Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng nên hẹn gặp lại kiếp sau (Do not wish to see someone again in the next life)

15/01/202509:55(Xem: 28)
Đừng nên hẹn gặp lại kiếp sau (Do not wish to see someone again in the next life)


phat thanh dao

Đừng nên hẹn gặp lại kiếp sau
Nguyên Giác Phan Tấn Hải


Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du ghi lại lời Thúy Kiều khi gặp lại chàng Kim Trọng sau nhiều năm bầm dập trong đời, rằng thôi thì hẹn kiếp sau thôi:

Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.

Nguyễn Du là một học giả uyên thâm cả Nho giáo và Phật giáo. Nhưng trong Truyện Kiều, họ Nguyễn chỉ muốn nói về những nỗi khổ cõi người qua một sáng tác văn học, hoàn toàn không có ý muốn lý luận thâm sâu về bất kỳ đề tài nào, cho dù là Nguyễn Du đã từng ba năm mặc áo nhà sư trên bước đường du tăng ở Trung Hoa.

Nếu bạn vào YouTube, gõ nhóm chữ “kiếp sau” hay nhóm chữ “kiếp lại sinh,” bạn sẽ thấy ít nhất là có sáu hay bảy ca khúc liên hệ, cả tân nhạc và vọng cổ, trong đó có các ca khúc chỉ trong vòng vài năm đã có nhiều triệu người xem và nghe. Hiển nhiên là, hình ảnh nắm tay người tình và nói lời hẹn gặp kiếp sau là rất bình thường trong văn học Việt Nam.

Không chỉ là Phật giáo đâu, tôn giáo khác cũng có niềm tin về một đời sống sau kiếp này. Thí dụ, nhiều tôn giáo khác có khái niệm về một Đấng Cứu Thế sẽ hiện ra cứu linh hồn của giáo dân vừa từ trần. Nhưng thời gian vô thường, Đấng Cứu Thế hiện ra kia mang tấm thân khi 20 tuổi, hay 30 tuổi, hay 2000 năm tuổi?

Chuyện tình của nhiều người trong chúng ta cũng thế, gặp lại trong kiếp sau là với tấm thân nào, quốc độ nào, văn hóa nào, môi trường nào... là một chuyện nhức nhối để suy nghĩ. Niềm tin về kiếp sau hiển nhiên rất là lãng mạn kiểu văn học Quỳnh Dao. Rủi như trong kiếp sau, chàng sinh ra ở Bắc Kinh và nàng sinh ra ở Đài Bắc là sẽ rách việc.

Trong Kinh AN 4.55, khi ba và mẹ của ngài Nakula hỏi Đức Phật rằng làm thế nào để kiếp sau, ba và mẹ của Nakula có thể gặp nhau trở lại, thì Đức Phật trả lời: “Vậy này các Gia chủ, khi cả hai vợ và chồng muốn thấy mặt nhau trong đời này, và cũng muốn thấy mặt nhau trong đời sau nữa, và cả hai người là đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ, thời trong đời hiện tại, các người được thấy mặt nhau, và trong đời sau, các người cũng được thấy mặt nhau.” (1)

Tuy nhiên, sẽ rất hy hữu để hai người có cùng một đức tin, cùng giữ giới luật, cùng thói quen bố thí cúng dường, cùng bậc trí tuệ... Rất là hy hữu. Có khi nàng kiếp sau lên được cõi trời, còn chàng kiếp sau ở lại cõi người vì còn say mê làm thơ, viết truyện... Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng chúng ta luôn luôn là người xa lạ của nhau, bởi vì Đức Phật nói rằng trong cõi luân hồi vô lượng kiếp, chúng ta đã từng là quyến thuộc của nhau nhiều đời.

Trong nhóm Kinh SN 15:14–19, Đức Phật nói rằng trong cõi luân hồi vô cùng tận, bạn sẽ rất khó tìm thấy một người nào mà chưa từng là mẹ, cha, anh, chị, con trai và con gái của bạn trong một kiếp xa xưa nào.

Đức Thế Tôn đã nói: "Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã từng làm mẹ của bạn, cha của bạn, anh trai của bạn, chị gái của bạn, con trai của bạn, con gái của bạn vào một thời điểm nào đó trong quá khứ." (2)

Tuy nhiên, đã là Phật tử, phải luôn luôn nghĩ tới tu hành, đừng nghĩ tới chuyện hẹn kiếp sau với ai, vì có lập nguyện thì thế nào kiếp sau cũng so le, chệch hướng. Không chắc gì khi vào kiếp sau trong cõi này, chúng ta sẽ gặp cơ duyên học Phật như kiếp này. Thêm nữa, nghiệp quả trùng trùng, ai dám nói là chúng ta trong kiếp sau còn giữ được thân người. Do vậy, phải luôn luôn nghĩ tới giải thoát, bởi vì người bạn yêu thương khi gặp lại trong kiếp sau chắc chắn là không thể có dung nhan, hình tướng như hiện nay.

Hãy hình dung như Đức Phật từng nói rằng, thân ngũ uẩn của chúng ta thực tế chỉ là như chùm bọt sóng, như ráng nắng chiều, như thân cây chuối, như hình ảo thuật hiện ra, tất cả đều là trống không, là trống rỗng, là không có lõi cứng... Không lẽ chùm bọt sóng này lại hẹn gặp kiếp sau với chùm bọt sóng kia? Không lẽ ráng nắng chiều này lại hẹn gặp kiếp sau với ráng nắng chiều kia?

Trong Kinh SN 55.45, Cư sĩ Mahanama nêu câu hỏi vì Đức Phật lúc đó sắp du hành xa, rằng một cư sĩ có trí tuệ cần khuyên gì khi gặp một cư sĩ bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, cơ nguy từ trần.

Đức Phật nói rằng vị cư sĩ có trí tuệ cần khuyên vị cư sĩ bệnh nặng rằng hãy an tâm, khi đã có lòng tin kiên có vào Phật, Pháp, Tăng và đã sống với giới luật thanh tịnh.

Vị cư sĩ có trí tuệ cần khuyên vị cư sĩ bệnh nặng rằng hãy từ bỏ, đoạn tận lòng thương nhớ cha mẹ, vợ con. Tiếp theo, hãy khuyên từ bỏ tâm nuối tiếc công đức nơi cõi người, từ bỏ tâm mở tưởng về cõi trời, vì tất cả các cõi đều vô thường. Tiếp theo, hãy khuyên vị cư sĩ bệnh nặng kia hãy hướng tâm đến đoạn diệt thân kiến, tức là tịch diệt năm uẩn. Đức Phật nói, như thế, vị cư sĩ có bệnh đó sẽ không có gì sai biệt với một nhà sư đã giải thoát. (3)

Đó là lời Đức Phật dạy. Hoàn toàn không có chuyện hẹn kiếp sau gì hết. Hãy thấy ngay rằng tất cả các pháp đều vô ngã. Khi chùm bọt sóng của thân tâm này tan, sẽ không có chùm bọt sóng nào trở lại y hệt. Hãy thấy dòng chảy xiết của vô thường nơi thân, tâm, và thế gian. Tất cả đều đang chảy xiết trong thời gian vô tận, như điểm tiếp giáp xoay không ngừng của hạt đậu nhỏ trên đầu mũi kim. Hãy luôn luôn nhớ lời Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy rằng, hãy thấy thân tâm tan rã từng khoảnh khắc, như con trâu bùn đang lội qua sông.


---- Tháng 12/2024. Viết khi họa sĩ Khánh Trường bệnh nặng.

GHI CHÚ:
(1) Kinh AN 4.55: https://suttacentral.net/an4.55/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/an4.55/en/bodhi
(2) Kinh SN 15:14–19: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn15/sn15.014.than.html
(3) Kinh SN 55.45: https://suttacentral.net/sn55.54/vi/minh_chau
hay: https://suttafriends.org/sutta/sn55-54/

.... o ....






phat thanh dao
Do not wish to see someone again in the next life
Written and translated by Nguyên Giác




Do not wish to see someone again in the next life
Written and translated by Nguyên Giác



In many Vietnamese folk tales, as well as in the folk tales of various other countries around the world, there exists a strong belief in an afterlife. This belief is not only prevalent in folk Buddhism but also in most, if not all, other religions. The concept of an afterlife warrants careful analysis to avoid misconceptions.

In Tale of Kiều, Nguyễn Du captures Thúy Kiều's sentiments when she reunites with Kim Trọng after enduring many years of hardship. They vow to be together and find happiness in the next life.

The flowers have fallen, and the fragrance has dissipated.
In the next life, we will be happier than we are in this one.

Nguyễn Du was a scholar with profound knowledge of both Confucianism and Buddhism. However, in The Tale of Kiều, he aimed to explore human suffering through literature, without any intention of delving deeply into philosophical discussions. This is notable, especially considering that Nguyễn Du spent three years donning a monk's robe while traveling in China.

If you search for the phrases “kiếp sau” or “kiếp lai sinh” on YouTube, you will discover at least six or seven related songs, both modern and vọng cổ, some of which have garnered millions of views and listens within just a few years. Clearly, the imagery of holding hands with a lover and vowing to reunite in the next life is a prevalent theme in Vietnamese literature.

Not only Buddhism, but other religions also believe in life after death. For example, many religions have the concept of a Savior who will come to save the souls of believers who have recently passed away. However, the timing is unpredictable: will that Savior appear in a body that is 20 years old, 30 years old, or even 2,000 years old?

The love story of many of us is similar: contemplating our reunion in the next life raises painful questions about our bodies, countries, cultures, and environments. The belief in an afterlife is undeniably romantic, reminiscent of Chiung Yao's literary style. If, by chance, he is born in Beijing and she in Taipei, their love may be doomed.

In the AN 4.55 Sutta, when Nakula's father and mother asked the Buddha how they could reunite in the next life, the Buddha replied: “Householders, if both husband and wife wish to see one another not only in this present life but also in future lives, they should have the same faith, the same virtuous behavior, the same generosity, and the same wisdom. Then they will see one another not only in this present life but also in future lives.” (Trans. by Bhikkhu Bodhi)(1)

However, it is quite rare for two individuals to share the same faith, precepts, habits of giving alms, and level of wisdom. Such a coincidence is exceptional. Perhaps in the next life, she will ascend to heaven, while he remains in the human realm, driven by his passion for writing poetry and short stories. Nevertheless, we should not assume that we will always be strangers to one another, for the Buddha taught that throughout the cycle of countless lives, we have been relatives in many of those existences.

In the SN 15:14–19 Sutta, the Buddha states that within the endless cycle of rebirth, it is unlikely to find anyone who has not been your mother, father, brother, sister, son, or daughter in a past life.

The Blessed One said: "There is no beginning to samsara, monks. The origin is not evident to those beings who are shrouded in ignorance and bound by craving. Monks, it is not easy to find a being who, throughout this extensive period of time, has not, at some point in the past, been your mother, your father, your brother, your sister, your son, or your daughter." (2)

However, as a Buddhist, you must always focus on your practice. Do not dwell on the idea of making an appointment with someone in the next life, as making such a vow can lead to an uneven and misguided existence. It is uncertain whether we will have the opportunity to study Buddhism in the next life as we do in this one. Moreover, the complexities of karma are vast; who can confidently assert that we will retain our human form in the next life? Therefore, you should prioritize liberation, for the person you love may not appear or take the same form in the next life as they do now.

Imagine, as the Buddha once said, that our body, composed of five aggregates, is akin to a collection of foam, a shimmering mirage, the trunk of a banana tree, or an enchanting illusion—all are empty, void, and lack a solid core. Could it be that this collection of foam has an appointment to meet another collection of foam in the next life? Could it be that this shimmering mirage has an appointment to meet another shimmering mirage in the next life?

In the SN 55.45 Sutta, the householder Mahanama asks the Buddha, who is preparing to embark on a long journey, what advice a wise householder should offer when encountering another householder who is sick, in pain, seriously ill, or on the verge of death. The Buddha responds that a wise householder should encourage the seriously ill individual to find peace by maintaining firm faith in the Buddha, the Dhamma, and the Sangha, while also adhering to pure precepts.
A wise layperson should counsel the seriously ill individual to relinquish and completely abandon his longing for his parents, spouse, and children. Next, the wise layperson should advise the ill individual to give up his regret for the merits of the human world and quit dreaming of the heavenly world, as all worlds are impermanent. Additionally, he should guide the seriously ill person to focus his mind on the cessation of the notion of self, specifically the cessation of the five aggregates. The Buddha stated that by following this path, the ailing layperson would be no different from a liberated monk. (3)

That is what the Buddha taught: there is absolutely no such thing as vowing to see each other again in the next life. Recognize immediately that all dharmas are devoid of a permanent self. When this bubble of body and mind dissolves, no bubble will return in exactly the same form. Observe the swift flow of impermanence in the body, mind, and the world. All are in constant motion through endless time, akin to a small bean suspended on the tip of a needle, rotating endlessly. Always remember the teachings of Tuệ Trung Thượng Sỹ; witness your body and mind disintegrating with each passing moment, like a mud buffalo wading through a river.
---- December 2024. Written during a time when the artist Khanh Truong was seriously ill.
NOTES:
(1) AN 4.55 Sutta: https://suttacentral.net/an4.55/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/an4.55/en/bodhi
(2) SN 15:14–19 Sutta: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn15/sn15.014.than.html
(3) SN 55.45 Sutta: https://suttacentral.net/sn55.54/vi/minh_chau
or: https://suttafriends.org/sutta/sn55-54/
.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 21313)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 14995)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
05/09/2021(Xem: 17811)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
03/09/2021(Xem: 4927)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
03/09/2021(Xem: 7288)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
30/08/2021(Xem: 6055)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công. Khi đạt được mục đích rồi, vẫn phải tiếp tục nhẫn nhục, bởi vì ở đời, đâu phải người ta chỉ chịu nhẫn nhục trên con đường xây dựng sự nghiệp không thôi, mà còn phải đối đầu với những ganh tỵ phá rối của những kẻ xấu hãm hại mình trên nhiều phương diện khác. Nếu không nhẫn nhục chịu đựng thì mình rất dễ dàng có những hành động không kiểm soát đưa tới nguy hại cho chính bản thân mình và những người liên hệ. Cho nên có thể nói đức tính nhẫn nhục cần đi theo với mình suốt cả cuộc đời.
28/08/2021(Xem: 4494)
Tác phẩm "Crossing the Threshold of Hope" (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng) của Giáo Hoàng John Paul II ấn hành năm 1994. Nguyên tác bằng tiếng Ý, tới bây giờ đã dịch sang 53 ngôn ngữ. Trong sách, Giáo Hoàng có một số nhận định sai lầm về Phật Giáo.
07/05/2021(Xem: 21254)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
22/02/2021(Xem: 3933)
Với lịch sử 2500 năm, đạo Phật đã trải qua hàng trăm thế hệ nhân sinh mà mỗi thế hệ đều có dấu ấn của sự trải nghiệm riêng qua từng chặng đường lịch sử, xã hội, văn hóa và dân tộc. Hiện tại, lớp người trẻ trên thế giới này được mệnh danh là “Thế hệ Z” (Gen Z). Thế hệ Z là giới trẻ được sinh từ năm 1996 trở đi. Đây là thế hệ đầu tiên có cơ hội tiếp xúc với công nghệ điện tử ngay từ nhỏ. Thế giới khổng lổ và thay đổi từng giây nhanh như chong chóng của phương tiện truyền thông điện tử. Từ Facebook, Youtube, Tweeter, Instagram… đến mạng internet rộng lớn, thế hệ Z năng động, độc lập và tìm kiếm thông tin tính theo đơn vị phút trong khi thế hệ phụ huynh, cha ông phải tính theo ngày, theo tháng. Thế hệ Z thì đang đi với tốc độ máy bay mà thế hệ cha anh và ông bà thì vẫn còn đi với tốc độ xe hơi, xe má,y xe đạp hay thậm chí là đi bộ. Bởi vậy khoảng cách giữa các thế hệ càng ngày càng xa. Theo ước tính thì trong vòng khoảng 10 năm nữa (2030), thế hệ Z sẽ làm chủ thế giới về mọi
29/11/2020(Xem: 14670)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]