Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Sự Thờ Cúng và Lễ Bái

24/02/201116:04(Xem: 9435)
15. Sự Thờ Cúng và Lễ Bái

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

15. Sự Thờ Cúng và Lễ Bái

Cuộc sống của gia đình chúng tôi thì cũng chẳng khác chi mọi gia đình tỵ nạn khác trên đất nước mới này. Ngày ngày thì phải lo đi cày, tối về thì lo cho con cái và ngày qua tháng lại cũng không có nhiều thì giờ rảnh rỗi để đi chùa bái Phật. Chúng tôi cũng cố gắng đến chùa trong những lễ lớn để cầu nguyện Phật trời cho được nhiều phước lành. Thú thật cứ mỗi lần đi chùa là chúng tôi cầu nguyện đủ thứ từ gia đình mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, con cháu học hành tiến bộ. Tất cả những gì có lợi cho mình là chúng tôi cầu nguyện hết.

Bây giờ hãy suy nghiệm lại những lời cầu nguyện trên có thực sự hiệu quả như thế trong đời sống của chúng ta không?

Nhưng trước hết hãy tìm hiểu ý nghĩa của chữ cầu nguyện. Trong thế giới của những tôn giáo tin tưởng và thờ phượng Thượng đế ( là Đấng tối cao, toàn năng, toàn thiện, toàn trí đã sáng tạo ra thế gian, vũ trụ, và được xem là thủy tổ của muôn loài), thì cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một sự chỉ đạo, hộ trì, hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, cơm no, áo ấm, và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.

Nhưng trong Phật giáo không có vấn đề tội lỗi (hiểu theo nghĩa xúc phạm ý trời). Khi một người hành động phi luân lý hay phản đạo đức, thì Phật giáo gọi đó là hành động không khôn ngoan hay bất thiện. Sở dĩ có hành động sai lầm hay bất cẩn là vì si mê, thiếu sáng suốt, nhưng tôn giáo thờ phượng Thượng đế thì xem đó là có tội một khi vi phạm hay bất tuân những điều răn do vị giáo chủ hay trời phán định. Trái lại, theo giáo lý nhà Phật dù là Phật tử hay không mà trộm cắp, tà dâm, dối trá… thì đó là hành động sai lầm, bất thiện vì chính họ đã tạo ra cái nghiệp xấu cho mình và dĩ nhiên là họ sẽ tự chuốc lấy kết quả xấu xa hay nghiệp báo đau thương sau nầy. Chẳng hạn như một kẻ ngu si đưa tay vào lửa thì dĩ nhiên là bị phỏng chứ không phải là tội lỗi hay xúc phạm trời thần gì cả. Những hành động không khôn ngoan, sai lầm, hay bất cẩn này sẽ làm trì trệ tiến trình giải thoát của họ mà thôi.

Theo Phật giáo, tất cả những hành động mang tánh chất cố ý đều gọi là nghiệp mà nó được phát xuất từ Thân, Khẩu, Ý. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về kết quả của những hành động thiện hay ác này dù kết quả đó tốt hay xấu, vui hay khổ. Như vậy, không có vấn đề cầu nguyện trong Phật giáo theo ý nghĩa thông thường tức là cầu xin Thượng đế ban ơn, tha tội, vì mọi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội, phước, lành, dữ do mình tạo ra.

Theo Đạo Phật, thì con người là Thượng đế của chính mình chứ không ai khác bởi vì tất cả các điều kiện, kể cả nghiệp đều có thể tự mình sửa đổi được. Bởi thế, hạnh phúc hay khổ đau đều do chính chúng ta tự tạo lấy cho mình. Hay nói một cách khác được tự do hay nô lệ tùy thuộc ở chỗ con người làm chủ các điều kiện hay bị các điêu kiện làm chủ. Thêm nữa, những tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước hay cứu rỗi, nghĩa là đời đời họ muốn lệ thuộc vào vị thần linh hay Thượng đế của họ. Người Phật tử thì trái lại, chúng ta kính cẩn tôn thờ Đức Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo. Và với tinh thần bình đẳng Đức Phật lúc nào cũng khuyến khích chúng sinh cố gắng diệt trừ vô minh để cắt đứt dây luân hồi sanh tử mà chứng được Niết Bàn.

Một thí dụ điển hình nữa là chúng ta hãy tạm so sánh giữa hai chế độ dân chủ ngày nay và quân chủ ngày xưa. Trong chế độ quân chủ ngày xưa, mọi người dân là con cái hoặc nô lệ của vị Đế vương. Họ phải tuân phục mọi phán xét, thưởng phạt của vua và vì thế mới có câu:”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Nhưng chúng ta đang sống trong chế độ dân chủ ngày nay,người dân có quyền bình đẳng, cho dù Tổng thống cũng là một công dân như bao người khác. Chúng ta kính trọng vị nguyên thủ quốc gia bởi vì vị nầy thay thế chúng ta để lãnh đạo, để lo việc nước, làm ích quốc lợi dân. Và tất cả mọi người dân đều có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có đủ tài, đủ đức.

Trước khi nhập diệt, Đức Phật còn nhắc nhở chúng tăng là:

“Sau khi Như Lai tịch diệt, các con hãy lấy giới luật làm thầy. Thực hiện đứng đắn những lời giáo huấn của Như Lai, Đó là cách cúng dường Như Lai cao thượng nhất”.

Đức Phật cũng dạy rằng:” Lễ bái tượng Phật không có nghĩa là chúng ta tin rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế gian để thị hiện trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này trở nên linh ứng để có thể hộ trì cho những người lễ bái hay quở phạt những người bất tôn kính đối với Ngài”.

Hình tượng chỉ để nhắc nhở lại những hình ảnh sống động lúc Đức Phật còn tại thế, khiến cho chúng ta có cảm tưởng được đối diện với chính Đức thế Tôn mà thôi.

Như thế, việc thờ cúng tụng niệm của người Phật tử không phải là để cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính Đức Phật và tự nguyện noi gương Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác và giác tha.

Chính Đức Phật đã đặt ra năm pháp để nhắc nhở chúng ta hằng ngày siêng năng tu tập để đạt thành chánh quả như Ngài và mỗi pháp có một ý nghĩa cao thâm của riêng nó:

Hương (nhang): tượng trưng cho mùi hương thơm thanh khiết của hoa sen ngàn cánh.

Hoa: tượng trưng cho hoa sen ngàn cánh và cũng tượng trưng cho tâm Bồ đề của chúng ta. Vì mỗi người tu hành đều có một hoa sen ngàn cánh trong ao báu ở trên cõi Phật. Kẻ nào tu niệm càng nhiều thì hoa sen càng lớn, phẩm Phật càng cao.

Quả: tượng trưng cho quả vị Phật, bởi vì sự tu hành của chúng ta phải cố gắng đạt đến thành quả viên mãn.

Đèn: tượng trưng cho trí tuệ bát nhả của chúng ta. Dùng trí tuệ để phá si mê và cúng dùng trí tuệ để phân biệt đâu là chánh, đâu là tà, đâu là chân, đâu là giả.

Nước: tượng trưng cho tâm thanh tịnh, tinh khiết,và không bị ô nhiễm. Nước cũng còn tượng trưng cho tấm long từ bi vô bờ vô bến.

Dâng hoa cúng đến Phật đà
Nguyện mau giải thoát sinh già khổ đau.

Do đó chúng ta phải cố gắng nghe theo lời dạy của Đức Phật để tu hành ngỏ hầu tự độ và độ tha thì cũng như đã cúng dường cho chư Phật rồi vậy.

Đối với Đức Phật thì Ngài không cần chúng ta quỳ gối bái lạy để vinh danh Ngài mà Ngài chỉ muốn chúng ta cung kính Ngài như cung kính chính bản thân của chúng ta. Vì sự cung kính này, chúng ta bái lạy Ngài với một tấm lòng chân thật và quyết tâm noi gương Ngài cố gắng tu sửa để dứt trừ vô minh vọng tưởng và đạt cho được chơn tâm thanh tịnh.

Tâm thức của con người bị hôn loạn đã lâu, không thể một lúc mà an định. Cho nên người niệm Phật nếu tâm không thanh tịnh thì đừng quá vội lo, chỉ cần khi niệm mỗi chữ mỗi câu đều do nơi tâm phát ra, dụng công bên lâu sẽ có hiệu quả.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 124)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 108)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 130)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 107)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 105)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 118)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 119)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 104)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 756)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]