thì thảy đạt được trụ A duy nhan.


57
Xưa có vua rồng, tên là Bạt Để, oai thần rộng xa, nhiều người cảm phục. Nhưng tính tình nóng nảy, làm nhiều điều bạo ngược, nhiều lần họp rồng, cùng làm chuyện phi pháp, mưa gió sấm sét đánh chết nhân dân chim thú côn trùng, nhiều không số kể. Có một la hán đáng kính, cùng tự bàn luận: “Nếu giết một người thì đọa địa ngục một kiếp, chết đến trăm lần, tội còn không hết. Nay rồng này tàn hại chúng sinh, trước sau khôn kể, thế mà không ngưng, sợ thành khó độ, mong nên cùng đến can ngăn”. Bấy giờ, đức Phật biết vậy, có lời khen: “Lành thay! Các con xuất gia cầu đạo vô vi, muốn cứu hết thảy chúng sinh nguy ách, độ cho người có tội, rất tốt, nên thế, đó là báo ơn”.

Bấy giờ, các la hán bảo nhau: “Không cần phải khiến cả vạn người cùng đi”. Do đó, mỗi một người tự đi, đều bị ách lại, không thể tự tiến lên, về nói nhau: “Nếu đi riêng thì không thể hàng phục khuất chiết con rồng này, khiến nó cải làm lành. Nên thử tập hợp công đức của muôn người, đồng lúc cùng đi”. Họ lại đến. Rồng phóng gió mưa bão sấm sét. Muôn người kinh sợ, không biết đi đâu, lại bị làm nhục, cúi đầu trở về.

A Nan bạch Phật: “Rồng này tàn sát người và các súc thú đến thế, tội nó rất nhiều, đã không kể hết. Nay lại làm thêm bão tố kinh sợ muôn la hán, làm ướt áo họ giống như người chết trôi, thì tội lại sâu nặng, không thể kể xiết!”. Bấy giờ đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật cùng với muôn Bồ tát và vạn la hán, đi đến núi kia, tới chỗ rồng ở.

Rồng bèn giận dữ, gây mưa lớn sấm vang, sét xẹt. Bèn làm mưa đá, khiến mỗi viên vuông vức bốn mươi dặm, nếu xuống đất thì vào sâu bốn thước, ý muốn hại Phật và chúng Bồ tát. Bấy giờ mưa đá vừa xuống, thì dừng lại giữa không trung, hóa thành hoa trời. Đức Phật phóng hào quang chiếu khắp những gì đang có. Những người thợ săn, đi đường trong núi, gặp mây mưa tối tăm, bị lạc đường không biết đông tây, gom hơn vạn người, đều nhắm theo ánh hào quang mà đến chỗ Phật ở. Rồng lại sấm sét, phóng xuống đá lớn vuông bốn mươi trượng. Nếu đá rơi xuống đất, lún sâu vào đất phải bốn mươi trượng. Đá rớt đến trên đầu Phật lại hợp với hoa trước hóa thành lọng hoa. Rồng nhỏ phóng đá, mỗi viên một trượng, cũng đều như vậy. Các vị la hán trước thấy rồng gây tai biến, mỗi người đều cảm thấy sợ hãi, đi đến trước để dựa gần Phật.

Rồng ở trong mây tự thấy mưa đá và đá hóa thành lọng hoa, lửng lơ giữa hư không mà không rơi xuống, lại tự nghĩ nói: “Ta phải đem thân mình, tự cuốn chắc lại tới bốn mươi trượng để phủ lên trên Phật và chúng tăng”. Bèn tức khắc tự quăng mình, nhưng không thể trúng gì hết, cả mình đau đớn, rớt xuống đất rất lâu, ngẩng đầu, mở mắt, ngó lên thì thấy Phật, (tự nghĩ): “Việc ta làm đều không như ý, nghi đó là người thần vô thượng tôn diệu”. Nhân đó, các rồng nhỏ cũng đến quăng mình, nhưng không động đậy được một chút gì. Lúc ấy, vua rồng hết số, sinh lên làm trời. Các rồng nhỏ cũng chết theo, được làm con trời, đều hạ xuống đứng bên Phật.

Đức Phật hỏi A Nan: “Con biết vị trời này từ đâu đến không?” Đáp: “Không biết kịp”. Đức Phật dạy: “Các rồng ban nãy nổi ác ý, con có nói tội lớn không thể kể xiết. Tự quăng mình xuống đất, phát được một lòng thiện, biết Phật là đáng kính, thì khi chết làm trời. Chuyện đó chính là đây”. Vị trời nghe Phật nói, bèn cùng với các con trời đều phát lòng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bấy giờ thợ săn và những người ở trong núi đến chỗ Phật, đều tự nghĩ nói: “Tội của con rồng đó còn được giải thoát. Chỗ ta làm hại so với rồng đó cũng không bao nhiêu”. Họ định phát tâm đạo, nhưng còn do dự.

Đức Phật bảo A Nan: “Một vạn la hán ấy muốn độ các tội của rồng, nhưng sức không thể gánh nổi. Nếu không có ta thì đã bị rồng chế ngự. Đã không thể độ được cái ác của nó, mà trở lại làm tội nó thêm lên. Muốn độ hết thảy, nên trước phải thiền định suy nghĩ có thể độ được hay không, sau đó mới làm. Người các con không thể độ, đức Như Lai có thể độ, độ mà không độ”. Bấy giờ những người thợ săn nghe nói như vậy, đều phát lòng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trời rồng nhân dân những ai ở tại hội này được Phật giảng kinh, đều được bất thối chuyển.

Xưa vua rồng Bạt Để với Phật Thích Ca Văn đều là Bà la môn. Lúc ấy, đệ tử của Bạt Để có tới vạn người, thấy đức Thích Ca Văn là nhân tài, họ mạnh mẽ bỏ thầy mình đến thờ đức Thích Ca Văn. Bạt Để lòng giận, mang tội đến làm rồng. Đức Phật đã thành đạo, phần lớn độ hết thảy. Đệ tử muôn người đều chứng la hán. Lòng ác của rồng càng lớn rộng, muốn làm hại. Muôn người kia xót thương, muốn đến độ. Rồng từng làm thầy, nên bốn đạo tuy đủ, họ vẫn bị nhục. Nếu là Bồ tát, rồng muốn gia ác, rốt cuộc cũng không dám.


58
Xưa có một nước, nhân dân thịnh vượng, trai gái lớn nhỏ, rộng làm việc ác, tính hạnh ngang ngược, hung bạo khó dạy. Phật đem đệ tử đến nước láng giềng. Năm trăm la hán, lòng tự cống cao. Ma Ha Mục Kiền Liên đến trước bạch Phật nói: “Con muốn đi độ các nhân dân”. Đức Phật liền đồng ý. Mục Kiền Liên bèn đến giảng kinh đạo, nói nên làm điều lành, nếu làm các điều ác thì tội khó lường. Người cả một nước đều cùng đánh chửi, không theo lời dạy. Do đó, bèn trở về.

Xá Lợi Phất bảo Mục Kiền Liên: “Muốn dạy các người đó, phải dùng trí tuệ, không thì sao bị hủy báng?” Xá Lợi Phất bèn bạch Phật: “Con muốn đến kia khuyên độ nhân dân”. Đức Phật lại đồng ý. Bèn đến giảng dạy kinh giới, lại không được nghe theo, mà còn bị nhục mạ.

Ma Ha Ca Diếp với các đệ tử đáng kính hợp lại năm trăm người tuần tự đi đến, cũng không thể độ được, mà lại bị khinh hủy.

A Nan bạch Phật: “Người nước kia hung dữ, không nhận lời dạy lành, phần lớn bị họ bẻ gãy làm nhục. Làm nhục một la hán, tội nó khôn tả, huống nữa là làm trái lời dạy của chừng ấy người thì mắc tội nặng hư không cũng không thể chứa”. Đức Phật dạy: “Tội ấy tuy là sâu nặng, Bồ tát xem đó vắng lặng, không có tội”.

Đức Phật sai Văn Thù Sư Lợi đến độ thoát họ. Văn Thù liền đến nước đó. Ai nấy đều ca ngợi, nói: “Việc làm của hiền giả, sao mà nhanh thế!” Bèn đến chỗ vua, vua khen ngợi trước mặt, mỗi khiến mọi người lớn nhỏ đều nghe biết, nói: “Tôi dũng kiện, tôi lại nhân hiếu, tôi có can đảm và trí tuệ”. Tùy mỗi chỗ họ ở, ưng ý ca ngợi, đều vui mừng khôn xiết, nói: “Điều con người vĩ đại này nói rất thần diệu, biết chí tháo của ta, sao thích thú thế!” Họ mỗi người mang vàng báu hương hoa, tung lên trên Bồ tát, đem áo gấm đẹp đôi có thêu hoa và những thức ăn uống ngon lành, ngọt ngào đến cúng dường Bồ tát, phát lòng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi bảo nhân dân: “Ngươi cúng dường ta không bằng cúng dường thầy ta, thầy ta gọi là Phật, có thể đến cùng cúng, phước gấp vô lượng”. Hết thảy họ rất vui lòng theo Văn Thù Sư Lợi đi đến chỗ Phật. Phật giảng kinh cho họ thì đều được bất thối chuyển. Ba ngàn quốc độ vì thế rung chuyển lớn. Núi rừng cây cối đều ca ngợi nói: “Hoan hô Văn Thù Sư Lợi khéo độ người như vậy”.

Đức Phật bảo A Nan: “Tội sâu lớn nay đang còn đấy”. Năm trăm la hán xỉu xuống đất, rơi lệ nói: “Oai thần của Bồ tát dạy dỗ như vậy, huống nữa là đức Như Lai có thể kể tả hết sao? Chúng ta là giống hư, vô ích đối với hết thảy”.


59
Xưa lúc đức Phật ngồi dưới gốc cây, đức Phật đã thuyết pháp cho vô số người, trong đó có người chứng Tu đà hoàn, có người chứng Tư đà hàm, có người chứng A na hàm, có người chứng A la hán. Những người như vậy, số không thể kể hết. Bấy giờ sắc mặt Phật không có rạng rỡ, dáng vẻ như buồn. A Nan sâu biết ý Phật, quỳ xuống bạch Phật: “Lễ hầu Phật tám năm, con chưa từng thấy tôn nhan Phật không có rạng rỡ như hôm nay. Có thay đổi gì khiến Phật như vậy? Hôm nay có ai mất đại hạnh? Có ai làm ác đọa địa ngục? Có ai rời xa bờ gốc của mình?”

Đức Phật bảo A Nan: “Ví như khách buôn phần nhiều mang trân báu đến số ngàn muôn, đi xa cầu lời. Giữa đường gặp cướp, mất sạch của báu, thân thể trần truồng, không có gì để tự sống. Thế có buồn lo không?” A Nan bạch Phật: “Họ buồn ghê lắm”. Đức Phật bảo A Nan: “Ta từ vô số kiếp đến nay, thương khó hành đạo, là muốn cứu độ hết thảy nhân dân, đều khiến thành Phật. Ta nay đã tự mình được thành Phật, mà không có một người nào làm công đức, nên không vui, sắc mặt thay đổi”. A Nan bạch Phật: “Nay đệ tử Phật chứng được la hán trong quá khứ, hiện tại và tương lai, số không thể kể xiết. Số người chứng A na hàm, Tư đà hàm, Tu đà hoàn cũng vậy, không thể kể. Sao nói không có người nhờ công đức để được độ?” Đức Phật bảo A Nan: “Ví như hai ông bà già sinh mười đứa con gái thì có đứa nào nắm giữ việc cửa nhà không?” A Nan đáp: “Không thể có”. Đức Phật dạy: “Tuy có la hán vô số ngàn nhờ giác pháp của ta mà sinh ra, thì cũng chẳng phải con ta, rồi cũng không thể ngồi dưới gốc cây của Phật, giống như sinh con gái tuy đông nhiều, đi lấy chồng đến nhà người, thì cha mẹ cô độc. Ta cũng vậy”.

Bấy giờ đức Phật khóc, rơi xuống ba giọt nước mắt. Ba ngàn thế giới vì thế rung chuyển lớn. Vô số trời, rồng, thần, nhân dân phát lòng giác ngộ vô thượng. Lúc ấy mặt mày Phật đẹp đẽ vui vẻ, vô số ánh sáng ngàn ức muôn lần chiếu suốt mười phương, khác hơn lệ thường. Những ai thấy ánh sáng đều được độ. A Nan bạch Phật: “Vì sao lại phát ra ánh sáng thần biến đẹp đẽ tuyệt vời như thế?”. Đức Phật bảo A Nan: “Ví như hai ông bà già, cầu trời khẩn đất cầu xin sinh con, cuối cùng sinh được một đứa con trai gầy dựng cửa nhà, há không vui vẻ mà tự khen mình sao? Nay hết thảy phát lòng Đại thừa, nên ta hớn hở vì giống Phật không mất”.

Đức Phật sai Bồ tát Tu Ma Đề lên kinh đô qua sáu muôn ức hằng sa cõi, khiến đến nước kia lấy tòa sư tử và các đồ ăn uống. Như duỗi cánh tay, trong khoảnh khắc đã trở về lại đây. Bèn trang hoàng tòa sư tử rộng lớn, mời tất cả những ai dự hội đã phát lòng giác ngộ vô thượng đều ngồi tự nhiên lên tòa sư tử ngàn cánh sen vàng. Có những người ngồi trong trướng bảy báu kết hở và dưới gốc cây bảy báu, thì đựng tràng phan bảy báu làm cột, gấm trời làm phan, lụa trời làm lọng hoa. Đức Phật bấy giờ khiến đại thiên cõi nước thành hồ tắm, hoa sen bảy báu mọc bên trong. Đức Phật tự biến thân, hiện làm Bồ tát, hoặc lại hiện hình như Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, cúng dường rộng rãi cho đại đàn hết thảy muôn thức ăn uống thơm ngon nghe khắp hết thảy mười phương. Những ai nghe mùi thơm ấy đều phát lòng giác ngộ vô thượng. Các cõi mỗi sai Bồ tát tả hữu đáng kính đến chúc mừng đức Thích Ca Văn, vì tất cả nhân dân phần lớn đã phát tâm Bồ tát. Trong đó có vị cầm hoa sen vàng ròng đến, có vị cầm hoa sen báu ma ni đến, có vị cầm hoa sen châu minh nguyệt đến, mỗi mỗi hoa sen nhiều màu quí báu, cùng tung rải lên đức Phật. Oai thần của Phật khiến các hoa tung lên hợp thành lọng hoa che khắp mười phương cùng chiếu các cõi, những chỗ tối tăm trở nên sáng sủa. Địa ngục, quỉ đói, cầm thú, lục súc đều phát lòng lớn, muốn cầu làm Phật.

Đức Phật vì tất cả những người dự hội giảng kinh. Vô số Bồ tát chứng trụ A duy nhan. Vô số trời người đều được phép nhẫn vô sinh. Lại vô số rồng, thần, nhân dân đều được bất thối chuyển. Tất cả Bồ tát, người vĩ đại đều phát tâm giác ngộ vô thượng.


60
Xưa có một người, tuổi nhỏ nghèo khổ, đi đến nước khác, được một trái ngọt, thơm ngon lại to, ở đời hiếm có. Bèn thương tiếc, không dám ăn. Lòng nghĩ đến cha mẹ, muốn đem trái dâng, liền mang trái trở về thành Tỳ Da Ly.

Bấy giờ đức Phật vào thành với các Bồ tát đại đệ tử, cùng đến nhà trưởng giả, theo lời mời đàn việt. Đức Phật vừa đi qua, người ấy chưa đến nhà, tay đem quả đến để ở chỗ Phật. Từ nhỏ tới lớn chưa từng nghe Phật, thấy vết chân Phật, dấu chân như lọng, rực rỡ long lanh không chút suy giảm, bèn đứng bên vết chân, nhìn mãi không chán, lòng tự hớn hở, hết buồn biết vui, nghĩ: “Vết chân đi đất còn như thế, huống nữa thân người này thì thật chẳng phải đời có được. Chắc thế nào người này tất phải trở về, ta sẽ cắt để phần cha mẹ lại, rồi đợi người ấy đến, đem trái dâng lên”.

Đức Phật chưa trở về. Người ngồi bên vết chân, buồn nghĩ lệ rơi. Người đi đường đến hỏi người ấy: “Vì sao ôm trái ngồi buồn ở đây?” Đáp: “Giữ vết chân vô cùng đáng kính này, đợi chờ thần nhân, mong ngài trở lại, muốn đem trái đó tự dâng lên, trễ thấy quang nhan, chưa được như nguyện, tự nghĩ bạc phước, nên buồn”. Kẻ đi đường hỏi, tụ lại xem như mây, lấy làm lạ người đó, cho là cuồng si, nói: “Biết người đi trở về chỗ nào mà định ngồi đợi?”

Đức Phật đến nhà trưởng giả đàn việt ngồi. Chúng tăng rửa xong, tuần tự đến ngồi. Trưởng giả và thủ hạ lớn nhỏ đem bày chén dĩa với các thức ăn, tất cả đầy đủ. Phật xa “đạt thẩn” kẻ đang mang trái cây giữ chân Phật ở giữa đường tha thiết mong muốn dâng Phật. Do thế, ăn xong, đàn việt tự nghĩ: “Đức Thế Tôn 'đạt thẩn', ban nãy không thấy kịp. Liền xa chú nguyện người mang quả ở ngoài đem đồ cúng đến, có gì không được ư?”

Đức Phật bảo A Nan: “Trưởng giả cúng dường đầy đủ, nhưng phước ra đi. Việc làm tuy rộng lớn, nhưng ý có chỗ mong cầu. Lòng mang bốn sợ, chí tại diệt độ. Bên ngoài có người trẻ tuổi, tay cầm trái ngọt, một lòng không gì khác, giữ vết chân ta, từ bi đợi ta, nghĩ muốn dâng trái dùng cho tất cả, nên phát lòng đạo lớn. Do thế, ngồi đây mà xa nhận “đạt thẩn”. Trưởng giả tự nghĩ, nói: “Người ấy cúng trái cây chứ không có món gì khác, Phật ca ngợi công đức rất là cao diệu. Ta tuy giàu có, đồ cúng phong phú, vì tính toán nặng nhẹ nên phước không bằng. Nguyện xin hầu Phật đến gặp người kia”.

Đức Phật liền đứng dậy, đến chỗ người giữ vết chân. Bồ tát, đệ tử, trưởng giả cùng những người khác lúc ấy cùng theo. Người mang trái cây xa thấy Phật đến, tướng thân đẹp đẽ, rực rỡ hơn trời trăng, liền đi đến đón Phật, cúi đầu làm lễ, nhân đó đem trái ấy quì xuống dâng Phật, phát lòng giác ngộ vô thượng.

Đức Phật phóng hào quang chiếu suốt vô cùng. Ba ngàn thế giới vì thế rung chuyển. Chư Phật và chư Bồ tát mười phương lúc ấy hiện ra như bóng trong gương, gần xa ai ai cũng thấy. Đức Phật nhận trái ấy, lại đem cúng lại cho các đức Phật, khiến một trái cây biến khắp vô cùng không hết.

Chư Phật và các Bồ tát mười phương mỗi mỗi từ nơi cà sa duỗi cánh tay vàng rực rỡ phóng ra ngàn ức tia sáng. Mỗi một đầu tia sáng tự nhiên có tòa sư tử có màn kết hở châu hoa sen báu. Trên tòa có đức Phật và các Bồ tát ngồi, đều cầm bát báu, nhận lấy trái ấy. Mỗi vị cầm một quả “đạt thẩn” một cách thần biến. Đức Phật Thích Ca Văn cũng thế, ở thế giới này chiếu sáng mười phương, hư không thần trời tất cả đầy đủ, tám phương trên dưới không có chỗ trống khuyết, đều giúp vui, khen lành, ca ngợi. Chư Bồ tát trong ba cõi đều được theo nhờ.

Bấy giờ, người dâng trái cây chứng được pháp nhẫn vô sinh. Đức Phật trao lời quyết là về sau sẽ thành Phật, hiệu là Quả Tôn Vương vô thượng chính giác, có cõi nước như cõi của Phật A Di Đà. Người ấy theo nghe đức Thế Tôn nói về cõi nước đó, tự nhiên thanh tịnh, chứng được A duy nhan. Trưởng giả cư sĩ hướng theo dấu đạo, vô số ngàn người được độ bậc bất thối chuyển. Đức của Ngài như vậy.


61
Xưa đức Phật đi lên cõi trời Đao Lợi thứ hai để giảng kinh cho mẹ. Bấy giờ có một vị trời mạng sống sắp hết, có bảy việc chứng điềm: “Một là ánh sáng quanh cổ tắt; Hai là hoa trang sức trên đầu héo; Ba là sắc mặt thay đổi; Bốn là trên áo có bụi; Năm là dưới nách ra mồ hôi. Sáu là thân hình gầy ốm; Bảy là rời chỗ ngồi. Liền tự nghĩ: Sau khi thọ chung, phải bỏ thiên tòa, cung điện bảy báu, ao hồ vườn quả, ăn uống tự nhiên, mọi thứ ca kỹ nữ nhạc, lại phải hạ sinh làm con trong bụng heo nái phung hủi ở nước Câu Di Na Kiệt. Bèn rất lo, không biết phải làm cách gì để thoát được tội đó”.

Có một vị trời nói: “Nay đức Phật ở đây giảng kinh cho mẹ Đức Phật, cứu hết thảy trong ba đời. Chỉ đức Phật mới cứu được tội ông”. Bèn đến chỗ Phật cúi đầu làm lễ. Chưa kịp hỏi, đức Phật đã bảo vị con trời: “Tất cả vạn vật đều vô thường, ông vốn biết điều đó, sao còn lo sầu?” Vị trời bạch Phật: “Tuy biết phước trời không thể được lâu, giận là phải rời ngôi trời này mà làm heo con của con nái phung hủi, cho đó là hại, chứ đi nhận thân khác thì không dám e sợ”. Đức Phật dạy: “Muốn thoát thân heo con, thì nên đọc ba trợ qui: Nam mô Pháp, nam mô Tỳ kheo tăng, Quy mạng Phật, quy mạng Pháp, quy mạng Tỳ kheo tăng, như vậy mỗi ngày ba lần”.

Vị trời theo lời Phật dạy, ngày đêm đọc ba qui y. Sau đó bảy ngày vị trời thọ chung, xuống sinh làm con nhà trưởng giả nước Tỳ Da Ly. Khi còn trong thai mẹ hằng ngày đọc ba qui y. Mới sinh rớt xuống đất cũng quì đọc ba qui y. Người mẹ khi sinh không có đồ dơ. Người hầu cạnh mẹ sợ hãi bỏ chạy. Bà mẹ cũng rất lấy làm lạ việc con rớt đất đã nói, cho là huyền hoặc, ý muốn giết đi.

Lúc về bà tự nghĩ: “Con nhỏ ta lạ lùng. Nếu giết bé này cha nó sẽ làm tội ta. Từ từ nói với trưởng giả, rồi giết cũng chẳng muộn”. Người mẹ liền ôm đứa bé, đến nói với trưởng giả: “Sinh được một trai, mới vừa rớt đất, đã chắp tay quì xuống qui y Tam Bảo”. Cả nhà lấy làm lạ, cho đó huyễn hoặc. Người cha nói: “Đừng, đừng! Đó là đứa bé phi phàm. Người ta ở đời sống tới trăm tuổi hoặc tám chín muơi, mà còn không biết qui y Tam Bảo. Huống nữa đứa bé mới sinh ra là có thể niệm Nam mô Phật. Hãy khéo chăm nuôi nó, cẩn thận đừng khinh nhờn”.

Đứa bé lớn lên, năm vừa bảy tuổi cùng bọn trẻ chơi bên vệ đường. Bấy giờ đệ tử Phật là Xá Lợi Phất và Ma Ha Mục Kiền Liên vừa đi qua bên bé, nó liền đến trước mặt làm lễ nói: “Kính lễ đức Xá Lợi Phất và đức Ma Ha Mục Kiền Liên”. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên kinh ngạc lấy làm lạ về việc đứa bé có thể kính lễ Tỳ kheo. Đứa bé nói: “Thầy không biết con sao? Đức Phật ở trên trời giảng kinh cho mẹ. Con bấy giờ là một vị trời sắp xuống làm heo, theo lời Phật dạy, đọc ba qui y, mà được làm người”. Hai thầy Tỳ kheo liền thiền định, tìm biết, bèn chú nguyện nói “Hoan hỷ”.

Đứa bé thưa với Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên: “Xin nhân danh tiếng con, mời đức Thế Tôn, chư Bồ tát tăng và hai nhân giả”. Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất đồng ý nhận lời. Đứa bé trở về nhà thưa với cha mẹ: “Ban nãy con đi chơi gặp hai đệ tử Phật đi qua, nhân đó con mời Phật và bốn chúng đệ tử Phật dâng cơm. Xin cha mẹ sửa soạn đồ ngon ngọt”. Cha mẹ thương yêu, làm theo lời xin, lấy làm lạ việc nó nhỏ tuổi, mà khai mở được lòng lớn, lại lấy làm lạ việc nói biết đời trước, nên làm những món ăn cực kỳ trân diệu, tìm chén dĩa tinh tế, vượt quá ý của đứa bé.

Đức Phật và chúng tăng, mỗi vị dùng công đức làm thần túc, đi đến nhà đứa bé ăn cơm. Cha mẹ và những người lớn nhỏ cúng dường xong, dâng nước rửa thơm, đúng pháp làm xong, đức Phật vì họ giảng kinh. Cha mẹ và đứa bé cùng thân thuộc trong ngoài lúc ấy đều được bất thối chuyển.

Phước đức của việc qui y độ được như vậy. Huống nữa là suốt đời tu đạo sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567