Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34. Diệt đế

24/02/201116:04(Xem: 9572)
34. Diệt đế

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

34. Diệt đế
(Nirodha Dukkha) (Cessation of Suffering)

Qua hai phần Khổ đế và Tập đế thì chúng ta đã quen thuộc với đời là biển khổ và nguyên nhân nào đưa đến những cảnh khổ nầy. Nói như thế, không phải Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy đời là biển khổ để chúng ta nhìn cuộc đời này toàn là một màu đen âm u ảm đạm và không có chút ánh sáng. Sống như thế thì ích lợi gì? Và chân lý như vậy thì làm sao mà gọi là chân lý tối thượng cho được? Xin trả lời rằng giáo lý nhà Phật là một giáo lý hoàn toàn viên mãn để mang lại hạnh phúc chân thật cho tất cả mọi người. Đứng về phương diện tâm lý thì Đức Phật cho ta thấy rằng: khi đói thì mình mới thấu hiểu được giá trị lúc được no, cũng như kẻ nghèo thì sẽ sung sướng khi được giàu sang và khi đau ốm mới thấy giá trị của lúc còn lành mạnh. Cùng một ý nghĩa đó, Đạo Phật không phải chỉ giới thiệu những cảnh khổ ải, thê lương để gieo vào lòng chúng ta sự chán đời và tuyệt vọng, mà có mục đích để khai thị cho chúng sinh biết rõ tận căn cơ của mọi sự khổ để tìm phương pháp đạt đến một chân hạnh phúc và chứng được Niết Bàn.

Trong thế gian này chúng ta thường thấy có hai hạng người:

1) Hạng người thứ nhất là họ nhìn cuộc sống này với một tư tưởng lạc quan. Họ rất yêu đời bởi vì họ đang hưởng thụ giàu sang phú quý và công danh thành đạt. Cuộc đời này đối với họ thì lúc nào cũng đẹp như bài thơ nên họ không cần phải tu nhân tích đức và lo cho ngày mai. Họ nghĩ rằng với sự giàu có như vậy thì người khác cần đến họ chứ họ chả cần đến ai. Đối với những người nầy thì vật chất, tiền tài và danh vọng đã làm tâm trí của họ bị lu mờ. Họ chỉ thấy ngày nay mà quên đi ngày mai. Họ chỉ biết hiện tại mà không nghĩ gì đến kiếp tương lai. Phật giáo gọi họ là những kẻ không sáng suốt, mê muội. Tai sao thế? Chúng ta thấy trên thế gian nầy có ai giàu sang, quyền thế hơn vua Tần Thủy Hoàng ngày xưa chưa? Vậy vua nhà Tần bây giờ ở đâu? Có lẽ ông ta đã tiêu ma thành cát bụi từ mấy ngàn năm rồi còn đâu nữa mà an hưởng! Nên nhớ là cuộc đời tạm bợ mà chúng ta đang sống nầy chẳng khác chi là quán trọ chứ đâu phải là nhà. Họ có thể sung sướng ngày nay hoặc là kiếp nầy nhưng ngày mai, kiếp sau thì sao? Họ có thể thoát ra khỏi cảnh ốm đau, già yếu được không? Còn thân tứ đại của họ kéo dài được bao lâu để cho họ an hưởng? Cái sung sướng vật chất tạm bợ có phải là sung sướng chân thật không? Hay là càng giàu thì càng lo! Càng trèo cao thì càng té nặng.

2) Còn hạng người thứ hai là loại người thông minh và có trí tuệ sáng suốt. Thật vậy, chỉ có sự thức tỉnh sáng suốt mới cho chúng ta thấy đâu là mê, đâu là thật. Không phá mê thì làm sao mà khai ngộ cho được? Những hạnh phúc trên trần gian nầy đều là sự sung sướng giả tạo. Bởi vì khi vừa mới chớm thấy sung sướng thì chúng ta đã lo lắng bồn chồn, không biết sự sung sướng này sẽ kéo dài bao lâu. Lo lắng là đau khổ chứ ai gọi là sung sướng bao giờ. Thế thì chưa thấy sung sướng mà đau khổ đã hiện lên rồi. Người thông trí tuệ thì biết rằng mọi cấu tạo trên thế gian đều là vô thường bao gồm cả cái thân tứ đại của chúng ta. Một khi đã là vô thường thì làm sao mà tồn tại bất biến mãi mãi cho được. Nay có, mai không, lúc ẩn, lúc hiện biến chuyển quay cuồng theo thời gian.

Vậy đâu là chân hạnh phúc?

Đây là điểm hay nhất trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật vì nó là cứu cánh của chúng sinh khi tu đạo. Thử nghĩ cả đời chúng ta cố gắng tu hành mà cuối cùng không đạt đến chỗ này được thì thực là uổng công phí sức. Cũng như người học sinh cho dầu có học hành cực khổ cách mấy mà không thi đỗ thì chẳng ích lợi gì. Công trình dồi kinh mài sử chẳng khác nào như dã tràng xe cát biển đông mà thôi. Chỉ khi nào chúng ta chứng được chân hạnh phúc thì lúc đó chúng ta mới thật sự đạt được hạnh phúc viên mãn và không còn bị chi phối bởi luật sanh tử luân hồi cũng như không còn phiền não chấp trước đeo đuổi ta nữa.

Vậy thế nào là chân hạnh phúc?

Phật giáo không dạy con người những hạnh phúc tạm bợ nhất thời của thế gian vì chính nó là cội nguồn của biết bao lo âu phiền não và khổ đau sau nầy. Chẳng hạn như chúng ta vừa mới mua một cái nhà thật sang thật đẹp. Ngày tân gia chắc chắn phải là ngày mà gia đình hảnh diện và hạnh phúc. Nhưng cái hạnh phúc nầy kéo dài bao lâu? Vài tháng sau thì chủ nhà phải lo lắng nào là tiền nhà, tiền thuế, tiền bảo hiểm, tiền bảo trì và bao nhiêu món tiền khác liên quan đến căn nhà nầy. Vậy cái hạnh phúc nhất thời trong vài tháng đầu có phải là cội nguồn của biết bao lo lắng buồn phiền của những năm tháng sau nầy. Vì thế hạnh phúc mà đạo Phật nhấn mạnh ở đây chính là sự an lạc, thanh tịnh trong tâm của con người. Đây chính là Niết bàn trong trần thế vậy.

Sau cùng, Diệt đế là chân lý chân thật, chắc chắn và giúp chúng sinh đạt được một hạnh phúc chân thật, viên mãn. Một khi chúng sinh chứng được quả vị nầy thì chúng sinh đó đã chứng được Niết Bàn vậy.

Nhưng trước khi nói về Niết Bàn, chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị tất cả những giai đoạn từ lúc mới bắt đầu tu cho tới khi đạt đến quả vị Bồ-tát, và Phật. Vâng, đây không phải là việc dễ dàng mà đạt được. Nhưng nếu chúng ta cố gắng trì công thì giấc mơ kia một ngày nào đó sẽ biến thành sự thật. Bởi vì ngày xưa Nguyễn Bá Học cũng nói:” Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Hay là:” Không sợ bông hồng kia có quá nhiều gai, mà chỉ sợ trong những gai kia không có một đóa hoa hồng mà thôi”. Thật vậy, Đức Phật đã hiểu rõ sự khó khăn nầy nên Ngài đã chế ra 84,000 pháp môn khác nhau để giúp chúng sinh tùy theo căn cơ và khả năng của mình mà cố gắng tu hành ngõ hầu đạt thành chánh quả. Do đó mới có câu:

“Nắm lấy chuổi tràng trần niệm dứt,

Nghiểm nhiên thành Phật đã từ lâu”.

Vậy chúng ta phải qua những giai đoạn nào?

Tu Gia Hạnh: Đây là giai đoạn khởi đầu trong cuộc đời tu hành của chúng ta. Việc đầu tiên là phải thông qua giáo lý căn bản của đạo Phật bắt đầu từ luật Nhân quả Luân hồi, thuyết Vô thường Vô ngã, Nghiệp căn và Nghiệp báo, Từ Bi hỷ xả, Bố thí, Trì giới và cuối cùng là Tứ diệu đế. Một khi quý vị đã nắm chắc những điều căn bản đó thì những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan biến mất.Tuy nhiên, muốn trừ bỏ tất cả mọi Kiến hoặc, thì chúng ta phải cần nhiều thì giờ tu tập để loại mọi thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào vòng Thánh quả.

1) Tu-Đà-Hoàn: Một khi đã qua được giai đoạn đầu thì ý thức của chúng ta đã sáng suốt không còn bị mê lầm nữa. Tuy nhiên thất thức vẫn còn chấp ngã nên chúng ta vẫn còn nằm trong vòng luân hồi sanh tử. Một khi phá được cái chấp ngã thì chúng ta đã chứng được vị Tu-Đa-Hoàn.

2) Tư-Đà-Hàm: Sau khi chứng được quả Tu-Đà-Hoàn ở trên, có nghĩa là chúng ta đã loại được Kiến hoặc nhưng chưa đụng tới Tư hoặc. Tư hoặc là loại nặng ký và gồm có 9 phần (hạ hạ, hạ trung, hạ thượng, trung hạ, trung trung, trung thượng, thượng hạ, thượng trung, thượng thượng). Nếu chúng ta đạt được 6 phần đầu thì quý vị đã chứng được Tu-Đà-Hàm. Đây là quả vị thứ hai trong Thánh văn thừa.

3) A-Na-Hàm: tạm dịch là bất lai, có nghĩa là không trở về cõi dục nữa. Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng của kẻ tu hành bởi vì khi bước qua ngưỡng cửa này thì họ không còn ảnh hưởng của sự sanh tử nữa. Họ sẽ không còn bị tái sanh trừ khi chính họ phát nguyện trở lại cõi nầy để độ sanh. Nếu chúng ta cố gắng đạt 3 phần còn laị của Tư hoặc thí quý vị đã chứng được quả A-Na-Hàm.

4) A-La-Hán: Khi chúng ta đã bỏ được những mê lầm của Kiến hoặc và Tư hoặc thì việc sau cùng là phải cố gắng loại bỏ phần còn lại của mê lầm là Vi Tế hoặc.

Ø Đối với Tham vi tế, chúng ta có thể dùng Thiền định để đạt minh Tâm kiến tánh hoặc Niệm Phật cho đến khi nhất Tâm bất loạn để chế phục và tiêu diệt nó.

Ø Đối với Sân vi tế, đối với loại nầy thì thật khó mà nhận biết được những hiện tượng nhỏ nhặt nầy bởi vì nó chỉ phát hiện dưới hình thức tiềm năng. Chẳng hạn như đôi khi chúng ta cảm thấy chán nản buồn bực mà không hiểu tại sao. Những tình cảm này xuất hiện rất yếu ớt đến nổi chúng ta chỉ có thể cảm nhận nó một cách mơ hồ hoặc là đôi khi không thể nhận biết được. Để trừ Sân vi tế, con người phải phát tâm Bồ-đề, tham thiền hay niệm Phật để làm cho tâm trong lành, hiền hòa. Cố gắng làm cho mọi người được an vui thì tâm của họ sẽ an tịnh.

Ø Đối với Si vi tế, chúng sinh phải phát huy trí tuệ để giúp cho tâm thanh tịnh bởi vì trí tuệ lúc nào cũng thắng vô minh.

Khi đã loại bỏ mọi Vi Tế thì chúng sinh đã chứng được quả A-La-hán. Đây là quả vị cao nhất trong Thanh văn thừa. Đến đây, thì quý vị có phước đức hoàn toàn, trí tuệ cao cả, không còn bị phiền não quấy phá, và dĩ nhiên không bị luân hồi sanh tử chi phối nữa. Đối với con người, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử là một thành công vĩ đại bởi vì họ không bị sống chết, khổ đau, lo buồn và sợ hãi chi phối nữa.

Khi đã chứng được quả vị A-La-hán thì chúng sinh có hai chọn lựa:

1) Nếu chúng sinh thỏa chí với địa vị này mà không muốn phát tâm tu thêm để đạt những quả vị cao hơn thì được gọi là Bất hối tâm đơn A-la-hán.

2) Nếu chúng sinh có lợi căn lợi trí và muốn phát tâm tu luyện thêm chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng thì được gọi là Hồi tâm đại A-la-hán.

Thêm một điểm nữa là khi tu luyện, hể chúng ta đoạn trừ mê lầm được chừng nào thì chứng quả đến chừng ấy chớ không phải chờ sanh qua kiếp khác mới chứng được quả kia đâu.

Một khi quý vị chứng được quả Tu-Đa-Hoàn thì chúng sinh có được 5 phép thần thông sau đây:

1) Thiên nhãn thông: là có nhãn lực nhìn thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.

2) Thiên nhĩ thông: là có nhĩ lực để nghe khắp mọi nơi bao gồm loài người và lòai vật.

3) Tha tâm thông: là có tâm lực biết được tâm niệm sở cấu của kẻ khác.

4) Túc mạng thông: là có trí lực hiểu biết các kiếp trước của mình.

5) Thần tức thông: là có thể thu nhận được thần thông tự tại như ý muốn.

Năm phép thần thông nầy, tuy có phần đặc biệt hơn người thường nhiều nhưng chưa đạt được điểm quan trọng nhất là Lậu Tận Thông. Bởi vì chứng được lậu tận thông sẽ mang đến trí tuệ thông suốt của ba đời. Không còn bị các phiền não làm ngăn cản và thoát ra được cảnh sanh tử luân hồi. Chỉ có những vị A-la-hán mới chứng được quả vị này.

Sau cùng, Đức Phật dạy chúng sanh phải trải qua 55 quả vị thì mới thành Phật được. Đó là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa và sau cùng là Đẳng giác. Song song với 55 quả vị nầy thì chúng sinh còn phải đương đầu với 50 món ma và đây là những điều nguy hiểm nhứt trên đường tu hành.

Chúng ta hiện tại đang sống trong thời mạc pháp thành thử không có gì là lạ khi chúng ta nghe có người tự xưng mình là Bồ-tát nầy hay Quán Thế Âm nọ. Đức Phật khi còn sanh tiền đã nghiêm cấm các đệ tử của Ngài về việc mạo xưng này.

Phật dạy rằng:

”A Nan, chính thật Bồ-tát hay A-la-hán thị hiện, mà còn không cho người biết, tại sao những người phàm phu lại dám mạo nhận xưng mình là Phật, hay Bồ-tát... Cũng như người cùng đinh, mà mạo xưng mình là Đế vương, thì sẽ bị tội tru diệt. A Nan, nếu người tu hành, không đoạn trừ đại vọng ngữ, mà muốn được đạo, thì cũng như người tự cắn cái rún của mình, làm sao mà cắn được”.

Khi nói về tâm phiền não, tâm ô nhiễm thì có người hỏi: Nếu tâm này (tâm ô nhiễm) bị diệt thì lấy gì để tiếp tục tu hành? Xin thưa: Tâm của chúng ta có hai phần: chơn thể và vọng tưởng. Khi diệt, thì chúng ta chỉ diệt cái tâm “vọng tưởng” mà thôi chớ không phải diệt cái “chơn thể” của tâm. Cũng như vì gió mà làm cho nước nổi sóng. Nếu gió ngừng thì sóng sẽ lặn chớ nước không bị diệt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/06/2011(Xem: 3388)
Tám loại khổ (i) Sinh: * Có bao giờ ta nghĩ rằng: “Ước gì tôi chưa hề được sinh ra”? Bắt đầu từ khi chào đời, ta trải qua biết bao đau khổ. * Không những chỉ có sự đau đớn lúc chào đời mà thôi, ta còn trải qua những đau khổ của lão, bệnh và tử.
07/06/2011(Xem: 4510)
Vào ngày 2 tháng Tư, Lama Zopa Rinpoche đã ban bài giảng để khai mạc khóa tu kéo dài một tháng được tổ chức tại Bendigo, Úc châu trong Đại Bảo Tháp Bi mẫn Phổ quát. Lời khuyên dạy vô cùng phổ biến này được trích dẫn vì sự lợi lạc của tất cả những người không thể tham dự khóa tu:
30/05/2011(Xem: 9713)
Chương 183: Thời Kỳ Tiền Phật Giáo trên Thế Giới Pre-Buddhism Period in the World Chương 184:Lịch Sử Các Bộ Phái Phật Giáo Cổ History of Ancient Buddhist Sects Chương 185: Tông Phái Phật Giáo—Buddhist Schools Chương 186: Lục Sư Ngoại Đạo—The Six Heretical Masters Chương 187: Phật Giáo Thế Giới—Buddhism in the World Chương 188: Phật Giáo Việt Nam—Buddhism in Vietnam Chương 189: Những vị Cao Tăng Nổi Tiếng của Việt Nam Vietnamese Famous Buddhist Monks Chương 190: Những vị Cao Tăng Nổi Tiếng của Trung Hoa Chinese Famous Buddhist Monks
30/05/2011(Xem: 9494)
Chương 61: Quán—Contemplation Chương 62: Giải Thoát—Liberation Chương 63: Ma Và Ngũ Thập Ấm Ma—Demons and Fifty Demons Chương 64: Chấp Trước-Kết-Buông Xả—Graspings-Fetters-Nonattachment Chương 65: Vô Thủy-Vô Chung—Beginninglessness, Endlessness Chương 66: Kiếp—Aeon Chương 67: Ngã và Vô Ngã—Ego and Egolessness Chương 68: Điên Đảo—Conditions of Being Upside-down Chương 69: Vô Thường—Impermanence Chương 70: Ta Bà—The Saha World Chương 71: Vô Minh—Ignorance Chương 72: Chủng Tử—Seed
30/05/2011(Xem: 9521)
Chương 43: Ái Dục--Ngũ Dục—Cravings--Five Desires Chương 44: Kiến và Tà Kiến—Views and Wrong Views Chương 45: Khổ và Bát Khổ—Sufferings and Eight Sufferings Chương 46: Cầu và Vô Sở Cầu—Doors of Seeking and Non-Seeking Chương 47: Bát Đại Nhân Giác— Eight Awakenings of Great People Chương 48: Căn-Cảnh-Thức—Organs-Objects-Consciousnesse Chương 49: Bát Thức và A Đà Na Thức—Eight Consciousneses and Adana Consciousnese Chương 50: Đại Thừa Bách Pháp—Mahayana One Hundred Dharmas Chương 51: Tương Đối-Tuyệt Đối-Viên Dung-Như ThựcRelative Absolute Totality True Reality Chương 52: Lậu Hoặc—Leakage and Delusions,Hữu Lậu-Vô Lậu—Leakage and Non-leakage Chương 53: Cà Sa—Monk’s Robe Chương 54: Tâm—Mind Chương 55: Duy Tâm—Mind-Only Chương 56: Phật Tánh—Buddha-Nature Chương 57: Chư Như Lai và Huyền Nghiệp của các Ngài - Thus Come Ones and their Wonderful Works Chương 58: Cam Lộ—Sweet Dews Chương 59: Tam Muội—Samadhi Chương 60: Thiền—Meditation
30/05/2011(Xem: 9891)
Chương 20: Diệu Đế và Thánh Đạo—Noble Truths and Noble Paths Chương 21: 37 Phẩm Trợ Đạo—Thirty-Seven Limbs of Enlightenment Chương 22: Sự Yêu Thương và Tứ Vô Lượng Tâm—Love and Four Immeasurable Minds Chương 23: Tứ Nhiếp Pháp—Four Elements of Popularity Chương 24: Lục Hòa—Six Points of Harmony Chương 25: Tứ Ân—Four Great Debts Chương 26: Công Đức và Tội Phước—Merit and Virtue-Offences and Blessings Chương 27: Ba La Mật—Paramitas Chương 28: Thân-Khẩu-Ý—Body-Mouth-Mind Chương 29: Tín-Hạnh-Nguyện-Hành-Hạnh-Nguyện của chư Bồ Tát—Faith-Conducts-Vows-Bodhisattvas’Practices-Conducts-Vows Chương 30: Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối—Four Kinds of Pure Precepts Chương31:Hôn Nhân theo Quan Điểm Phật Giáo—Marriage in Buddhist Point of View Chương 32: Thiện Ác—Good and Bad (Kusala & Akusala) Chương 33: Tập Khí và Buông Xả—Old Habits and Abandonment Chương 34: Nghiệp Báo—Actions and Recompenses Chương 35: Nhân-Duyên-Quả—Causes-Conditions-Effects Chương 36: Giới—Rules in
30/05/2011(Xem: 21484)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]