- 1. Tiểu sử Đức Phật Thích Ca
- 2. Đời là bể khổ
- 3. Xuất gia tìm đạo
- 4. Thành đạo
- 5. Hóa độ chúng sinh
- 6. An Cư Kiết Hạ và Tịnh Xá
- 7. Pháp Nạn
- 8. Tam tạng kinh
- 9. Đức Phật nhập diệt
- 10. Lời Tán Thán Đức Phật
- 11. Phổ Hiền Bồ Tát
- 12. Văn Thù Sư Lợi Bổ Tát
- 13. Nghiệp và Nghiệp Quả
- 14. Luân Hồi
- 15. Sự Thờ Cúng và Lễ Bái
- 16. Nhân Quả
- 17. Giới thiệu Kinh Pháp Hoa
- 18. Nhẫn nhục
- 19. Từ Bi Hỷ Xả
- 20. Bố Thí Ba-la-mật
- 21. Ý Nghĩa Chữ Vạn Trong Phật Giáo
- 22. Trì Giới Ba-La-Mật
- 23. 32 Tướng Tốt Của Đức Phật
- 24. Quy y Tam Bảo
- 25. Sự Tích Kinh Lăng Nghiêm
- 26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức
- 27. Giới Thiệu Kinh Hoa Nghiêm
- 28. Vô Thường – Vô Ngã
- 29. Con Người Từ Đâu Đến
- 30. Kinh Kim Cang Bát Nhã
- 31. Tứ Diệu đế
- 32. Khổ đế
- 33. Tập đế
- 34. Diệt đế
- 35. Niết bàn
- 36. Đạo đế
- 37. Tứ niệm xứ
- 38. Tứ chánh cần
- 39. Ngũ căn – Ngũ lực
- 40. Thất Bồ-đề
- 41. Bát chánh đạo
- 42. Bồ-tát Di Lặc
- 43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma
- 44. Thiền
- 45. Đức Phật A Di Đà
- 46. Đại Thế Chí Bồ Tát
- 47. Quán Thế Âm Bồ Tát
- 48. Pháp tu Tịnh độ
- 49. Ăn chay
- 50. Quan Thánh
- 51. Nho Giáo
- 52. Đạo giáo
Lê Sỹ Minh Tùng
(Saddharma Pundarika Sutra)
Kinh Pháp Hoa nguyên văn là: “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, được xem như là bộ kinh siêu việt vĩ đại nhất của Phật giáo đã được xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II sau Tây lịch.
Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm thì giáo đoàn bắt đầu chia rẽ. Họ giải thích quan điểm, giáo lý và giới luật của Phật giáo tùy theo các nhóm, các phái và giữa các vùng khác nhau. Sự phân chia tông phái mỗi ngày mỗi tăng, có đến 20 tông phái do đó tinh thần giáo lý Nguyên thủy được ghi nhớ và giải thích có phần lệch lạc.
Những người Phật tử trí thức và đầy tâm huyết muốn thấy Phật giáo có sự sống sinh động và có tác dụng tích cực như thời Đức Phật còn tại thế nên họ đứng lên khởi xướng phong trào mới có tên là Đại thừa (Mahayana), tức cỗ xe lớn chứa được nhiều người đến nơi Phật quả. Còn Phật giáo truyền thống được coi là Tiểu thừa tức cỗ xe nhỏ, ích kỷ, mà chỉ chứng được quả A La hán là tối đa. Sự va chạm giữa Đại thừa và Tiểu thừa đã xảy ra một cách mạnh mẽ, đến độ không ai chấp nhận ai. Những kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện trong đó bộ Bát Nhã là bộ kinh lớn xuất hiện khá sớm, khai triển tư tưởng Chân không, tích cực đã phá Tiểu thừa, cho rằng hạng Tiểu thừa không phải là con của Phật.
Sự đã phá chỉ trích lẫn nhau đã làm cho Phật giáo suy yếu. Trong bối cảnh đó, Kinh Pháp Hoa xuất hiện, với chủ trương hòa giải mọi mâu thuẩn của hai dòng tư tưởng Đại thừa và giáo lý truyền thống để tạo sự thống nhất về tư tưởng và đường lối Phật giáo.
Kinh Pháp Hoa là tổng hợp những tư tưởng cốt tủy của Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Duy Ma Cật, đồng thời mở ra chân trời mới cho tất cả mọi con người trong xã hội. Đó là ai ai cũng có Phật tánh do đó ai ai cũng có khả năng thành Phật. Kinh Pháp Hoa không trình bày theo khía cạnh triết học mà theo phương cách mới có tính chất đại chúng, thực tiển và dễ hiểu cho nên Kinh Pháp Hoa được xem như là vua của các kinh.
Chữ Kinh Pháp Hoa được dịch ra từ tiếng Phạn: Saddharma Pundarika Sutra. Sad có nghĩa là diệu, Dharma là pháp, Pundarika là hoa sen trắng và Sutra là kinh. Dịch là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay gọi tắt là Pháp Hoa Kinh.
Diệu pháp là chân lý mà chân lý thì có chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Hoa sen trắng tượng trưng cho sự thanh khiết, thanh tịnh và không ô nhiễm. Nói một cách khác là chúng sanh ở trong cõi ta bà nầy vẫn có thể vươn lên để được giải thoát hoàn toàn, như hoa sen mọc ở trong bùn mà vươn lên trên bùn, không bị ô nhiễm mà còn tỏa sắc hương.
Kinh Pháp Hoa có tất cả 28 phẩm:
1) Phần đầu tức là phẩm mở đầu.
2) Phẩm phương tiện (sự khéo léo).
3) Phẩm thí dụ.
4) Phẩm tín giải (niềm tin vững chắc).
5) Phẩm dược thảo (nói về cây thuốc).
6) Phẩm thọ ký (xác nhận thành Phật).
7) Phẩm hóa thành dụ (thí dụ về thành phố biến hóa)
8) Phẩm ngũ bách đệ tử thọ ký (xác nhận cho 500 đệ tử thành Phật).
9) Phẩm thọ học vô học nhân ký (xác nhận cho những người cần phải học và người không cần phải học thành Phật).
10) Phẩm pháp sư (thầy dạy pháp).
11) Phẩm hiện bảo tháp (hóa hiện tháp báu).
12) Phẩm Đề Bà Đạt Đa.
13) Phẩm trì (giữ gìn kinh).
14) Phẩm an lạc hạnh.
Trong 14 phẩm trên được gọi là phần Tích môn. Phần nầy nói về giáo lý của Đức Phật Thích Ca khi sanh ra, lớn lên, xuất gia, thành đạo, nhập diệt và dạy giáo lý thoát khổ ở cõi thế gian nầy.
Trong kinh, phần nào Đức Phật thuyết pháp ở núi Linh Thứu thì thuộc về Tích Môn cũng còn gọi là Chân lý tương đối. Và sau đó thì có:
1) Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất (từ đất vọt ra).
2) Phẩm Như Lai Thọ Lượng.
3) Phẩm Phân Biệt Công Đức.
4) Phẩm Tùy Hỷ Công Đức.
5) Phẩm Công Đức Pháp Sư.
6) Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát.
7) Phẩm Như Lai Thần Lực.
8) Phẩm chúa Lụy (dặn dò).
9) Phẩm Dược Vương Bồ Tát.
10) Phẩm Diệu Âm Bồ Tát.
11) Phẩm Quán Thế âm Bồ Tát.
12) Phẩm Đà-la-ni (mật chú).
13) Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự(chuyện về vua Diệu Trang Nghiêm).
14) Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (sự khuyến khích của Bồ tát Phổ Hiền).
Trong 14 phẩm trên thuộc về phần Bổn môn. Phần Bổn môn là phần gốc, là nền tảng của Tích môn. Bổn môn có nghĩa là Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Phật hiện hữu suốt chiều dài của thời gian và phổ biến cả không gian. Chân lý của Bổn môn là tuyệt đối. Cũng nhờ giáo lý Bổn môn nầy mà giải thích tất cả chúng sanh có thể thành Phật bởi vì trong tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây là điểm đặc thù của Kinh Pháp Hoa. Chính do nghĩa lý nhiệm mầu sâu xa của kinh nầy mà Ngài Trí Giả Đại sư (538-597) một người đã theo học pháp môn Pháp Hoa đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng, dựa vào bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại nầy để dựng lên một tông phái mà một thời được coi như lẫy lừng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc với uy tín hầu như đã bao trùm toàn bộ Phật giáo phía Nam Trung Quốc. Đó chính là Thiên Thai Tông. Năm 594, người được coi là khai tổ cho nền văn minh Nhật Bản, Thánh Đức Thái tử (Shotoku) đã tập trung tất cả ý thức lãnh đạo dân tộc Nhật vào ba quyển kinh mà Kinh Pháp Hoa được xem là quan trọng nhất.
Kinh Pháp Hoa được dịch rất sớm và có rất nhiều bản dịch khác nhau. Nhưng ngày nay chỉ còn ba bản dịch trong Đại tạng là:
1. Chánh Pháp Hoa 10 quyển, do ngài Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn (265 Tây lịch).
2. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 5 quyển do ngài Chi Đạo Căn dịch đời Đông Tấn (335 TL).
3. Thiêm Phẫm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7 quyển do hai ngài Xà-la-hốt-đa và Đạt-ma-cấp-đa cùng dịch vào đời Tùy (601 Tây lịch).
Cũng vì tính cách quan trọng của bộ kinh nầy mà trước khi nói Kinh Pháp Hoa, trong pháp hội đông đảo đại chúng gồm chư Bồ tát, đại Tỳ kheo, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la… Đức Thế Tôn đã nhập vào đại định, phóng hào quang chiếu soi khắp mười tám ngàn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các Đức Phật, khiến đại chúng trong đó có cả Bồ tát Di Lặc, vô cùng kinh ngạc trước phép lạ hy hữu từ trước đến nay chưa từng có và không biết do nhân duyên gì mà mà lại có điềm lành nầy. Thêm nữa, Kinh Pháp Hoa đã dành cho Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Bồ tát đại biểu cho trí tuệ siêu việt) cái nhiệm vụ vô cùng vinh dự là thông báo cho đại chúng biết một thời pháp vô cùng quan trọng của Đức Bổn Sư. Đây là vai trò thị giả phát ngôn của Phật, đồng nghĩa với người điều khiển chương trình thời nay. Cũng như Đại Thế Chí Bồ tát (tượng trưng cho trí tuệ) là thị giả cho Phật A Di Đà vậy.
Sau cùng, Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các tông phái Phật giáo. Mặt khác chính kinh nầy đã đặt lại giá trị của mọi đường lối tu tập và nhất là giá trị tâm thức hướng thiện, hướng thượng của tất cả chúng sanh. Với một đường lối dung hòa và với tư tưởng pháp chân không siêu thoát, Kinh Pháp Hoa đã đạt được mục đích của mình là khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Vì những lý do đó mà kinh được tôn thờ, quý kính, hành trì và phổ biến một cách sâu rộng trong cộng đồng Phật giáo khắp nơi.
Tạp niệm là bịnh, niệm Phật là thuốc, niệm Phật chính là để trị tạp niệm. Nêu chưa thấy kết quả thì tại vì chúng ta chưa dụng công hoàn mãn. Cho nên khi tạp niệm nổi lên, phải chuyên lòng gia công niệm Phật. Mỗi chữ, mỗi câu niệm Phật tinh nhất không xao lãng thì tạp niệm dứt.