Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Sơ Lược Về Lý Duyên Khởi

01/02/201111:44(Xem: 9102)
6. Sơ Lược Về Lý Duyên Khởi

CĂN BẢNPHẬT GIÁO
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TL. 2005 - PL. 2549

SơLược Về Lý Duyên Khởi

BìnhAnson

---*---

TiếngPàlicủa lý Duyên khởi hay Duyên sinh là "Paticcasamuppàda",còn được dịch là "Tùy thuộc Phát sinh", tiếng Anh là "DependentOrigination". Thuyết nầy bao gồm 12 thành tố, nên cũng đượcgọi là Thập Nhị Nhân Duyên.

TrongTăng Chi Bộ, chương Mười Pháp, kinh số 92, Đức Phật giảngcho ông Cấp Cô Độc:

"Ởđây, này Gia chủ Cấp Cô Độc, vị Thánh đệ tử quán sátnhư sau:

Docái này có, cái kia có.
Docái này sinh, cái kia sinh.

Docái này không có, cái kia không có.

Docái này diệt, cái kia diệt."
Đó làtóm lược lý Duyên khởi. Rồi Ngài giảng rộng ra:"Tứclà do duyên vô minh, có các hành.
Doduyên các hành, có thức.

Doduyên thức, có danh sắc.

Doduyên danh sắc, có sáu nhập.

Doduyên sáu nhập, có xúc.

Doduyên xúc, có thọ.

Doduyên thọ, có ái.

Doduyên ái, có thủ.

Doduyên thủ, có hữu.

Doduyên hữu, có sinh.

Doduyên sinh, có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Nhưvậy,là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này."

Tiếptheo,Đức Phật giảng về sự đoạn diệt các khổ uẩn:

"Dovô minh diệt, không có dư tàn, nên các hành diệt.
Docác hành diệt, nên thức diệt.

Dothức diệt, nên danh sắc diệt.

Dodanh sắc diệt, nên sáu nhập diệt.

Dosáu nhập diệt, nên xúc diệt.

Doxúc diệt, nên thọ diệt.

Dothọ diệt, nên ái diệt.

Doái diệt, nên thủ diệt.

Dothủ diệt, nên hữu diệt.

Dohữu diệt, nên sinh diệt.

Dosinh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Nhưvậylà toàn bộ khổ uẩn này diệt. Ðây là Thánh lý đượckhéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ."

Nhưthế,khi thuyết giảng lý Duyên khởi, Đức Phật dạy chochúng ta thấy rằng vì vô minh và bị mê si mà sự hiện hữuvà khổ đau hiện tại đã phát sinh; do sự diệt tận củavô minh, và từ đó ái diệt và thủ diệt, mà không còn sựtái sinh nào tiếp theo; và như vậy, tiến trình hiện hữuđược dừng lại, và cùng với sự dừng lại ấy, là sựchấm dứt mọi đau khổ.

*

Ởđây, xin trình bày sơ lược tóm tắt về các liên hệ giữa12 thành tố của lý Duyên khởi như sau:

"Vôminh duyên hành": Do vô minh (avijjà), các hành (sankhara)có điều kiện để sinh ra. Hành là những tư tâm sở (cetanà)hay ý chí, đưa đến tái sinh, còn gọi là hành nghiệp. Vôminh ở đây chủ yếu là vô minh về Tứ Diệu Ðế, vô minhvề lý nhân duyên, vô minh về quá khứ và hiện tại củachúng ta.

Dovô minh, đôi khi chúng ta làm những hành động thiện, nhưngphần lớn chúng ta làm những hành động bất thiện, vì đaphần những điều chúng ta làm đều bắt nguồn từ tham vàsân. Dưới ảnh hưởng của vô minh chúng ta làm đủ mọiloại hành động. Thật ra, vì chúng ta không biết đâu làđúng, đâu là sai, hoặc chúng ta chỉ hiểu chung chung rằngnhững hành động thế này là thiện, những hành thế kia làbất thiện. Vì mù quáng bởi vô minh mà chúng ta thường làmnhữngđiều lầm lạc, dù rằng đôi khi chúng ta cũng làmđược những việc tốt.

Haichi phần này, Vô Minh và Hành, thuộc thời quá khứ, và đâylà hai yếu tố đã đem chúng ta đến thế gian này. Nhữnghành động thiện trong quá khứ của chúng ta như bố thí,trì giới, có những ý nghĩ tốt đẹp, v.v. là những thiệnnghiệp (kusala-kamma),đã giúp chúng ta sinh ra làmngười, có mặt trong thế gian này.

"Hànhduyên thức": Tùy thuộc nơi hành nghiệp, thiện vàbất thiện,chi phần thứ ba khởi sinh, đó là Thức(vinnàna), tức tái sinh trong thế gian này. Thứclàthời hiện tại và thuộc nhóm quả dị thục. Thức sinh khởinhư kết quả của Vô Minh và Hành trong quá khứ. Ở đây,Thức không có nghĩa là tất cả các loại tâm mà chỉ làtâm tục sinh sau khi chết. Như vậy, khởi đầu của kiếpsống hiện tại này, chúng ta có Kiết Sinh Thức - Thức nốiliền - nghĩa là Thức nối liền kiếp sống hiện tại vớiquá khứ. Thức tái sinh phát khởi, chúng ta được tái sinh,đó là lý do tại sao ta dùng chữ "tái sinh", mà không dùngchữ "đầu thai" với ý nghĩa một linh hồn đi tái sinh. Bởivì không có một linh hồn bất tử trong quan niệm của đạoPhật.

"Thứcduyên danh sắc": Tâm không thể làm việc một mình, nócó một số tâm sở (cetasika) phối hợp làm việc chungvới nó, và vì là tâm nên nó không thể tồn tại đơn độc,nó cần một cái thân vốn là kết quả của những hành độngtrong quá khứ. Do vậy, tùy thuộc nơi Kiết sinh thức - thứcnối liền, chúng ta có tâm và thân, tức là Danh (nàma) vàSắc (rùpa). Danhlà phần tinh thần, còn Sắc làphần vật chất.

"Danhsắc duyên lục nhập": Do có thân và tâm, hay danh và sắc,ta có 6 Căn hay 6 Nhập (àyatana). Chúng ta có năm căn bênngoài: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân. Còn gọi là "ngũ môn"hay năm cửa. Chẳng hạn qua nhãn môn, chúng ta tiếp nhận mộtđối tượng của sự thấy, và qua nhãn môn, chúng ta buôngbỏ đối tượng đó; vì thế, con mắt có hai chức năng: thunhậnvà buông bỏ. Chữ "căn" được dùng ở đây vớiý nghĩa của một "căn cứ", dựa vào đó mà tâm có thể thựchiện. Căn thứ 6 là ý căn. Đây là một căn thuộc bêntrong, hay nội môn. Nó không những chỉ là một căn hay môn,mà nó cũng còn là dòng tiến sinh của chúng ta - trong Pàligọi là Bhavangahay "hữu phần". Chính dòng tiến sinhnày dẫn chúng ta đi hết kiếp sống này đến kiếp sốngkhác trong vòng sinh tử luân hồi.

"Lụcnhập duyên xúc": Tùy thuộc vào 6 căn, ta có Xúc(phassa).Xúclà sự va chạm hay tiếp xúc giữa một đối tượnggiác quan bên ngoài với bề mặt của bộ máy cảm giác tươngxứng, hay giữa căn và cảnh (trần). Tùy thuộc nơi năm cửagiác quan (ngũ môn)và ý căn (ý môn), ta có Xúc. Chẳnghạn, khi một cảnh sắc và phần nhạy cảm của con mắt (tứcnhãn căn) nằm trong một khoảng cách thích hợp và có ánhsáng thích hợp, lúc đó, sự tiếp xúc giữa căn và cảnhkhởi sinh, hình sắc đó tiếp chạm với phần nhạy cảm củacon mắt. Tương tự như vậy với âm thanh và nhĩ căn, v.v.

"Xúcduyên thọ": Vì có xúc nên ta có cảm giác, như vậy, Thọ(vedanà)phát sinh. Khi có sự tiếp chạmvới mộtđối tượng qua căn, ta có cảm thọ. Nếu sự tiếp xúc làmềm mại, ta có thể cảm nghe một cảm giác dễ chịu; nếusự tiếp xúc là thô nhám, ta cảm thấy một cảm giác khóchịu; hoặc đôi khi, ta có một cảm thọ trung tính, khôngkhổ không lạc, v.v.

"Thọduyên ái": Vì có thọ mà Ái (tanhà)khởi sinh, khôngcó thọ thì tham ái không sinh khởi. Khi có cảm thọ dễ chịu- qua thấy, nghe, ngữi, nếm, v.v., tham ái, thích thú sinh khởi.Còn đối với các cảm thọ khó chịu thì sao? Trong bộ luậnThanh Tịnh Ðạo, có giải thích: "Một bệnh nhân đang cómột cơn đau kinh khủng, có một cảm thọ khó chịu. Lúc đó,tham vẫn khởi lên, bởi vì người ấy có một ước muốnthoát ra khỏi cơn đau đó, muốn thoát ra khỏi cái cảm thọkhó chịu đó. Như vậy tham khởi lên bằng hai cách: theo cảmthọ dễ chịu và theo cảm thọ khó chịu".

"Áiduyên thủ": Một khi áiđã sinh thì Chấp Thủ (upàdàna)liền theo sau. Sự khác biệt giữa Ái và Thủ rất rõ ràng:Ái là tham muốn nhẹ nhàng, trong khi Thủ lại là ăn rễ thâmsâu, buộc chặt chúng ta vào một cái gì đó. Tham tự nó thìkhông dính mắc, không tiến đến trạng thái chấp thủ, nóchỉ là sự ước muốn hay mong muốn bình thường. Tuy nhiên,với một phàm nhân không giác niệm, tham ái liền dẫn theolòng chấp thủ.

"Thủduyên hữu": Vì có chấp thủ, nên tạo duyên để tạohiện hữu. Hữu (bhava)nghĩa là ta đang khởi sự trởthành, thu thập nghiệp lực mới cho đời sống tương lai.Hữu có hai mặt: nghiệp hữu (kamma-bhava)là hành độngtích lũy của quả dị thục, và sinh hữu (upapatti-bhava)là quả dị thục hướng đến tái sinh. Nói một cách khác,do duyên Ái và Thủ, chúng ta hành động tạo nghiệp, bây giờlà những hành động hiện tại (là nghiệp hữu), và đồngthời, chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tái sinh trong tươnglai (là sinh hữu).

"Hữuduyên sinh": Do bởi những hành động hay nghiệp hiện tại,chúng ta đang chuẩn bị cho lần tái sinh sắp tới, đó làtái sinh hay Sinh (jàti), mang ý nghĩa của sự khởi đầucủa kiếp sống tương lai.

"Sinhduyên già chết": Do tái sinh trong thế gian nên ắt sẽ đưađến Già Chết (jarà-marana). Jaràlà tuổi già,già một cách dần dần, và rồi, Maranalà chết. Tấtcả mọi hiện tượng xảy ra như một hệ quả tất nhiên.Chúng ta đã sinh ra nên phải chịu buồn rầu, bi, khổ, ưu,não, tuyệt vọng, v.v. vì chúng sẽ hiện khởi như kết quảcủa việc sinh.

*

Chúngtathấy ở đây có cả thảy 12 chi phần, thường được phânthành 3 thời: quá khứ, hiện tại, và vị lai. Hai chi Vô Minhvà Hành thuộc về quá khứ; năm chi: Thức, Danh Sắc, LụcNhập, Xúc, Thọ thuộc hiện tại, xem như là quả dị thụccủa quá khứ. Ái, Thủ, Hữu cũng thuộc hiện tại và làmnhân cho tương lai. Sinh và Già chết thuộc về tương lai, kếtquả của những nhân đã gieo trong hiện tại. Từ SinhđếnGià chết, chỉ có hai chi được đề cập ở thời tươnglai; tuy nhiên, chúng bao hàm cả năm chi phần trong nhóm quảdị thục hiện tại - từ Thức đến Thọ. Sự kết hợp củanăm chi phần này tạo ra cái gọi là đàn ông hay đàn bà,và chính năm chi phần này là cái được sinh ra, già chếtvà rồi lại tái sinh, cứ tiếp tục mãi mãi không ngừng,do những hành nghiệp từ quá khứ cũng như trong hiện tại.

Trongquyển sách "Cây Giác Ngộ" (The Tree of Enlightenment), Giáo sưPeter Santina phân chia 12 chi phần thành 3 nhóm: 1) nhóm tai ách(ô trược): vô minh, ái và thủ; 2) nhóm hành động (nghiệp):hành và hữu; và 3) nhóm khổ đau: thức, danh sắc, lục nhập,xúc, thọ, sinh, và già chết.

Trongnhóm thứ nhất, vô minh là căn bản. Do vô minh mà chúng tatham đắm vào các dục lạc giác quan, vào hưởng thụ, vàonhững ý tưởng sai lầm, nhất là ý tưởng về cái Ta độclập và thường còn. Do vậy, vô minh, ái và thủ là nguyênnhân của nghiệp (hành động).

Nhómthứ hai là nghiệp (hành động), gồm có hành và hữu. Hànhbao hàm những dấu ấn, hay thói quen hình thành trong dòng tâmthức, hay sự tiếp diễn không ngừng của thức. Những dấuấn ấy được tạo thành bởi những hành động lập đi lậplại từ nhiều kiếp trước, trở thành thói quen. Những thóiquen đó dẫn dắt nhiều hành động của ta trong hiện tại.Ngoài ra, còn có những hành động tạo tác trong kiếp sốngnày, và được gọi là hữu. Những thói quen vốn phát triểntừ nhiều kiếp trước cùng với những hành động tạo táctrong kiếp này dẫn đến tái sinh với thân ngũ uẩn, rồigià chết, khổ đau, v.v. Đó là nhóm thứ ba.

Khihiểu được sự vận hành của lý Duyên khởi, ta có thểphá vỡ vòng luân hồi sinh tử đó, bằng cách gột bỏ nhữngbất tịnh của tâm - là vô minh, ái và thủ. Một khi các bấttịnh này bị loại bỏ, sẽ không còn hành nghiệp, và nguồnthói quen cũng không sanh khởi. Khi những hành nghiệp ngưngthì tái sinh và khổ đau cũng ngưng.

*

TrongTrườngBộ, kinh số 15, Ðức Phật có dạy ngài Anandà rằng:

- "NầyAnandà, giáo pháp Duyên Khởi rất thâm sâu, thật sự thâmsâu. Chính vì không thông hiểu giáo pháp này mà thế gian giốngnhư một cuộn chỉ rối ren, một tổ chim, một bụi rậm laulách, và không thể thoát khỏi các đọa xứ, cõi dữ, phảichịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử."

Trongmột đoạn kinh khác, thuộc Trung Bộ 28, Ngài dạy rằng:

- "Aihiểu được lý Duyên khởi, người ấy hiểu Pháp; và ai hiểuđược Pháp, người ấy hiểu lý Duyên khởi".

Chonên, giáo lý Duyên khởi là một giáo lý tinh yếu, thâm sâu,quan trọng, không phải dễ dàng thực chứng và thông hiểu.Là một phàm nhân cư sĩ còn đang tu học, ở đây, chúng tôichỉ có thể trình bày tóm tắt sơ lược theo kiến giải thôthiển của mình.

Perth,Tây Úc, tháng 8-2004

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 114)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 101)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 125)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 102)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 99)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 108)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 112)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 94)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 729)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]