Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

50. Quan Thánh

24/02/201116:04(Xem: 9459)
50. Quan Thánh

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

50. Quan Thánh

Ngài tên thật là Vỏ tự là Vân Trường, tục danh là Quan Công. Ngài sinh ở tỉnh Sơn Đông, miền Đông Bắc nước Tàu bây giờ. Thủa nhỏ, Ngài rất ham học và thích nghiền ngẫm kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử. Tưởng cũng nên nhắc lại là khi vua Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc vào năm 215 trước Tây lịch và sau đó ông Lưu Ban đánh đuổi nhà Tần để khôi phục cho nhà Hán vào năm 196 trước Tây lịch. Nhà Hán thịnh khoảng 400 năm cho đến khi nhà Đông Hán mất ngôi và nước Tàu được chia làm ba: Tây Thục (Lưu Bị), Bắc Ngụy ( Tào Tháo) và Đông Ngô (Tôn Quyền). Đó là năm 220 sau Tây lịch. Cùng khoảng thời gian này thì ở Việt Nam nước ta có bà Triệu (tức Triệu thị Chính) nổi dậy vào năm 248 sau Tây lịch để chống lại với Thứ sử Giao Châu là Lục Dận của Đông Ngô sai sang.

Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang ở trong tình trạng suy vi, hoạn quan thì kết bè, kết đảng lộng quyền ở bên trong. Còn ở bên ngoài thì giặc Huỳnh Cân nổi lên cướp phá. Một ngày kia, Quan Vỏ gặp được một người tường mạo phi thường có tên là Huyền Đức, là chú của giòng vua và một người nữa râu hàm tướng mạnh có tên là Trương Phi. Ba người mặc dầu không hề quen biết nhau, nhưng cùng một chí hướng là muốn khôi phục lại nhà Hán, nên đã cùng nhau kết nghĩa anh em, thề đồng sanh đồng tử tại vườn đào của nhà họ Trương.

Vì Trương Phi là giàu có, nên xuất tiền ra mua ngựa và khí giới cho ba người. Lúc bấy giờ, Huỳnh Cân thanh thế rất mạnh lại có Trương Giác dùng yêu thuật giúp đỡ, nhưng quân của Lưu Bị đã đánh tan và được vua Hiến Đế mời vào cung thiết đãi và cũng vì thế mà mới biết Lưu Bị là Hoàng thúc của vua.

Lúc thất thủ thành Hạ Bì, thì ba anh em chạy lạc nhau. Quan Vân trường phò nhị tẩu chạy đến Thế Sơn, nhưng Tào Tháo biết được liền cho Trương Liêu, là bạn của Quan Vỏ ngày xưa, đến để dụ Ngài ra hàng. Biết là thế cùng, lực tận, Ngài liền tương kế, tựu kế, đưa ra ba điều kiện: Ngài hàng Hán chớ không hàng Tào, không được quấy phá nhị tẩu và bất cứ khi nào có tin của Lưu Bị thí phải cho Ngài đi ngay. Tào Tháo miễn cưởng phải cho Ngài hàng. Trong thời gian ở với Tào, thì Tào Tháo tiếp đãi ngài rất trọng vọng, tam nhựt thì tiểu yến, thất nhựt thì đại yến, muốn gì được nấy, cốt là làm cho Quan Vỏ siêu lòng mà hàng phục. Tào thấy râu của Ngài dài, bèn truyền may bọc để bọc râu của Ngài khỏi lạnh vào mùa đông. Để đáp lại việc hậu đãi đó, Quan Vỏ ra trận giết hai tướng Nhan Lương, Văn Xú của Viên Thiệu. Thấy thế Tào Tháo lại càng khâm phục hơn.

Khi nghe tin Lưu Bị đang ở Hà Bắc với Viên Thiệu, thì Ngài xin đi ngay. Nhưng qua bao nhiêu lần cầu khẩn, Tào Tháo cứ tránh mặt không tiếp. Sau cùng, Ngài liền gói ấn Thọ Đình Hầu cùng vàng bạc châu báu của Taò Tháo ban cho lâu nay, niêm lại kỹ càng và giao người đem trả lạ cho Tào. Nhưng khi ra đi, Ngài bất đắc dĩ phải phá ngũ quan và chém đầu 6 tướng giữ ải của Tào. Tào Tháo đuổi theo, nhưng biết không thể nào giữ nổi, nên truyền tặng cho Ngài chiếc Cẩm bào để lưu niệm. Ngài vẫn ngồi trên lưng con xích thố (ngựa màu đỏ), lấy thanh long đao vớt lấy Cẩm bào, nghiên mình tạ ơn rồi ra đi.

Một thời gian sau, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền để đánh Tào. Vì bị kế của Khổng Minh, Tào Tháo thua lớn trận Xích bích trên sông Trường giang nên kéo tàn binh chạy về ngã Hoa Dung Đạo. Quan Vân Trường nhận lịnh của Khổng Minh đem quân chờ sẵn để lấy đầu Tào Tháo. Vừa gặp Quan Vân Trường, Tào Tháo hồn phi phách tán, vội vàng xuống ngựa hạ mình kể lễ những sự hậu đãi của hắn ngày xưa (người đời về sau thường nói kể lễ như Tào Tháo là bắt nguồn từ chuyện này). Quan Vân Trường là con người nghĩa khí cầm lòng chẳng đặng, đành làm ngơ cho Tào Tháo chạy. Khi về dưới trướng, Quân sư Khổng Minh truyền đem Ngài ra chém để làm lịnh. Nhờ tất cả triều thần can gián nên Ngài mới thoát khỏi tội chết.

Khi Lưu Bị đem quân vào đất Thục thì để Quan Công ở lại giữ Kinh Châu, bởi vì Kinh Châu thì liên giáp với nước Ngô nên Tôn Quyền lúc nào cũng muốn gồm thâu để tăng thêm thế lực.

Khi Tôn Quyền sai Lục Tốn đến thay đại tướng Lử Mông để đánh Quan Công, thì ông không còn đề phòng như trước. Lý do là đại tướng Lử Mông là tay văn vỏ song toàn, làu thông binh cơ chiến pháp thành thử Quan Công phòng thủ kỹ càng. Do đó mà đánh mãi Lử Mông cũng không cách gì thắng được. Tôn Quyền là tay xảo quyệt, hắn bèn thay Lử Mông bằng một tên thư sinh vô danh tiểu tốt, nhưng bên trong chất chứa một kho tàng chiến lược. Khi nghe tin Lục Tốn đến thay, thì Quan công mỉm cười khinh địch, không còn phòng thủ như trước nữa, vì cứ tưởng Lục Tốn là bạch diện thư sinh, không có kinh nghiệm chiến trường.

Bởi sự khinh địch này mà Ngài để thất thủ thành Kinh Châu. Sau khi thất thủ, Ngài chạy qua ngã Mạch Thành và sa vào quỷ kế của Tôn Quyền nên cả người lẫn ngựa bị sa xuống hầm và bị bắt. Tôn Quyền sai Gia Cát Cẩn đến dụ Ngài đầu hàng, nhưng quân sư của Tôn Quyền khuyên nên giết đi để trừ hậu hoạn vì ngày xưa Tào Tháo còn không dụ nổi Quan Công huống hồ gì Tôn Quyền. Cho dù Gia Cát Cẩn khuyên dụ, nhưng Quan Công nhứt định không hàng, nên Ngài cùng với con nuôi là Quan Bình và cận tướng Châu Thương bị giết chết ngày 18 tháng 10 năm Kiến An thứ 24, thọ được 58 tuổi. Con ngựa xích thố cũng bỏ ăn mà chết theo.

Khi bị giết, thì hồn của Ngài bay về chùa Ngọc Tuyền. Nơi đây có vị Hòa Thượng tên Phổ Tịnh mà khi xưa có duyên với Ngài, để đòi hoàn đầu lại. Nhưng sau khi nghe Hòa Thượng thuyết pháp về các việc oan trái ở đời, thì Ngài tỉnh ngộ mà quy y theo Phật. Sau Quan Công chứng được quả Già Lam Bồ-tát, rồi quả Cái Thiên Cổ Phật và Quan Thánh Đế Quân. Cùng theo với Ngài còn có hai vị tả hữu là Quan Bình và Châu Thương.

Mặc dầu Ngài đã mất cách nay mấy ngàn năm, nhưng người đời vẫn luôn luôn kính mến Ngài, không phải vì Ngài là một danh tướng, mà chính là cái phong cách quân tử với đầy đủ đức độ như: nhân, nghĩa, trí, dũng của Ngài.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2020(Xem: 14753)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
13/03/2020(Xem: 20000)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
11/10/2018(Xem: 8106)
Khi chúng ta đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được nhẹ nhàng, thư thái, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết buị bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong Đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối.
29/09/2018(Xem: 9639)
Thái tử Siddhãrtha Gautama (Pãli) hay Siddhattha Gotama (Sanskrist) hoặc Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa) Cồ-Đàm, sau khi thành đạo được các Phật tử tôn kính xem Ngài là một bậc đạo sư vĩ đại, vì Ngài là người đã giác ngộ viên mãn, là người tự biết mình thực sự thoát khỏi vòng quay luân hồi sinh tử, là người hiểu rõ được nguyên tắc vận hành khách quan của hiện tượng thế gian. Sau đó truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người hữu duyên không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dạy họ phương pháp tu tập chấm dứt khổ đau phiền não trong cuộc sống thế gian, hầu kinh nghiệm được hạnh phúc tối thượng.
15/12/2017(Xem: 87611)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137861)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 28584)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15584)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9908)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
09/04/2016(Xem: 16531)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]