Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Giới thiệu Kinh Pháp Hoa

24/02/201116:04(Xem: 9139)
17. Giới thiệu Kinh Pháp Hoa

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

17. Giới thiệu Kinh Pháp Hoa
(Saddharma Pundarika Sutra)

Kinh Pháp Hoa nguyên văn là: “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, được xem như là bộ kinh siêu việt vĩ đại nhất của Phật giáo đã được xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II sau Tây lịch.

Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm thì giáo đoàn bắt đầu chia rẽ. Họ giải thích quan điểm, giáo lý và giới luật của Phật giáo tùy theo các nhóm, các phái và giữa các vùng khác nhau. Sự phân chia tông phái mỗi ngày mỗi tăng, có đến 20 tông phái do đó tinh thần giáo lý Nguyên thủy được ghi nhớ và giải thích có phần lệch lạc.

Những người Phật tử trí thức và đầy tâm huyết muốn thấy Phật giáo có sự sống sinh động và có tác dụng tích cực như thời Đức Phật còn tại thế nên họ đứng lên khởi xướng phong trào mới có tên là Đại thừa (Mahayana), tức cỗ xe lớn chứa được nhiều người đến nơi Phật quả. Còn Phật giáo truyền thống được coi là Tiểu thừa tức cỗ xe nhỏ, ích kỷ, mà chỉ chứng được quả A La hán là tối đa. Sự va chạm giữa Đại thừa và Tiểu thừa đã xảy ra một cách mạnh mẽ, đến độ không ai chấp nhận ai. Những kinh điển Đại thừa lần lượt xuất hiện trong đó bộ Bát Nhã là bộ kinh lớn xuất hiện khá sớm, khai triển tư tưởng Chân không, tích cực đã phá Tiểu thừa, cho rằng hạng Tiểu thừa không phải là con của Phật.

Sự đã phá chỉ trích lẫn nhau đã làm cho Phật giáo suy yếu. Trong bối cảnh đó, Kinh Pháp Hoa xuất hiện, với chủ trương hòa giải mọi mâu thuẩn của hai dòng tư tưởng Đại thừa và giáo lý truyền thống để tạo sự thống nhất về tư tưởng và đường lối Phật giáo.

Kinh Pháp Hoa là tổng hợp những tư tưởng cốt tủy của Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Duy Ma Cật, đồng thời mở ra chân trời mới cho tất cả mọi con người trong xã hội. Đó là ai ai cũng có Phật tánh do đó ai ai cũng có khả năng thành Phật. Kinh Pháp Hoa không trình bày theo khía cạnh triết học mà theo phương cách mới có tính chất đại chúng, thực tiển và dễ hiểu cho nên Kinh Pháp Hoa được xem như là vua của các kinh.

Chữ Kinh Pháp Hoa được dịch ra từ tiếng Phạn: Saddharma Pundarika Sutra. Sad có nghĩa là diệu, Dharma là pháp, Pundarika là hoa sen trắng và Sutra là kinh. Dịch là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh hay gọi tắt là Pháp Hoa Kinh.

Diệu pháp là chân lý mà chân lý thì có chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Hoa sen trắng tượng trưng cho sự thanh khiết, thanh tịnh và không ô nhiễm. Nói một cách khác là chúng sanh ở trong cõi ta bà nầy vẫn có thể vươn lên để được giải thoát hoàn toàn, như hoa sen mọc ở trong bùn mà vươn lên trên bùn, không bị ô nhiễm mà còn tỏa sắc hương.

Kinh Pháp Hoa có tất cả 28 phẩm:

1) Phần đầu tức là phẩm mở đầu.

2) Phẩm phương tiện (sự khéo léo).

3) Phẩm thí dụ.

4) Phẩm tín giải (niềm tin vững chắc).

5) Phẩm dược thảo (nói về cây thuốc).

6) Phẩm thọ ký (xác nhận thành Phật).

7) Phẩm hóa thành dụ (thí dụ về thành phố biến hóa)

8) Phẩm ngũ bách đệ tử thọ ký (xác nhận cho 500 đệ tử thành Phật).

9) Phẩm thọ học vô học nhân ký (xác nhận cho những người cần phải học và người không cần phải học thành Phật).

10) Phẩm pháp sư (thầy dạy pháp).

11) Phẩm hiện bảo tháp (hóa hiện tháp báu).

12) Phẩm Đề Bà Đạt Đa.

13) Phẩm trì (giữ gìn kinh).

14) Phẩm an lạc hạnh.

Trong 14 phẩm trên được gọi là phần Tích môn. Phần nầy nói về giáo lý của Đức Phật Thích Ca khi sanh ra, lớn lên, xuất gia, thành đạo, nhập diệt và dạy giáo lý thoát khổ ở cõi thế gian nầy.

Trong kinh, phần nào Đức Phật thuyết pháp ở núi Linh Thứu thì thuộc về Tích Môn cũng còn gọi là Chân lý tương đối. Và sau đó thì có:

1) Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất (từ đất vọt ra).

2) Phẩm Như Lai Thọ Lượng.

3) Phẩm Phân Biệt Công Đức.

4) Phẩm Tùy Hỷ Công Đức.

5) Phẩm Công Đức Pháp Sư.

6) Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát.

7) Phẩm Như Lai Thần Lực.

8) Phẩm chúa Lụy (dặn dò).

9) Phẩm Dược Vương Bồ Tát.

10) Phẩm Diệu Âm Bồ Tát.

11) Phẩm Quán Thế âm Bồ Tát.

12) Phẩm Đà-la-ni (mật chú).

13) Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự(chuyện về vua Diệu Trang Nghiêm).

14) Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (sự khuyến khích của Bồ tát Phổ Hiền).

Trong 14 phẩm trên thuộc về phần Bổn môn. Phần Bổn môn là phần gốc, là nền tảng của Tích môn. Bổn môn có nghĩa là Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Phật hiện hữu suốt chiều dài của thời gian và phổ biến cả không gian. Chân lý của Bổn môn là tuyệt đối. Cũng nhờ giáo lý Bổn môn nầy mà giải thích tất cả chúng sanh có thể thành Phật bởi vì trong tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây là điểm đặc thù của Kinh Pháp Hoa. Chính do nghĩa lý nhiệm mầu sâu xa của kinh nầy mà Ngài Trí Giả Đại sư (538-597) một người đã theo học pháp môn Pháp Hoa đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng, dựa vào bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại nầy để dựng lên một tông phái mà một thời được coi như lẫy lừng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc với uy tín hầu như đã bao trùm toàn bộ Phật giáo phía Nam Trung Quốc. Đó chính là Thiên Thai Tông. Năm 594, người được coi là khai tổ cho nền văn minh Nhật Bản, Thánh Đức Thái tử (Shotoku) đã tập trung tất cả ý thức lãnh đạo dân tộc Nhật vào ba quyển kinh mà Kinh Pháp Hoa được xem là quan trọng nhất.

Kinh Pháp Hoa được dịch rất sớm và có rất nhiều bản dịch khác nhau. Nhưng ngày nay chỉ còn ba bản dịch trong Đại tạng là:

1. Chánh Pháp Hoa 10 quyển, do ngài Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn (265 Tây lịch).

2. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 5 quyển do ngài Chi Đạo Căn dịch đời Đông Tấn (335 TL).

3. Thiêm Phẫm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7 quyển do hai ngài Xà-la-hốt-đa và Đạt-ma-cấp-đa cùng dịch vào đời Tùy (601 Tây lịch).

Cũng vì tính cách quan trọng của bộ kinh nầy mà trước khi nói Kinh Pháp Hoa, trong pháp hội đông đảo đại chúng gồm chư Bồ tát, đại Tỳ kheo, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la… Đức Thế Tôn đã nhập vào đại định, phóng hào quang chiếu soi khắp mười tám ngàn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các Đức Phật, khiến đại chúng trong đó có cả Bồ tát Di Lặc, vô cùng kinh ngạc trước phép lạ hy hữu từ trước đến nay chưa từng có và không biết do nhân duyên gì mà mà lại có điềm lành nầy. Thêm nữa, Kinh Pháp Hoa đã dành cho Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Bồ tát đại biểu cho trí tuệ siêu việt) cái nhiệm vụ vô cùng vinh dự là thông báo cho đại chúng biết một thời pháp vô cùng quan trọng của Đức Bổn Sư. Đây là vai trò thị giả phát ngôn của Phật, đồng nghĩa với người điều khiển chương trình thời nay. Cũng như Đại Thế Chí Bồ tát (tượng trưng cho trí tuệ) là thị giả cho Phật A Di Đà vậy.

Sau cùng, Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các tông phái Phật giáo. Mặt khác chính kinh nầy đã đặt lại giá trị của mọi đường lối tu tập và nhất là giá trị tâm thức hướng thiện, hướng thượng của tất cả chúng sanh. Với một đường lối dung hòa và với tư tưởng pháp chân không siêu thoát, Kinh Pháp Hoa đã đạt được mục đích của mình là khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Vì những lý do đó mà kinh được tôn thờ, quý kính, hành trì và phổ biến một cách sâu rộng trong cộng đồng Phật giáo khắp nơi.

Tạp niệm là bịnh, niệm Phật là thuốc, niệm Phật chính là để trị tạp niệm. Nêu chưa thấy kết quả thì tại vì chúng ta chưa dụng công hoàn mãn. Cho nên khi tạp niệm nổi lên, phải chuyên lòng gia công niệm Phật. Mỗi chữ, mỗi câu niệm Phật tinh nhất không xao lãng thì tạp niệm dứt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 122)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 106)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 130)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 106)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 105)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 118)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 117)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 102)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 748)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]