- Thông Tư An Cư Kiết Hạ năm 2018
- Thư Cung Thỉnh Lễ Đại Tường HT Thích Như Huệ
- Trường Hạ Pháp Hoa chuẩn bị cung đón Chư Tôn Đức
- Ban Chức Sự Trường Hạ Pháp Hoa kỳ 19
- Ban Tổ Chức Địa Phương tại Trường Hạ Pháp Hoa Nam Úc
- Ban Duy Na & Duyệt Chúng tại Khóa An Cư kỳ 19
- Lịch giảng tại Trường Hạ Pháp Hoa 2018
- Thời Khóa Biểu và Hiệu Lệnh tại Trường Hạ Pháp Hoa 2018
- Chư Tôn Đức Tham Dự Khóa An Cư kỳ 19
- Phật tử Tùng hạ Trường Hạ Pháp Hoa - Kỳ 19
- Cúng Dường Trường Hạ Pháp Hoa 2018
- Video Kinh Hành Niệm Phật tại Khóa An Cư kỳ 19
- Kỷ Yếu Trường Hạ Pháp Hoa kỳ 19
- Hình Chân Dung Chư Tôn Đức
- Hình Chân Dung Phật Tử
- Hình Ngày 01
- Hình Ngày 02
- Hình Ngày 03
- Hình Ngày 04
- Hình Ngày 05
- Hình Ngày 06
- Hình Ngày 07
- Hình Ngày 8 (16-7-2018)
- Hình Ngày 9 (17-7-2018)
- Hình Ngày 10 (18-7-2018)
- Hình ảnh ngày cuối khóa
Lại Một Mùa An Cư
vắng bóng Ôn
Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm
Ngàn xưa mây trắng vẫn thong dong.
Đã ba lần Thu tàn Đông đến, ba mùa An Cư thiếu vắng Ôn Như Huệ. Có lẽ Ôn đang an nhàn mỉm cười nơi cảnh Phật. Bầu trời Adelaide, Nam Úc, mây trắng vẫn thong dong bay, nhưng đại chúng tại Pháp Hoa Tổ Đình lại cảm thấy như có một đám mây u buồn giăng phủ, vì dường như ở nơi này, vị trí nào cũng khiến mọi người hình dung ra bóng dáng thân thương của Ôn năm nào. Tâm tư ai cũng vương buồn với nỗi niềm kính thương luyến tiếc.
Từ ngày GH Hải Ngoại thành lập (1999) đến nay, GH đã tổ chức 18 khóa An Cư khắp liên bang Úc, mỗi năm mỗi tiểu bang khác nhau, riêng tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, đã tổ chức ba kỳ trước đây là 2000, 2007, 2017 và năm nay 2018, khóa An Cư kỳ 19 tiếp tục được tổ chức tại Tổ Đình Pháp Hoa, Nam Úc. Đây cũng là chủ đích của Giáo Hội, để trong khóa an cư lần này tại Tổ đình Pháp Hoa, toàn thể chư Tôn Thiền Đức và hàng Phật tử được tham dự lễ Đại Tường của Ôn Như Huệ, Ngài đã ra đi vào mùa An cư lần thứ 17 năm 2016.
Tôi nhớ năm 2016, nhân lúc về thăm Ôn lần cuối vào trung tuần tháng 6, nắm lấy tay tôi lúc từ biệt, Ôn nói: “Cảm ơn TT Nguyên Tạng về thăm tôi, nhất định tôi sẽ xuống Tu Viện Quảng Đức dự khóa An Cư của GH năm nay để cùng chia sẻ Phật sự nặng nề của Thượng Tọa Viện Chủ Thích Tâm Phương & cùng Thượng Tọa”. Không ngờ đó là lời nói sau cùng của Ôn mà đến nay như vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.
Tôi biết Ôn lúc nào cũng tha thiết về hai sinh hoạt chính của GH là Khóa An Cư dành cho giới Xuất Gia giữa năm và khóa tu Học Phật Pháp Úc Châu dành cho giới Phật tử tại gia cuối năm. Đã gần 20 năm rồi, bất cứ lúc nào và ở đâu, Ôn cũng có mặt đầy đủ tại hai khóa tu này. Cho đến năm 2016, khóa An Cư kỳ 17, dù trước ngày viên tịch, thân lâm trọng bệnh, tứ thể bất an, nhưng Ôn vẫn kỳ vọng sẽ về tham dự Khóa An Cư tại Tu Viện Quảng Đức, nhưng cuối cùng Ôn đã thu thần viên tịch trước ngày khai mạc khóa An Cư một tuần lễ.
Tôi nhớ Ôn quá qua những chén trà đàm vào sáng sớm mỗi mùa An Cư, có lúc ở Pháp Bảo, có lúc ở Quảng Đức, có lúc ở Vạn Hạnh, có lúc ở Minh Quang… ở đâu và sáng nào tôi cũng tìm đến để hầu trà Ngài. Câu chuyện trà đạo của Ôn lúc nào cũng hấp dẫn với nhiều đề tài khác nhau, phần lớn tôi ngồi lắng nghe Ôn hoài niệm lại những quá khứ oai hùng của Ngài từ những năm lãnh đạo tại Quảng Nam. Ôn hay nhắc lại những người bạn đồng song cùng làm việc với nhau, nhất là HT Thích Chơn Phát, là một trong “Tứ Trụ Quảng Nam”, hai Ngài đi hoằng pháp các nơi trên 1 chiếc xe đạp trành, nhưng tài xế là Ôn, vì HT Chơn Phát không biết lái xe đạp, qua suối, qua sông Ôn phải vác xe đạp lên vai để đi, rất cực khổ nhưng quý Ôn vẫn kiên gan bền chí tiến về phía trước để mang ánh sáng Chánh Pháp đến cho người.
Năm 1975, đất nước đổi thay, sinh hoạt thay đổi, Ôn đã tìm đến bến bờ tự do. Sau 18 ngày lênh lênh trên biển cả, Ôn được tàu Nhật vớt và tạm trú tại Nhật Bản, Ôn phải đi làm việc trong các cơ xưởng của Nhật để sống qua ngày, “an bần thủ đạo” đợi ngày đi định cư ở nước thứ ba. Sau đó, Ôn đến định cư tại Adelaide cho đến ngày viên tịch. Trong thời gian ở Nhật, Ôn ấp ủ trong lòng những ước mơ dự định sẽ xây dựng một ngôi chùa để có nơi thờ Phật, hầu duy trì nền văn hóa Việt nơi xứ lạ quê người. Vì rằng:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”
Và:
“Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi”
Nên khi được đến Nam Úc do một nhóm Phật tử ở Adelaide, qua sự giới thiệu của HT Thích Như Điển ở Hannover, Đức quốc, đã bảo lãnh thỉnh Ngài qua để làm Phật sự tại Nam Úc, Ôn đã cùng với Ban Hộ Trì Tam Bảo (lúc đó Hội Trưởng là bác Thiện Liên Nguyễn Văn Tươi) tiến hành xây dựng ngôi già lam Pháp Hoa, một ngôi chùa có dáng dấp như Tổ Đình Chúc Thánh Hội An, ngôi chùa mà Ôn xuất gia tu học từ thuở nhỏ ở quê nhà. Năm 1986 khi Thiền Sư Nhất Hạnh đến Úc hoằng Pháp, Ôn thỉnh Ngài về thăm Pháp Hoa thuyết giảng, chính tại nơi đây TS Nhất Hạnh đã khen ngợi ngôi phạm vũ Pháp Hoa và đề nghị danh xưng Tổ Đình kể từ đó. Kỳ thực Tổ đình được xem là chùa Tổ, nơi bắt đầu của một pháp phái do một vị Tổ sư khai sáng như Tổ Đình Chúc Thánh ở Hội An (do Tổ Minh Hải Pháp Bảo khai sơn); Tổ Đình Thiền Tôn ở Huế do Tổ Liễu Quán xây dựng…tại Úc, Chùa Pháp Hoa do Ôn Như Huệ khai sơn xây dựng và xứng đáng được tôn xưng là Tổ Đình, vì Ôn là Trưởng Môn Phái Chúc Thánh Hải Ngoại.
Hình ảnh ngôi chùa và sứ mạng lãnh đạo GH luôn gắn liền với cuộc đời tu tập và hành đạo của Ôn. Ôn Như Huệ là người hoài cổ, tức làm việc gì Ôn cũng suy gẫm và nhớ về quá khứ oanh liệt một thời của Giáo Hội PGVN Thống Nhất ở quê nhà, để từ đó làm nền tảng cho tất cả mọi công việc tương lai. Bên trong gian nhà Tổ Pháp Hoa, Ôn Như Huệ có treo một bức hình khổ lớn về ngôi Chùa Tổ Chúc Thánh Hội An cổ kính, như để nhắc nhở Ôn về nguồn gốc truyền thừa mạng mạch Phật Pháp mà Ôn đã thừa hưởng.
Bên chén trà, tôi vinh hạnh được nghe Ôn Như Huệ đọc lại những bài thơ, những bài kệ thán mà Ôn tâm đắc suốt trong đời hành đạo của Ngài, xin ghi lại nơi đây vài bài để tưởng nhớ đến Ôn và cũng để chia sẻ cùng đại chúng:
"Nam Kha nhất mộng đoạn,
Tây Vức cửu liên khai,
phiên thân quy Tịnh Độ,
hiệp chưởng lễ Như Lai."
Tạm dịch:
"Mộng Nam Kha đã dứt
Sanh chín phẩm liền đài
Chuyển thân về cõi Tịnh
Chấp tay lễ Như Lai".
Hay
“Nhất Bát Thiên Gia Phạn
Cô Thân Vạn Lý Du
Kỳ Vi Sanh Tử Sự
Giáo Hóa Độ Xuân Thu”.
Tạm dịch:
“ Bát Cơm Xin Ngàn Nhà
Thân Đi Muôn Dặm Xa
Chỉ Một Việc Sinh Tử
Giáo Hóa Độ Chúng Sinh”
Hoặc:
"Phù sĩ xử thế
Phủ tại khẩu trung
Sở dĩ trảm than
Do kỳ ác ngôn",
Nghĩa là: “Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác”
Ôn Như Huệ đang xem quyển kỷ yếu “Tri Ân”, Ngài rất hoan hỷ lật xem từng trang những
hình ảnh,những bài viết, những tâm tình, những cảm niệm tri ơn của Chư Tôn Đức
và Đồng Hương Phật tử gần xa viết về Ngài, đây là một việc làm hết sức ý nghĩa
mà Giáo Hội Úc Châu đã cố gắng thực hiện trước khi Ôn viên tịch.
Nhất là ngày khai hạ cho khóa An Cư kỳ 12 năm 2011 tại Tu Viện Quảng Đức, Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ, ngài là vừa Hội Chủ, vừa là chủ sám khai kinh hôm đó, ai ai cũng xúc động tham dự lễ khi nghe giọng khai chung bảng, cao vút và bi hùng của Ngài với bài khai Đại Cổ (trống lớn):
Pháp luân thường chuyển huệ tâm khai
Cát đoạn tử sanh, tọa bảo đài
Ngã kim xưng tán Y Vương vị
Thân tâm thanh tịnh bái Như Lai.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(Tạm dịch: Pháp luân thường trổi, Tuệ thường khai, Đoạn tuyệt tử sanh lên bảo đài, Con nay tán dương Y Vương vị, Thân tâm trong sạch lạy Như Lai).
(Mời nghe giọng xướng kệ bài này của Ôn Như Huệ)
Đặc biệt trong mùa An Cư Kiết Hạ năm 2014 tại Quảng Đức, sáng nào hầu trà, mở đầu Ngài cũng đọc bài tán rơi: “Nhất điện mộng hoàng lương” như là một dấu hiệu cảnh báo vô thường của cuộc đời mà bản thân Ngài cảm nhận được trước khi giã từ cuộc đời mộng ảo này, giọng của Ngài xướng tán rơi này với âm thanh ấm áp và cao chất ngất: “ Nhất điện mộng hoàng lương, Nhơn mạng vô thường, Thân hình bào ảnh tợ ngân sương, Mạng tợ ngân sương, Nguyện bất cửu trường, mộng đoạn hoàng lương, Nhất triêu thương hải biến, Như diệp thượng ngân sương”. (tạm dịch: Ôi giấc mộng kê vàng, Mạng người vô thường, Thân hình như bóng ảnh, bọt nước, giọt sương; Mạng như sương bạc, Hết mộng rồi, nồi kê còn đó; Một mai biển dâu biến đổi; Như trên lá đọng giọt sương).
Và đúng như linh cảm “Nhất điện mộng hoàng lương”, cuối cùng Ôn đã trở về với thế giới Niết bàn vô tung bất diệt, nhục thân của Ôn đã an nghỉ trong Liên Hoa bảo tháp tôn trí trong khuôn viên Pháp Hoa. Tuy thời gian có trôi qua, không gian có biến dịch, song công đức và đạo hạnh sáng ngời của Hòa Thượng vẫn còn sống mãi với thời gian vô cùng và không gian vô tận, vẫn hằng hữu trong lòng người con Phật tại Úc Châu này:
"Người nằm đấy cho ngàn thu vang bóng
Mảnh hình hài lồng lộng tựa hư không
Sẽ sống mãi trong lòng Thích tử
Trong suy tư cùng pháp giới vô biên".
Nam Mô A Di Đà Phật,
Viết tại Trường Hạ Pháp Hoa 2018
LẠI MỘT MÙA AN CƯ VẮNG BÓNG ÔN
(Phổ thơ cảm tác từ bài viết của Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng.)
1 - Thu đã đến, qua ba lần thay lá
Đông lại về, mùa Kiết Hạ An Cư
Tổ Đình Pháp Hoa vắng bóng Ôn Như
Ngài viên tịch, giã từ nơi dương thế...
Theo Đức Phật, cuộc đời Ôn Như Huệ
Vui cảnh thiền, kinh kệ trọn đường tu
Xa quê hương mang nặng bước viễn du
Rời đất nước, khi mây mù che lối..
Mười tám ngày thuyền lênh đênh trôi nổi
Bờ tự do biến đổi bước hành trình
Đất Phù Tang lao động để mưu sinh
Lòng giữ mãi thân hình người con Phật..
Sau cơn hạn, mưa về tươi thắm đất
Rời Phù Tang người cất bước định cư
(HT) Thích Như Điển liền giới thiệu qua thư
Lời thỉnh nguyện, đến từ hàng Phật Tử.
Vùng Nam Úc, từ nay làm Phật Sự
Cùng cộng đồng nơi xứ lạ trời Tây
Ước mơ xưa, ấp ủ bao tháng ngày
Sẽ xây dựng nơi đây, chùa thờ Phật..
Ban Hộ Trì đã cùng Ngài xây cất
Ngôi Già Lam với tên đặt Pháp Hoa
Kiến trúc chùa cổ kính như là:
Tổ Đình (Chúc Thánh Hội An) khi Ngài xuất gia tu học...
Tháng năm dài, bao công lao khó nhọc
Chùa Pháp Hoa vươn tầm vóc thêm ra
Thiền Sư Nhất Hạnh từ chốn phương xa
Ôn thỉnh đến, chùa Pháp Hoa thuyết giảng.
Chốn trời Tây, một ngôi chùa hoành tráng
Thật uy nghi tỏa rạng nét Đông phương
Nhìn Pháp Hoa Ngài (TS) hoan hỷ, tỏ tường
Xin đổi lại danh xưng là Đình Tổ
"Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông"
Công đức lớn, Ngài khai sơn đặt chỗ
Xây ngôi chùa để cứu độ chúng sinh
Xứng đáng tôn, phẩm vị cao Tổ Đình
Đường Phật Sự hành trình luôn tiếp bước....
2 - Gió đưa réo rắt bên đàng
Thu qua, Đông đến - lá vàng biệt ly
Ba năm đã trôi đi nhanh quá
Nay đến mùa Kiết Hạ An Cư
Pháp Hoa thiếu bóng Ôn Như
Người về lạc cảnh - giã từ thế gian
Hai mươi năm, nẻo đàng Phật sự
Mười sáu lần, tham dự An Cư
Ngài luôn có mặt, không từ
Khắp trên nước Úc, cho dù xa xôi.....
Mùa Kiết Hạ Ngài ngồi kể chuyện
Bên chén trà, khói quyện mùi hương
Chuyện đi hoằng pháp trên đường
Bằng xe đạp cũ, Ngài thường vác vai
Có những khi đề tài thơ pháp
Ngài đọc nghe ấm áp từng câu.
Bao mùa khai hạ mở đầu
Giọng khai chung bảng vút cao, bi hùng
Bài Đại Cổ âm rung ngân giọng
Người nghe qua xúc động vô cùng
Còn đâu âm giọng khai chung
Còn đâu kệ thán cao, hùng du dương
Tan rồi "giấc mộng hoàng lương"
Nhục thể bỏ lại - quê hương trở về
Cõi trăm năm yên bề Phật Sự
Đường Tây Phương sinh tử không còn
Ôn Như Huệ tấm lòng son
Trọn đời theo Phật... vẹn toàn thế gian.
3 - Mùa An Cư đạo tràng tề tựu
3 - Mùa An Cư đạo tràng tề tựu
Chùa Pháp Hoa đông đủ Tăng Ni
Kiết Hạ 19, lần này
Là ngày hiệp kỵ đàn trai - Đại Tường.
Ôn Như Huệ tấm gương ngời sáng
Trọn cuộc đời, xứng đáng noi theo
Phật Tử - Đại Đức - Tỳ Kheo
Nhớ công đức lớn, Ngài gieo buổi đầu.
Hai tay chắp cúi đầu phủ phục
Nén tâm hương nghi ngút dâng lên
Tiếng chuông nhịp mõ vang rền
Lòng thành Thích Chúng không quên ơn Ngài
Nhớ năm xưa nơi đây Ngài đã
Dụng sức mình quên cả nắng mưa,
Xây dựng lên một ngôi chùa
Giữ hồn dân tộc - truyền thừa pháp kinh....
Mùa An Cư linh đình khai mở
Chùa Pháp Hoa rực rỡ nghiêm trang
Niềm vui nô nức đạo tràng
Về đây tu tập - (năm) hai ngàn đầu tiên....
Đem tâm đức gắn liền trí tuệ
Cho hôm nay và thế hệ sau
Niềm tin Phật Giáo nhiệm mầu
Cộng đồng Việt Úc ơn sâu kính về
Nay Ngài đã không còn dương thế
Bao đức công đã để lại đây
Ngài về an lạc Phương Tây
Pháp Hoa Nam Úc - Nơi đây nhớ Ngài.
Nam Mô A Di Đà Phật
Bến Tre 11-07-2018
Quảng Pháp Ngôn