Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ghi chú của Nhà xuất bản

04/04/201317:11(Xem: 6254)
Ghi chú của Nhà xuất bản
Vì Sự Tiến Bộ Tinh Thần:
Hãy Cùng Tuyên Bố Hòa Bình!

Ghi Chú Của Nhà Xuất Bản

Hoang Phong chuyển ngữ
Nguồn: Sylvie Crossman & Jean-Pierre Barou, Hoang Phong chuyển ngữ

tuyen-bo1- Mathieu Ricard cho biết theo Phật giáo thì một "sinh vật có giác cảm" hàm chứa một trí thức (être sensible / sensitive being) là một sinh vật có khả năng phân biệt được sự an vui và khổ đau, nói một cách giản dị hơn, là cảm nhận được sự thích thú và đau đớn.

2- Quy luật nguyên nhân hậu quả là một quy luật thuộc vào một hệ thống tương tác liên kết giữa nguyên nhân và hậu quả chi phối các hiện tượng thiên nhiên. Chữ karma (là tiếng Phạn và có nghĩa là "hành động") dùng để mô tả các hậu quả phát sinh từ các hành động nhân từ hay độc ác mang lại các thể dạng như an vui hay khổ đau. Long Thụ (Nagarjuna) một triết gia người Ấn thuộc thế kỷ thứ II, được xem như một "vị Phật thứ hai", tức có ý nói ông là người đi sau, đã đề cập đến quy luật nguyên nhân hậu quả, nhất là trong tác phẩm "Các tiết thơ về Trung Đạo" còn gọi là "Con Đường Trung Đạo" - hay cũng có thể xem là một cách gọi khác của quy luật tương liên (lý duyên khởi) - tức là quy luật đánh đổ bất cứ một hình thức tuyệt đối nào - kể cả một vị Trời sáng tạo cũng như chủ thuyết hư vô tuyệt đối: có nghĩa là tất cả đều có thể xảy ra, không có một thứ gì tự nó có thể hiện hữu - và chính nhờ đấy mà hành động mới có thể xảy ra được. Mãi đến thế kỷ thứ XX, sự thật trên đây nhằm mang lại một sự cởi mở rộng lớn, mới được đưa vào thế giới Tây Phương, đấy là nhờ một triết gia người Đức chuyên gia về hiện tượng học là Edmund Husserl (1859-1938), và công trình nghiên cứu của ông cũng đã ảnh hưởng rộng lớn đến toàn bộ nền triết học hiện đại.Từ ngày 16 tháng 3, năm 2011 đến nay, hai mươi sáu người vừa là những người tu hành - trong số này có hai ni sư - và cả những người thế tục đã tự thiêu. Đấy là chưa kể một vị sư trẻ của tu viện Kirti tên là Tapey cũng đã tự thiêu trước đây vào ngày 27 tháng 2 năm 2009, và cũng là người đầu tiên đã hy sinh mạng sống của mình để khởi đầu cho một chuỗi dài những thảm kịch thật đau thương. Phần lớn các cuộc tự thiêu đã xảy ra trong tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, thật ra là trong một vùng thuộc tỉnh Amdo trước đây, tức là một trong ba tỉnh lớn của xứ Tây Tạng lịch sử và cũng là nơi sinh thành của chính Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV. Đáng chú ý hơn nữa là tăng đoàn của tu viện Kirti - quản lý hai ngôi chùa trong vùng này, và khoảng bốn mươi ngôi chùa nhỏ khác trên vùng cao nguyên cũng tùy thuộc vào hai ngôi chùa này, và một ngôi chùa thứ ba nữa đã được xây dựng lại trong vùng tỵ nạn ở Dharamsala vào năm 1990 - đã được Ursula Gauthier, đặc phái viên của tạp chí Nouvel Observateur ở Bắc Kinh xem là "đầu não của phong trào". Tăng đoàn trên đây đại diện cho phong trào kháng chiến bên trong xứ Tây Tạng, và cũng là những người tích cực nhất trong các cuộc bạo loạn xảy ra vào tháng 3, năm 2008, đấy là dịp mà các người tu hành và thế tục cùng đứng lên chống lại sự tiêu diệt văn hóa do chính quyền Trung Quốc chủ xướng và cũng đã làm cho toàn vùng này trở nên nóng bỏng. Đã từ bốn năm nay các nhà sư của tu viện Kirti bị công an và quân đội kiểm soát gắt gao, họ bị đồng loạt đưa đi học tập về lòng yêu nước và lòng quyết tâm trung thành với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Bắc Kinh nghi ngờ các nhà sư của tu viện Kirti tích cực liên lạc với kháng chiến Tây Tạng ở hải ngoại. Kể từ tháng 3 năm 2011 chính quyền Trung Quốc lại còn gia tăng thêm sự đàn áp và không những khiến cho các vị sư trẻ phải chọn một giải pháp thật hết sức khủng khiếp là phải tự tử, mà đối với các vị thầy thuộc các cấp bậc tu tập cao thâm thì họ còn nghĩ xa hơn nữa, đến những hậu quả không tốt lành và lâu dài mang lại từ những hành động tối hậu đó cho những người hy sinh đời mình - có thể cả năm trăm kiếp về sau này (Phật Giáo cho rằng tự sát sẽ tạo ra nghiệp thật lâu dài, có thể đến năm trăm kiếp sau).

4- Robert Thurman là cha của nữ diễn viên điện ảnh Uma Thurman, là giáo sư chuyên gia về Phật Giáo Ấn Độ tại đại học Columbia Nữu Ước. Ông cũng là một người bạn tâm giao của Đức Đạt-lai Lạt-ma và cũng đã được tạp chí Time xếp là "một trong số hai mươi lăm nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đối với nước Mỹ" vào năm 1997.

5- Francisco Varela (đã qua đời) từng là một nhà thần kinh học nổi tiếng, là một trong những người thành lập Viện Tâm Linh và Sự Sống (Mind and Life Institute) vào năm 1987, nhằm mục đích đóng góp vào việc trao đổi sự hiểu biết và hợp tác giữa các khoa học gia và các chuyên gia về Phật Giáo (gồm các học giả và các nhà sư tu tập về thiền định). Richard Davidson còn mang biệt danh là "Richie" là một trong số các chuyên gia lừng danh nhất trên thế giới nghiên cứu về sự vận hành của xúc cảm trong tâm thức. Ông điều khiển phòng thí nghiệm nghiên cứu các ảnh chụp sự sinh hoạt của não bộ thuộc đại học Madison tại Hoa Kỳ và từ mười lăm năm nay nhờ vào các kết quả mang lại từ thiền định ông đã đạt được nhiều hiểu biết sâu sắc nhất về não bộ. Matthieu Ricard là một nhà sư Phật Giáo, tiến sĩ về tế bào di truyền học, lưu ngụ trong vùng Hy-mã-lạp-sơn từ hơn bốn mươi năm nay, và cũng là người thông dịch tiếng Pháp cho Đức Đạt-lai Lạt-ma và cũng đã góp phần không nhỏ vào các chương trình nghiên cứu về tác động của các phép luyện tập tâm thần và thiền định liên quan đến sự sinh hoạt não bộ và các thể dạng an vui.

6- Gandhi (1869-1948): trích từ bài viết "La doctrine de l'épée" (Giáo thuyết của thanh kiếm), trong tuần báo Young India, 11 tháng 8, năm 1920, và chính ông cũng là chủ biên của tờ tuần báo này. Xin nhắc thêm ông là người chủ trương bất-bạo-động không dựa vào đạo đức mà chỉ nhân danh "lý trí": và theo ông thì lý trí cũng chỉ là "một cái tên gọi khác của bất-bạo-động", bởi vì bạo-động sẽ cho thấy tính cách vô hiệu quả của nó khi nó phải đối đầu với lý trí - bạo lực chỉ làm cho tính cách vô hiệu quả gia tăng thêm, và làm bùng lên mọi thứ xúc cảm khác. Bất-bạo-động không hề dính dáng gì với thể dạng thụ động. Gandhi cũng là một người chủ trương các "hành động trực tiếp": tẩy chay, tuyệt thực, bất hợp tác... Ông ta cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các tác phẩm của Tolstoy (1828-1910) một đại văn hào Nga, và cả một tiểu luận gia người Mỹ là Henry-David Thoreau (1817-1862) qua các bài viết chủ trương sự bất tuân lệnh trên mặt dân sự, mà Gandhi đã đọc được khi còn trong tù, các bài viết này chứng minh cho thấy là các chủ trương của ông mang tính cách khoa học rõ rệt, và đồng thời ông cũng chịu ảnh hưởng của một tác giả người Anh là John Ruskin (1819-1900) nêu lên tính cách tàn phá của đồng tiền vàng (gọi là đồng guinea của người Anh thời bấy giờ), và của kinh tế thị trường. Gandhi cũng thường xuyên nghiên cứu kinh Koran, Tân Ước, kinh Bhagavad-Gita (Kinh của Ấn Giáo), các bài thi phú thiêng liêng của nước Ấn, v.v...

7- Ngày 17 tháng 9, năm 2010, tại một thành phố thuộc trung tâm Tunisia có một người bán hàng rong trẻ tuổi tên là Sidi Bouzid bị bắt vì không có giấy phép buôn bán. Để chống lại sự bất công đó, người này đã tự thiêu và sau đó đã chết vào ngày 4 tháng giêng, năm 2011. Biến cố này được xem như nguyên nhân gây ra cuộc cách mạng đầu tiên của cao trào Mùa Xuân Á-rập. Cao trào này đạt đến tột đỉnh tại Tunis (thủ đô Tunisia) vào ngày 14 tháng giêng, năm 2011 và đã lật đổ tổng thống Ben Ali, tạo ra cả một làn sóng ào ạt các cuộc đấu tranh lan rộng sang các quốc gia Á-rập khác dưới các hình thức chống đối bất-bạo-động dựa vào các cơ cấu xã hội đang hiện hành.

8- Mikhail Gorbachev, sinh năm 1931, đã được bầu vào chức vụ cao nhất là Tổng Thư Ký Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết (PCUS) ngày 11 tháng 3, năm 1985. Ngoài các biện pháp chính trị gọi là sự "minh bạch" hay glasnost và "cải tổ cơ cấu" hay perestroïka, ông còn thiết lập một nền chính trị bất-bạo-động đúng với ý nghĩa của nó: bằng cách tổ chức lần đầu tiên các cuộc bầu cử thật sự tự do kể từ cuộc Cách Mạng tháng 10, năm 1917, ông còn bãi bỏ cả "vai trò lãnh đạo và điều khiển Đảng", tái lập nền tự do báo chí, tổ chức hệ thống kinh tế tư nhân; về mặt đối ngoại: thì Quốc Hội bầu ông lên làm Tổng Thống Liên Bang Sô Viết vào năm 1990, và các nghị sĩ trong Quốc Hội này thì cũng đều được bầu bằng cách phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên đồng thời ông vẫn giữ chức vụ Tổng Thư Ký Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết. Gorbachev chủ trương bãi bỏ khí giới hạt nhân và không sử dụng sức mạnh. Giống như giải pháp mà Đức Đạt-lai Lạt-ma đã đưa ra trước đây, ông cũng đã tìm cách thuyết phục Saddam Hussein không nên gây ra cuộc xung đột tại Iraq. Năm 1991 ông gặp nhiều khó khăn do phe bảo thủ gây ra, và một số người chủ trương cải tiến khác vì quyền lợi cá nhân cũng lăn vào tranh dành ảnh hưởng với ông, đồng thời về phía dân chúng thì thợ mỏ đình công chống lại đời sống đắt đỏ gây ra bởi các tàn tích quan liêu, Liên Bang thì có cơ tan rã - các nước cộng hòa vùng Baltic đòi độc lập - khiến ông đành phải chọn giải pháp từ chức để tránh tình trạng xung đột đẫm máu có thể xảy ra. Cũng xin nêu thêm một sự kiện khác là Gorbachev đã ký kết một thỏa ước không sử dụng bạo lực với Thủ Tướng Ấn là Rajiv Gandhi. Ông được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1990, và trước ông một năm tức là vào năm 1989 thì Đức Đạt-Lai Lạt-ma cũng đã được trao tặng giải thưởng này.

9- Nelson Mandela, sinh năm 1918 tại Nam Phi, tốt nghiệp luật sư và đã dành trọn đời mình để tranh đấu chống lại sự kỳ thị chủng tộc - apartheid (kỳ thị màu da) - do thiểu số người da trắng áp đặt, và nêu cao nguồn gốc Phi Châu của xứ sở. Cuộc tranh đấu khởi đầu bằng các phương pháp êm thắm, chẳng hạn như gia nhập Hội Nghị Quốc Gia Phi Châu (ANC) vào năm 1944, thế nhưng tổ chức này bị giải tán vào năm 1960. Mandela phản ứng lại bằng cách thành lập một chi phái vũ trang nhân danh ANC do chính ông điều khiển. Một chiến dịch phá hoại các cơ quan quân sự và công cộng được phát động, ông bị bắt và bị kết án tù chung thân. Đến năm 1990 ông được thả, tức là sau hai mươi bảy năm bị giam trong ngục. Ông lại tiếp tục hoạt động chính trị và chủ trương hòa giải với chính phủ của Tổng Thống Frederik De Klerk, và sau đó thì vị này đã bãi bỏ chế độ kỳ thị màu da, và cả hai người đã được ban chung giải thưởng Nobel Hòa Bình vào năm 1993. Đến năm 1994 thì ông được bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên người da đen ở Nam Phi. Năm 1990 quả là năm đã đánh dấu một bước tiến vô cùng quan trọng đối với chủ trương bất-bạo-động.

10- Václav Havel, sinh ngày 5 tháng 10, năm 1936 tại thủ đô Prague, là nhà soạn kịch, từng là thủ lãnh một phong trào ly khai của Tiệp Khắc trong suốt mười hai năm - kể cả năm năm bị tù. Các tác phẩm của ông bị cấm xuất bản trong nước suốt hai mươi năm sau khi ông tham gia vào phong trào Mùa Xuân Prague và phong trào này đã bị chiến xa Nga Sô nghiền nát. Ông cũng là một trong những người tích cực nhất trong việc quảng bá bản Hiến Chương 77, đòi hỏi chính phủ phải tôn trọng tự do và nhân quyền. Tháng 9 năm 1989, ông tổ chức một phong trào chống đối mang tên là "Diễn Đàn Nhân Dân" khiến cho những người lãnh đạo cộng sản phải thoái vị sau một cuộc cách mạng êm thắm. Từ tháng 9 năm 1989 đến tháng 7 năm 1992 ông giữ chức Tổng Thống Cộng Hòa Tiệp sau khi xứ sở bị chia cắt thành hai quốc gia là Tiệp và Slovak, mặc dù trước đó ông cũng đã cố gắng tranh đấu nhằm chống lại sự chia cắt này. Trong một cuộc biểu tình vào năm 1989, trước ngày người ta biết đến các giá trị nhân bản sâu xa và lòng mến chuộng dân chủ của ông và để đem ra xây dựng xã hội Tiệp, ông đã từng tuyên bố như sau: "Tình thương và sự thật nhất định sẽ chiến thắng trước hận thù và dối trá". Ông mất ngày 18 tháng 12, năm 2011 vì bệnh ung thư phổi, đúng một tuần lễ sau khi được ôm hôn Đức Đạt-lai Lạt-ma trong dịp ông mời Ngài cùng với ông Stéphane Hessel tham dự Diễn Đàn 2000 về nhân quyền tại Đông Á. Diễn Đàn lần này là nhằm mục đích tôn vinh một người Trung Quốc ly khai là Lưu Hiểu Ba bị cầm tù vì đã tham gia vào việc soạn thảo bản Hiến Chương 08 gợi ý từ bản Hiến Chương 77, nhằm đòi hỏi Trung Quốc phải được dân chủ hóa. Trong khi các buổi họp của Diễn Đàn đang tiến hành thì Lưu Hiểu Ba vẫn còn tiếp tục bị giam giữ mặc dù trước đó một năm ông đã được trao tặng giải Nobel Hòa Bình. Chính Václav Havel đã đề nghị ông trong danh sách chọn lựa người nhận giải Nobel.

11- Martin Luther King sinh ở Atlanta (Hoa kỳ), ngày 15 tháng 1, năm 1929, một mục sư Tin Lành Baptist, bị ám sát ngày 4 tháng 4, năm 1968 tại Memphis, Tennessee, là một người tranh đấu đòi hỏi nhân quyền cho người Mỹ da đen. Ông là người có khuynh hướng hiếu hòa, tham gia các hoạt động chống lại chiến tranh Việt Nam và nhất là có tài hùng biện - bài diễn văn "I have a dream" (Tôi mang một giấc mơ) trước Đài tưởng niệm Lincoln ở Hoa-Thịnh-Đốn đã trở thành một huyền thoại. Ông từng kêu gọi tẩy chay xe buýt ở Montgomery tại Alabama để chống lại sự kỳ thị chủng tộc trong việc chuyên chở hành khách. Hầu hết các quyền hạn này đều đã được thừa nhận trong bản Civil Right Acts (Quyền công dân) và Voting Rigths Acts (Quyền bầu cử) dưới thời Tổng Thống Lyndon B. Johnson. Martin Luther King là người trẻ tuổi nhất đã đạt được giải Nobel Hòa Bình vào năm 1964. Ông được truy tặng Huy chương Tổng thống về Tự Do vào năm 1977 do Tổng Thống Jimmy Carter trao tặng, giải thưởng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1978 và huy chương vàng của Quốc Hội Mỹ năm 2004. Kể từ năm 1986, ngày 15 tháng giêng, tức là ngày sinh nhật của ông, đã trở thành Martin Luther King Day (ngày tưởng niệm Martin Luther King), một ngày nghỉ lễ tại Hoa Kỳ.

12- Albert Camus: trích trong bức thư gửi cho Étienne Benoist, ngày 12 tháng 3, năm 1952, được Olivier Todd trích dẫn trong quyển Camus, Une Vie (Camus, Một Cuộc Đời). Benoist (1901-1954) là một người tranh đấu bất-bạo-động, sau khi qua đời đã lưu lại một tác phẩm mang tựa đề Le Petit Testament (Lời Di Chúc Nhỏ) - Alençon, nhà xuất bản Impr. Alençonnaise, 1970.

13- Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gồm có mười lăm thành viên, năm trong số này là các thành viên thường trực - Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Pháp và Anh Quốc - và đấy là các thành viên có quyền phủ quyết. Đấy cũng là cơ quan duy nhất của Liên Hiệp Quốc không mang tính cách dân chủ. Trong khi đó thì tất cả các cơ quan chuyên môn khác của Tổ chức này đều được điều hành bằng phương pháp biểu quyết đa số, duy nhất chỉ có Hội Đồng Bảo An là đòi hỏi phải có sự thống nhất hoàn toàn giữa năm thành viên thường trực. Stéphane Hussel cho biết là điều đó đã chứng minh cho thấy một cách hết sức rõ ràng sự kiện là ít nhất một trong số năm "cường quốc" rất lo ngại về các quyền lợi quan trọng của mình có thể bị sứt mẻ nếu quốc gia mình lọt vào phía thiểu số. Điều khoản tuyệt đối này, thường được nhiều người biết hơn dưới cái tên gọi là "quyền phủ quyết", dù là mang tính cách cần thiết đi nữa, thế nhưng đồng thời cũng lại là một chướng ngại cản trở các dự án can thiệp của Liên Hiệp Quốc đối với các hồ sơ nóng bỏng, chẳng hạn như những gì đang xảy ra đối với Trung Quốc và Nga Sô khi các quốc gia này chống lại việc lên án Bachar Al-Assad, mà đa số các thành viên khác của Liên Hiệp Quốc đều đã tán thành trước các tội ác do chính phủ Syria vi phạm đối với dân tộc của nước này.

14- Desmond Mpilo Tutu được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1984. Ông là một người tranh đấu không hề nhụt chí chống lại kỳ thị màu da (apartheid) và đồng thời cũng chống lại những người da đen chủ trương nhất quyết phải trả thù. Vị giám mục Nam Phi người da đen này luôn đưa ra thông điệp kêu gọi hòa bình và bất-bạo-động mỗi khi ông thuyết giảng tại nhà thờ, và đấy cũng là một cách tích cực để chống lại các chính phủ "afrikaner" (tức là các chính phủ do người da trắng điều khiển). Năm 1986, ông là người da đen đầu tiên được Nhà thờ Tin Lành Anglican của Nam Phi phong chức Tổng Giám Mục địa phận Cap Town. Ông luôn tích cực tranh đấu để bảo vệ nhân quyền trên toàn thế giới nhất là tại Tây Tạng. Tháng ba năm 2009, ông đưa ra một lá thư được mười ngàn người ký tên, trong số này có bốn mươi nhân vật nổi tiếng trên thế giới, nhằm đòi hỏi các quan chức Trung Quốc "phải chấm dứt không được sử dụng các ngôn từ nhằm xúc phạm, đổ lỗi, lạm dụng Đức Đạt-lai Lạt-ma", đồng thời ông cũng kêu gọi Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đến Tây Tạng để điều tra về tình trạng nhân quyền tại đây.

15- Báo Le Monde số ra ngày 6 tháng 12, năm 2011 phỏng vấn Cha François Ponchaud, ký giả phỏng vấn là Bruno Philip.

16- René Cassin (1887-1976) có thể xem như là cha đẻ của Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền được Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12, năm 1948 tại điện Chaillot Paris. Ông là cựu chiến sĩ của tổ chức France Libre (tổ chức kháng chiến Pháp) bên cạnh Đại tướng de Gaulle hoạt động ở Anh, và cũng là một luật gia và nhà ngoại giao, chủ tịch ủy ban tư vấn về nhân quyền của Quai d'Orsay (Bộ Ngoại Giao Pháp) tại Paris, ông cũng là một người rất tích cực trong ủy ban do Liên Hiệp Quốc thành lập để soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, ủy ban này gồm mười hai thành viên và vị chủ tịch là Eleonor Rosevelt, là quả phụ của Tổng Thống Mỹ. Vào lúc đó Stéphane Hessel còn là một nhà ngoại giao trẻ và cũng là một người hợp tác thân tín của Henri Laugier - làm Phó Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc -, ông giữ chức vụ thư ký cho ủy ban trên đây, và với tư cách đó ông cũng là người đảm trách việc liên lạc với Đại Hội Đồng (Liên Hiệp Quốc). Chính Cassin đã dự thảo Bản Tuyên Ngôn và ông đã bất chấp mọi sự nghi ngại của một số quốc gia, trong đó kể cả nước Pháp, là có thể vì bản tuyên ngôn trên đây mà sẽ bị mất chủ quyền tại các thuộc địa của mình. Quan điểm của ông về nhân quyền thật hết sức quyết liệt và mang tính cách can thiệp rõ rệt, tương tự như chủ trương của Franklin Rosevelt, qua đời không lâu trước đó vào tháng tư năm 1945. Quả thật ông rất xứng đáng được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1968.

17 - Bản dịch tiếng Pháp của bài thơ "sonnet 116" của Shakespeare:

"Aux noces de deux esprits fidèles
Je ne peux admettre d'empêchement: l'amour n'est pas l'amour
S'il change lorsqu'il trouve ailleurs,
Ou s'éloigne lorsqu'il voit l'autre s'éloigner.
Oh non! il est un feu à la flamme immuable
Au coeur de la tempête, jamais ébranlé!
C'est une étoile pour tout navire errant,
Dont on mesure la hauteur, si on l'ignore les effets.
L'amour n'est pas le buffon du temps;
Même si ses lèvres et ses joue roses
Sont tranchées par l'arc de sa faux;
Il ne subit pas l'altération des jours et des semaine,
Mais survit inchangé jusqu'à la fin des temps.
Si je dis faux, qu'on me le prouve, je répondrais:
Je n'ai jamais écrit et nul n'a jamais aimé"

(Bản dịch tiếng Pháp của nhà xuất bản Indigène)

(William Shakespeare (1564-1614) là soạn kịch gia, văn hào và thi sĩ lớn nhất trong lịch sử văn hóa nước Anh. Bài thơ 14 câu trên đây của ông thuộc vào thể loại gọi là "sonnet", tức một thể loại gồm hai hoặc ba tiết bốn câu và hai câu kết luận.

Bài thơ này đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ, thế nhưng không mấy khi các bản dịch lột được hết ý, sự súc tích cũng như sức mạnh trong hơi thơ của ông. Một thí dụ cụ thể là bản dịch của nhà xuất bản trên đây cũng cho thấy một vài chỗ còn sơ sót, chẳng hạn như trong nguyên bản (câu 5 và 6) Shakespeare ví tình yêu như một ngọn hải đăng nhìn vào bảo táp và không hề bị chao đảo. Ngọn hải đăng chẳng những luôn vững vàng trước phong ba mà còn hướng dẫn cho thuyền bè không lạc bến. Bản tiếng Pháp trên đây lại dịch là ngọn lửa không lay động giữa cơn bảo tố, thì quả thật không diễn tả được ý và sức mạnh trong hai câu thơ của Shakespeare.

Ngoài ra trong bài thơ của Shakespeare còn có hai câu khá cô đọng (các câu 9 và 10). Trong hai câu này tác giả đưa ra ba hình ảnh liên tiếp: một tên hề, chiếc lưỡi hái và môi đỏ má hồng. Vậy các hình ảnh này có ý nói lên điều gì? Vua chúa thời xưa ở Âu Châu luôn có một vài tên hề bên cạnh để giúp vui, và tác giả đã mượn hình ảnh này để nói lên là tình yêu không phải là một chuyện vui đùa hời hợt trong chốc lát. Chiếc lưỡi hái tượng trưng cho thần chết và trong bài thơ thì tượng trưng cho thời gian, và thời gian sẽ cướp đi những thú vui phù du của tuổi trẻ. Phấn son trên môi và trên má của tên hề tượng trưng cho những gì giả tạo của tình yêu. Hai câu này tương phản với hai câu tiếp theo (câu 11 và 12) và góp phần làm nổi bật ý nghĩa của hai câu này.

Stéphane Hessel ngâm bài thơ này tặng Đức Đạt-lai Lạt-ma là để "cụ thể hóa" sự kính mến và yêu quý của mình đối với Ngài).

Bures-Sur-Yvette, 29.05.12
Hoang Phong chuyển ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567