Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Tu Phật thất

16/01/201202:11(Xem: 8182)
03. Tu Phật thất

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
TU PHẬT THẤT

Phật thất, hai chữ này rất mới lạ đối với Phật tử Việt Nam chúng ta. Có người khi nghe hai chữ này thường nhầm lẫn là nhập thất. Vậy Phật thất và nhập thất nó khác nhau ở chỗ nào? Phật thất là 7 ngày niệm Phật, chữ thất này là số 7. Còn nhập thất là vào ở trong một căn nhà tu tập, chữ thất này là nhà. Phật thất mang tính cộng tu, nhập thất mang tính biệt tu. Phật thất cũng gần giống như tu Bát Quan Trai, nhưng khác nhau là Phật thất tu 7 ngày đêm, Bát Quan Trai tu một ngày đêm. Phật thất không thọ 8 giới mà mỗi người phải tự giữ giới của mình đã thọ và chấp hành đúng nội qui khoá tu đặt ra. Phật thất cũng có thể xem là đoản kỳ xuất gia (Xuất gia ngắn hạn). Bởi lẽ trong 7 ngày tu tại tự viện, họ phải sống đời phạm hạnh giống như tu sĩ.

Phật thất bắt nguồn tại Trung Quốc, được tổ chức từ lúc nào chúng tôi chưa có tài liệu để biết chính xác. Về nguyên nhân tổ chức Phật thất thì chắc chắn do các bậc Tổ sư Trung Quốc đã căn cứ vào Kinh A Di Đà. Kinh văn khuyên người chí thành niệm Phật từ một ngày đến 7 ngày, niệm đến nhất tâm bất loạn. Kết quả hiện tại thân tâm tịnh lạc, vị lai vãng sanh Phật Quốc. Do đó, các vị Tổ sư đã tổ chức Phật thất ở Trung Quốc gọi là đả Phật thất, cố giúp cho hàng Phật tử tại gia có điều kiện thuận lợi cắt bớt trần duyên, đến chùa thúc liễm thân tâm, tinh tấn niệm Phật. 

Về pháp tu, khoá tu Phật thất chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Đà, được chia ra làm 3 cấp tu, tuỳ theo khả năng tu tập của mỗi người mà chọn lựa. Cấp một gọi là Tín tâm niệm Phật, cứ 15 phút ngồi và 15 phút kinh hành, niệm Phật ra tiếng. Cấp hai gọi là chuyên tâm niệm Phật, ngồi niệm 30 phút, kinh hành 15 phút, niệm thầm. Cấp ba gọi là nhất tâm niệm Phật, ngồi từ một giờ đến hai giờ, niệm thầm. Thời khoá công phu mỗi ngày là 7 giờ chia làm năm thời. Ngoài thời khoá chính thức này, thì mở băng niệm Phật để Phật tử lúc nào cũng nhiếp tâm vào câu niệm Phật.

Để cho việc tu và học đạt kết quả tốt, mỗi ngày có một giờ pháp thoại do các vị giảng sư đảm trách. Thầy hướng dẫn cũng cần đặt ra năm tiêu chuẩn tu tập để Phật tử theo đó mà hành trì, được thể hiện qua câu lục bát:

Lục hòa, nghiêm tịnh, tinh cần
Nhất tâm an lạc trọn phần khoá tu.

Trong khóa tu, cần chú trọng đến bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Khi đi lên chánh điện công phu, đi ăn cơm đều phải xếp hàng trang nghiêm, đi phải khoan thai, ngồi phải thẳng lưng, kinh hành phải đúng nhịp chân và đúng vị trí ngay hàng thẳng lối. Trong lúc ăn cơm phải im lặng giữ chánh niệm. Đứng lên ngồi xuống phải nhẹ nhàng không nên kéo ghế gây tiếng động. Ngoài ba bữa ăn ra, không được ăn phi thời, không được ngủ nghỉ phi thời. Đặt ra nội qui nghiêm ngặt như thế nhằm mục đích giúp cho Phật tử thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Khi tâm nhiếp vào câu niệm Phật, thân có oai nghi tế hạnh thì ba nghiệp sẽ thanh tịnh. Nhờ sống bẩy ngày trong thiền môn qui củ, họï mới cảm nhận được giá trị của đời sống phạm hạnh, mới có đủ thời gian để rèn luyện oai nghi sửa đổi thói hư tật xấu. Do cách tổ chức khóa học, nội qui nghiêm ngặt, thời khoá công phu tu học hợp lý. Sau bẩy ngày tu học, Phật tử nhận được kết quả rất viên mãn cho thân và tâm. 

Cuối năm 1998, Người đầu tiên là Thầy Thích Chân Tính, ở chùa Hoằng Pháp Hóc Môn VN, sang Đài Loan tham quan các chùa có ghé thăm Phật Quang Sơn. Sáng hôm sau Thầy thấy một đoàn người hơn 600 vị, cả xuất gia lẫn cư sĩ đi hàng đôi vào trai đường. Một hàng người mặc hậu đen và y đen, một hàng người mặc đồ lam và áo tràng lam, giầy vớ đồng mầu đồng kiểu. Trong trai đường, từ khi họ vào đến khi ngồi xuống ăn uống đều trang nghiêm im lặng, ăn trong chánh niệm, không có tiếng động mạnh. Hôm sau quí Thầy đến chùa Linh Nham của Hoà Thượng Diệu Liên. Lúc đến chùa khoảng 19 giờ. Tại chánh điện có gần 1.000 Phật tử đang niệm Phật kinh hành. Tiếng niệm Phật trầm bổng như một bản nhạc hoà tấu nhịp nhàng. Đặc biệt các động tác đứng lên, ngồi xuống, kinh hành được thực hiện một cách thuần thục.

Với mô hình tu tập như trên hiện đã và đang được thực hiện tại một số chùa ở Việt Nam và ở hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ cũng đang được quí Thầy tổ chức tại một số tự viện hầu tạo điều kiện cho các Phật tử tại gia có cơ hội tham gia tu tập với ước mong làm bớt căng thẳng tinh thần ở một đất nước mọi người đang chạy theo thời gian tranh đua về vật chất. Tôi hy vọng mọi người Phật Tử nên dành thời gian đi tham gia các khoá tu tập Phật Thất để cho tinh thần được thanh thoát và tinh tấn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2012(Xem: 14749)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
20/11/2011(Xem: 20014)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
12/10/2011(Xem: 4066)
ó bốn cách nghiệp sẽ chín trong những kiếp tương lai: Nghiệp Chín Hoàn Toàn: là loại tái sanh mà tâm thức ta sẽ nhận lãnh khi nó tách rời thân thể ta trong giờ phút lâm chung. Hành Động Tương Đương với Nguyên Nhân: tất cả những lời nói, ý nghĩ và hành động ta tạo ra trong bất cứ kiếp sống nào là do những thói quen trong quá khứ. Kinh Nghiệm Tương Đương với Nguyên Nhân: tất cả những gì người khác hay các chúng sanh khác đối xử với ta, hay những gì xảy ra cho ta. Nghiệp Quả Qua Môi Trường (Y báo): thế giới xung quanh ta ra sao: ô nhiễm, tươi đẹp, bị động đất v.v..., đều do cộng nghiệp của tất cả chúng sanh sống trong môi trường đó.
28/09/2011(Xem: 3918)
Tứ Tất Đàn, tiếng Phạn là catvari siddhanta; catvari có nghĩa là tứ và siddhanta phiên âm là tất đàn, có khi còn được phiên âm là “ Tất Đàm”, và dịch là “Tác Thành Tựu”, có nghĩa là làm cho công việc thuyết pháp của Đức Phật được thành tựu. Chữ siddhanta, Hán dịch là "thành tựu", nghĩalà nhờ dựa vào bốn phương pháp này, mà Đức Phật thuyết pháp và thành tựu được sự nghiệp hoằng hóa, giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh từ mê lầm đến giácngộ, từ sinh tử đến Niết Bàn, từ phàm lên Thánh, từ mê lầm đến sự hiểu biết cao thượng.
25/06/2011(Xem: 4030)
Người tại gia tu theo đạo Phật, thông thường được gọi là Cư Sĩ. Như thế nào là một vị Cư Sĩ ? có điều gì khác với người tại gia bình thường ? Phật giáo Trung Quốc, có rất nhiều người tín ngưỡng Phật giáo, nhưng cũng có nhiều người hiểu sai về giáo lý đức Phật, họ cho rằng: “ Các Tự Viện thờ cúng tượng Phật, Tăng Ni tụng kinh cho người chết, đánh chuông, gõ mõ, vv… chính là đại diện cho Phật giáo”. Vì thế, nhiều người đã nhận định Phật giáo là tiêu cực, là trốn tránh hiện thực. Kỳ thật, những điều này chỉ là nghi thức Phật giáo của người xuất gia và truyền thống Phật giáo đã bị biến chất theo phong tục tập quán. Tín đồ Phật giáo chia làm hai hạng người: Xuất Gia và Tại Gia. Bổn phận của người Xuất Gia là tu đạo, truyền đạo và duy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
12/06/2011(Xem: 3052)
Tám loại khổ (i) Sinh: * Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ. * Không những chỉ có sự đau đớn lúc chào đời mà thôi, ta còn trải qua những đau khổ của lão, bệnh và tử.
07/06/2011(Xem: 4198)
Vào ngày 2 tháng Tư, Lama Zopa Rinpoche đã ban bài giảng để khai mạc khóa tu kéo dài một tháng được tổ chức tại Bendigo, Úc châu trong Đại Bảo Tháp Bi mẫn Phổ quát. Lời khuyên dạy vô cùng phổ biến này được trích dẫn vì sự lợi lạc của tất cả những người không thể tham dự khóa tu:
30/05/2011(Xem: 9240)
Chương 183: Thời Kỳ Tiền Phật Giáo trên Thế Giới Pre-Buddhism Period in the World Chương 184:Lịch Sử Các Bộ Phái Phật Giáo Cổ History of Ancient Buddhist Sects Chương 185: Tông Phái Phật Giáo—Buddhist Schools Chương 186: Lục Sư Ngoại Đạo—The Six Heretical Masters Chương 187: Phật Giáo Thế Giới—Buddhism in the World Chương 188: Phật Giáo Việt Nam—Buddhism in Vietnam Chương 189: Những vị Cao Tăng Nổi Tiếng của Việt Nam Vietnamese Famous Buddhist Monks Chương 190: Những vị Cao Tăng Nổi Tiếng của Trung Hoa Chinese Famous Buddhist Monks
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567