Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 2: Phương tiện

06/05/201318:39(Xem: 9537)
Phẩm 2: Phương tiện

Pháp Hoa Kinh

Phẩm 2: Phương tiện

Pháp sư Thích Từ Thông

Nguồn: Thâm Nghĩa Đề Cương (Giáo án Cao Cấp Phật Học)

Bấy giờ đức Thế Tôn xuất định bảo Xá Lợi Phất: Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bích Chi Phật không thể biết được. Bởi vì trí tuệ đó là kết quả của quá trình gần gũi vô số chư Phật, tu hành vô lượng đạo pháp viên mãn, dũng mãnh tinh tấn. Trí tuệ và sự hiểu biết sâu xa chưa từng có của Phật, giáo hóa theo thời, tùy cơ nói pháp ý thú khó lường.

Xá Lợi Phất! Sau khi thành Phật Như Lai vận dụng nói nhiều thí dụ, phân tích các thứ nhân duyên, diễn bày nhiều ngôn giáo, linh hoạt trong vô số phương tiện dẫn dắt chúng sanh khiến cho xa lìa lòng chấp. Như Lai là bậc đầy đủ tri kiến và các Ba la mật. Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa. Tứ vô ngại trí, thập trí lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội sâu thẩm và mênh mông không ngằn mé.

Như Lai tùy thời phân biệt khéo nói pháp, lời lẽ đẹp, đáp ứng sở thích của nhiều hạng căn cơ.

Nhưng thôi đi! Xá Lợi Phất! Không cần nói nữa!

Bởi vì pháp ít có và khó hiểu bậc nhất mà Phật có, pháp đó chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết thấu tột "Thật tướng". Rằng:

"Các pháp:Tướng của nó như vậy.
Tánh của nó như vậy.
Thể của nó như vậy.
Lực của nó như vậy.
Tác của nó như vậy.
Nhơn của nó như vậy.
Duyên của nó như vậy.
Quả của nó như vậy.
Báo của nó như vậy.
và từ đầu chí cuối của nó như vậy.

Bấy giờ có một số Thanh văn, Duyên giác, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ những người phát tâm tiểu thừa đều có cùng ý nghĩ rằng: Lạ thật! Cớ chi hôm nay đức Phật tán thán pháp của Phật chứng đắc cao sâu, khó nghe, khó hiểu....nào là Như Lai phương tiện nói pháp khéo léo, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể hiểu được....!

Tại sao Như Lai nói thế! Từ lâu đức Phật dạy chúng ta pháp tu giải thoát, chúng ta đã chứng đắc Niết bàn rồi. Cớ chi hôm nay đức Phật như có ý chê trách những điều tu học và chứng đắc của hàng Thanh văn, Duyên giác bấy lâu nay!

Ông Xá Lợi Phất cảm thông ý của đại chúng cũng như nỗi lòng hoang mang của chính mình, bèn thưa hỏi Phật:

Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì hôm nay Thế Tôn ngợi khen pháp phương tiện nhiệm mầu sâu xa khó hiểu của chư Phật ? Hiện giờ bốn chúng có lòng nghi, xin Như Lai dạy rõ về duyên cớ ấy!

Phật bảo: Xá Lợi Phất! Thôi! Thôi đi! Đừng hỏi việc đó. Nói việc đó ra thì tất cả người, trời, A tu la ở trong đời đều sẽ kinh sợ và nghi ngờ, không tốt.

Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa, xin Thế Tôn nói cho. Trong hải hội nầy có người lãnh hội được lời dạy của Phật và có thể đủ sức kính tin.

Đức Phật lại khuyên ngăn: Rằng nếu nói việc đó thì người, trời, A tu la đều kinh nghi, Tỳ kheo, tăng thượng mạn sẽ sa vào hầm tội lỗi.

Ông Xá Lợi Phất lại ân cần cầu xin Phật rủ lòng thương....

Sau ba lần cầu thỉnh thiết tha của ông Xá Lợi Phất, đức Phật vừa hứ khả, tức thì trong hải hội có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, cả thảy năm ngàn người đứng dậy bái Phật, xin được rút lui.

Đức Thế Tôn an nhiên, không ngăn cản và bảo ông Xá Lợi Phất: Rằng trong đại chúng giờ đây không còn những trái đèo hạt lép mà chỉ còn toàn trái tốt và hạt chắc.

Xá Lợi Phất! Những hạng người tăng thượng mạn như vậy, lui đi vẫn tốt. Vậy ông lắng ý mà nghe, Như Lai sẽ nói về sự nhiệm mầu khó nghe, khó hiểu. Và Như Lai cũng nói cho ông biết lý do của sự có mặt của Như Lai trong cõi đời nầy.

Này! Xá Lợi Phất! Pháp mầu sâu thẩm của chư Phật, đúng thời mới đem ra nói. Như hoa Linh thoại đến thời tiết mới trổ một lần.

Xá Lợi Phất! Chư Phật thuyết pháp phải đúng thời, tùy đối tượng, hợp căn cơ cho mỗi người, mỗi lúc khác nhau. Vì vậy, pháp của chư Phật nói khó nghe, khó hiểu, vì ý thú rất nhiệm mầu, Chư Như Lai vận dụng vô số phương tiện, giảng nhiều cách, dẫn nhiều tỉ dụ, thay đổi ngôn từ, lời lẽ khéo léo, đáp ứng cho mọi hạng người. Vì vậy mà pháp Phật nói không thể suy lường phân biệt hời hợt thông thường mà có thể hiểu được. Chỉ có Phật và Phật mới thấu hiểu hết ý của nhau.

Xá Lợi Phất ơi! Ông làm sao hiểu được cái lý do cực kỳ quan trọng mà các đức Phật xuất hiện ở đời!

Nầy, Xá Lợi Phất! Chư Như Lai xuất hiện ở đời nhằm:

Mở bài và giới thiệu "Tri kiến Phật" của chúng sanh

Vận dụng ngôn từ, tỷ dụ khéo léo để "chỉ" Tri kiến Phậtcủa chúng sanh cho chúng sanh biết.

Hướng dẫn cho chúng sanh "hiểu kỹ" về Tri kiến Phật của mình.

Khuyến cáo, khích lệ cho chúng sanh sống bằng Tri kiến Phật mà mình vốn có.

Đó là lý do cực kỳ quan trọng mà chư Phật Như Lai xuất hiện ở cõi đời. Mục đích của chư Phật ra đời chỉ vì một việc: Đem Tri kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!

Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một "Phật thừa" chớ không có hai thừa, ba thừa nào khác. Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đều như vậy. Chư Phật trong quá khứ, chư Phật hiện tại cũng như chư Phật vị lai vận dụng vô số phương tiện, triển khai nhiều cách, ngôn từ khéo léo, tỷ dụ dồi dào, nhưng tất cả nhằm dạy cho chúng sanh "một Phật thừa" khiến cho những chúng sanh tu hành đều đạt thành "Nhất thiết chủng trí".

Xá Lợi Phất! Chư Phật giáo hóa Bồ tát vì muốn đem Tri kiến Phật "chỉ" cho chúng sanh, muốn cho chúng sanh tỏ ngộ, hiểu kỹ về Tri kiến Phật và thể nhập, sống trong Tri kiến Phật của chính mình. Tất cả cõi nước trong mười phương không có hai thừa làm gì lại có đến ba! Tại vì chúng sanh sống trong đời đầy năm trược ác mà chư Phật dùng sức phương tiện ở một Phật thừa tạm nói có ba.

Xá Lợi Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời dạy của Phật. Lời của chư Phật không hề có hư vọng. Rằng không có thừa nào khác, mà chỉ có một "Phật thừa" thôi!

Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:

...Xá Lợi Phất! Nên biết
Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn tất cả chúng sanh
Bằng như ta không khác
Như ta xưa đã nguyện
Nay đã viên mãn rồi
Độ tất cả chúng sanh
Đều khiến vào Phật đạo

... Xá Lợi Phất! Nên nhớ
Ta vì bày phương tiện
Nói các đạo diệt khổ
Chỉ cho họ Niết bàn
Ta dù nói Niết bàn
Mà không thật diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tướng nó thường vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Sau đó được thành Phật

...Nếu có hạng chúng sanh
Nghe pháp Phật tu hành
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo

...Các Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá lợi
Nhóm đất làm tháp Phật
Những hạng người như thế
Đều đã thành Phật đạo

....Các đồng tử vui chơi
Nhóm cát thành miếu Phật
Những trẻ con như thế
Đều đã thành Phật đạo

Nếu có người mến Phật
Chạm trỗ các hình tướng
Nắn vẽ hình tượng Phật
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo

...Có người trước tháp miếu
Dùng hoa, hương, phan lọng
Thành kính mà cúng dường
Ca ngâm khen ngợi Phật
Nhẫn đến tiếng thì thầm
Đều đã thành Phật đạo

...Hoặc người tâm tán loạn
Vào trong tháp miếu Phật
Một xưng nam mô Phật
Đều đã thành Phật đạo

...Với chư Phật quá khứ
Tại thế hoặc diệt độ
Nghe tin chư Phật ấy
Đều đã thành Phật đạo

...Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật
Các Phật vốn thệ nguyện
Tu hành thành Phật đạo

...Phật là thầy trong đời
Thường phương tiện tùy nghi
Diệt bỏ tâm nghi hối
Tự biết sẽ thành Phật.

THÂM NGHĨA



Vận dụng "phương tiện" nhằm đạt đến chỗ "cứu cánh"...Cũng như khi người ta sử dụng "sách lược" nhằm đạt đến "mục đích lý tưởng"...Vận dụng "phương tiện" để đạt đến cứu cánh là chủ trương phương cách giáo hóa, uốn nắn thực hiện theo con đường "vương đạo"; sử dụng "sách lược" để đạt đến mục đích là do tính thủ đoạn cai trị, theo con đường "bá đạo" nói theo ngôn từ của các nhà chánh khách, thời xưa.

"Phương tiện" trong việc giáo hóa, có nghĩa là "Nói vậy mà chưa phải vậy". Bảo rằng: "Học vậy đi! Hiểu vậy đi! Làm vậy đi! Lợi ích lắm đó! Tốt lắm đó! "Nhưng cái lợi ích và sự tốt đó, chưa phải là cái "lợi ích" cứu cánh và muốn đạt đến cái "tốt" cứu cánh, cần phải học, phải hiểu, phải làm nhiều hơn nữa. Bấy giờ sự học, hiểu và việc làm đó mới đến nơi đến chốn, mới đến chỗ cứu cánh trọn vẹn...

Vì sao hơn 40 năm thuyết pháp, Phật chỉ dùng "phương tiện" giáo hóa chúng sanh ?

Tại vì, Phật xuất hiện ra đời với mục đích cao đẹp "tuyệt trần" mà trong khoảng thời gian đó, Phật chưa thể nói rõ ra được.

Tại vì chúng sanh đang sống trong cuộc đời đầy năm trược ác, cấu chướng nặng nề, ba nghiệp không lành, sáu căn chưa trong sạch, nếu dạy pháp tu hành "thành Phật" chúng sanh ngần ngại khó khăn.

Tại vì, nói chúng sanh có khả năng thành Phật, chúng sanh không dám tin nhận ở khả năng mình.

Thế cho nên Như Lai phải vận dụng "phương tiện" mà dẫn dụ, uốn nắn, bồi dưỡng trí tuệ cho chúng sanh một cách dần dần, ngay từ thời thuyết pháp đầu tiên ở Lộc giả uyển, thành Ba la nại....

Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Sự xuất thế của Như Lai và trí tuệ của Như Lai có, không phải là sự ngẫu nhiên do sự đưa đẩy trôi xuôi theo dòng nghiệp lực...

Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với chúng sanh về hoài bảo duy nhất và mục đích tối thượng của Như Lai ngay lúc bắt đầu cuộc hành trình thuyết giáo độ sanh, nhưng Như Lai chưa nói rõ ra được điều đó.

Lẽ ra như Lai phải nói thẳng với hàng Thanh Văn, Duyên Giác, rằng pháp mà như Lai dạy cho họ chỉ là pháp "Tiểu thừa" và Niết bàn họ chứng đắc chưa phải là thật diệt độ, nhưng hơn 40 năm qua, Như Lai chưa nói điều đó.

Lẽ ra "mười hai bộ kinh", Như Lai phải bình đẳng dạy cho tất cả chúng sanh, nhưng vì căn tánh không đồng, đối với hạng chủng tánh Nhị thừa Như Lai dạy cho họ chỉ có chín kinh.

Lẽ ra từ lâu, Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh đều sẵn có Tri kiến Phật, nhưng Như Lai đã bí mật dấu hẵn điều nầy vì căn cơ của chúng sanh còn thấp kém chưa đủ trí tuệ để tiếp thu.

Lẽ ra, trước đây Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: tu hành là "thành Phật", không có quả Nhị thừa, Tam thừa nào khác, nhưng từ lâu nay, Như Lai nói có. Vì đó là phương tiện của Như Lai.

Lẽ ra Như Lai phải nói thẳng với chúng sanh rằng: Tất cả chúng sanh là Phật, nhưng cho đến bây giờ, trước giờ phút nhập Niết bàn, Như Lai mới mở kho tàng bí mật, để giao trọn gia tài pháp bảo vô giá của Như Lai cho tất cả chúng sanh.

Trong quá trình thuyết giáo độ sanh, với một lập trường kiên định và linh hoạt tuyệt vời, Như Lai vận dụng "Tứ tất đàn" một cách vô cùng phong phú. Nhờ vậy, mọi căn cơ đều được thấm nhuần mưa pháp. Người học Phật không được lảng quên tiêu chuẩn:

1. Thế giới tất đàn
2. Vị nhân tất đàn
3. Đối trị tất đàn, và
4. Đệ nhất nghĩa tất đàn.

Để hiểu một cách quyết định và tin sâu về "Tri kiến Phật", về "Phật tánh" của mình, người học kinh Pháp Hoa còn phải am tường về nguồn giáo lý"Lục tức Phật":

1. Lý tức Phật
2. Danh tự tức Phật
3. Quán hành tức Phật
4. Tương tợ tức Phật
5. Phần chứng tức Phật
6. Cứu cánh tức Phật

Dựa trên nền giáo lý "Lục tức" mỗi người có thể tự nhận xét và đánh giá địa vị "đã thành Phật" của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567