Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam Qui

11/12/201016:21(Xem: 9555)
Tam Qui

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

TAM QUI

Một người phát nguyện tín ngưỡng đạo Phật, xin thọ phép Tam quy trước Tam bảo thì được gọi là tín đồ đạo Phật. Tam quy là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Do Phật, Pháp, Tăng dìu dắt chúng sanh ra khỏi cái khổ luân hồi, nên chúng sanh rất quý trọng và tôn làm Tam bảo.

Pháp giới tánh duyên khởi ra thế giới, chúng sanh từ vô lượng, vô số kiếp về trước. Chúng sanh thì sanh, trụ, dị, diệt, liên tục mãi mãi. Thế giới thì thành, trụ, hoại, không, cũng liên tục mãi mãi, không lúc nào dừng nghỉ, như bánh xe xoay tròn nên gọi là luân hồi.

Chúng sanh mới sanh ra thì gọi là sanh, tiếp tục tồn tại thì gọi là trụ, chuyển biến không ngừng thì gọi là dị và cuối cùng phải chết thì gọi là diệt. Thế giới khi còn ở thể hơi vô hình thì gọi là không, khi bắt đầu đọng lại, cho đến thành một khối đất cứng, có cây, có cỏ, có người, có vật thì gọi là thành, khi tiếp tục tồn tại không có sự thay đổi lớn lắm thì gọi là trụ, khi bắt đầu tan rã không có người, vật và cũng không còn cây cối thì gọi là hoại, và khi trở lại biến ra hơi thì gọi là không. Thời gian của một thế giới thành rồi trụ, trụ rồi hoại, hoại rồi không thì gọi là một kiếp. Mỗi thế giới có một trời riêng của thế giới ấy, phạm vi giáo hóa của một Đức Phật, có hàng ngàn triệu mặt trời, tức là hàng ngàn triệu thế giới, gồm lại thành một Phật sát. Vô lượng, vô biên Phật sát kết hợp với nhau thành một tầng và độ hai mươi tầng như thế, chồng lên nhau thì thành một hoa tạng thế giới và các hoa tạng thế giới cách xa nhau đến mức mà con người không thể nào tưởng tượng nổi.

Trong hàng triệu thế giới của một Phật sát, cái thì đương thành, cái thì đương trụ, cái thì đương hoại, cái thì đã thành không, nên không thể nói vũ trụ bắt đầu từ đâu và lúc nào thì diệt, mặc dầu mỗi thế giới đều có thành, trụ, hoại, không. Từ cõi Tứ thiền trở lên, thì không bị sự thành, trụ, hoại, không của thế giới chi phối, nên chúng sanh ở các cõi đó, có thể sống rất nhiều kiếp.

Chúng sanh luân hồi mãi mãi trong vô lượng kiếp, chịu nhiều đau khổ, nên có người đã giác ngộ, muốn tìm cách ra khỏi sống, chết. Do lòng trông mong ấy của chúng sanh, nhiều ngoại đạo, tà giáo đã xuất hiện, lừa gạt chúng sanh, như cho trẻ con cái bánh vẽ, hoặc bảo rằng, lên thiên đường thì sống mãi không chết, làm cho chúng sanh chìm đắm mãi trong bể khổ. Trong những người tìm đạo giải thoát, có một số người suy xét nơi tâm, nơi cảnh hiện tiền, phát minh ra đạo lý nhân duyên, rồi cố gắng tu tập, đi đến diệt trừ ngã chấp, ra khỏi luân hồi, đó là các vị Độc giác. Vô lượng vô số kiếp về sau, có một vị Độc giác phát lòng từ bi rộng lớn, không nỡ để cho chúngsanh bị mãi cái khổ luân hồi, nên kiên trì hiện ra nhiều thân, trong nhiều loài mà hóa độ chúng sanh. Do tâm từ bi hóa độ ấy, vị Độc giác này, càng ngày càng đi sâu vào bản tánh của mọi sự, mọi vật, đi đến đầy đủ công đức trí tuệ, giác ngộ được Pháp giới tánh, phát hiện rồi nhập một với Pháp giới tánh và thành Phật đạo, đó là Đức Phật Uy Âm vương, Đức Phật đàu tiên trong vũ trụ vô cùng tận. Nhờ công đức hóa độ của Đức Phật Uy Âm Vương, vô lượng vô số chúng sanh đã phát Bồ-đề tâm, tu theo Phật pháp, phổ độ chúng sanh và thành vô lượng, vô số Phật. Như thế, tất cả chư Phật đều do tu tập mà thành, mặc dầu pháp giới tánh sẵn có, không hề thêm bớt.

Chư Phật giác ngộ là giác ngộ cái mê lầm của chúng sanh, chúng sanh mê lầm là mê lầm cái giác ngộ của Phật.

Thật tế, chúng sanh chỉ là những biểu hiện của pháp giới tánh, chỉ do pháp giới tánh trùng trùng duyên khởi mà có. Sẵn có pháp giới tánh, chúng sanh không biết trực nhận, lại lầm nhận cái thân thường thường thay đổi, cái tâm thường thường chuyển biến là mình, lại lầm chấp có cái ta thật, có ngoại vật thật, nên phải chịu sống rồi chết, chết rồi sống, luân hồi mãi mãi trong lục đạo. Cái mê lầm như thế, thì gọi là vô minh, chỉ khi nào không còn ngã chấp, pháp chấp, giác ngộ vô minh, và dứt sạch vô minh, thì mới nhập một được với pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh. Khi nhập một được với pháp giới tánh, thì được gọi là Như Lai, là vì bản tánh chân như, theo duyên phân biệt của chúng sanh, mà lượng ra vô lượng thân thể hóa độ, nên gọi là Như Lai. Các đức Như Lai đều bình đẳng, không có sai khác, nhưng cái duyên của các Ngài đối với chúng sanh, lại theo tâm phân biệt của chúng sanh mà có sai khác. Các đức Như Lai hiện ra vô số thân, làm nhiều việc lợi ích cho chúng sanh để kết duyên. Khi nhân duyên đã thành thục, đối với chúng sanh trong hàng ngàn triệu thế giới của một Phật sát, thì các đức Như Lai lại hiện ra thân Phật trong tất cả các thế giới ấy để hóa độ.

Đức giáo chủ của chúng ta là đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài là một ứng thân trong vô lượng vô biên ứng thân của đức Phật Tỳ-lô-xá-na (Vairo-cana). Ngài hiện ra thân người trong cõi này, vớiđủ các tướng phàm phu, rồi thị hiện xuất gia cầu đạo, thị hiện tự mình tu tập, khi nhận thấy các ngoại đạo không phải là đạo giải thoát và cuối cùng, ngồi dưới cây Bồ-đề, tự mình suy xét, dứt sạch vô minh và thành Phật đạo. Sau khi thành Phật, đức Phật Thích-ca Mâu-ni chu du nhiền nơi, thuyết pháp độ sanh, đem những phương pháp tu tập để tự giải thoát, để tự giác, giác tha, đi đến giác hạnh viên mãn, mà dạy bảo cho các hàng đệ tử.

Sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Phật kết tập những lời Phật dạy, thành các bộ kinh, các vị còn kết tập riêng những giới luật của Phật đã dạy, thành các bộ luật. Lại trong khi Phật tại thế và nhất là sau khi Phật nhập diệt, nhiều vị đại đệ tử của Phật, đã có những trước tác quan trọng hoặc phân tích, hoặc quy nạp, hoặc hệ thống hóa những lời Phật dạy, để giúp đỡ người đời học hỏi đạo lý của Phật, đó là những bộ luận. Các bộ kinh, bộ luật, bộ luận là ba tạng kinh điểncủa Phật giáo.

Trong lúc Phật tại thế, các đệ tử Phật, xuất gia cầu đạo, đều kết hợp lại thành những chúng, sống theo phép lục hòa là thân hòa đồn trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, và lợi hòa đồng quân. Những chúng lục hòa như thế thì gọi là Tăng.

Theo quan niệm phổ thông thì đức Phật Thích-ca Mâu-ni là Phật bảo, ba tạng kinh điển là Pháp bảo và các chúng xuất gia là Tăng bảo. Tăng bảo như thế, thì gọi là trú trì Tam bảo. Những người theo đạo Phật quy y Tam bảo, chủ yếu là quy y với trú trì Tam bảo.

Ngoài quy y với trú trì Tam bảo ra, tín đồ các pháp Đại thừa Phật giáo, còn quy y với thập phương Thường trụ Tam bảo, nghĩa là quy y với tất cả chư Phật trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật; Quy y với Đệ nhất nghĩa đế, tức là với đạo lý vi diệu nhất của Phật, chứ không phải chỉ quy y với Tam tạng kinh điển; quy y với vô lượng chúng Bồ-tát trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với trú trụ trì Tăng bảo hiện tiền.

Vẫn biết, chư Phật là đồng thể, quy y với một Đức Phật, tức là quy y với tất cả chư Phật, nhưng nếu chỉ quy y với đức Phật Thích-ca Mâu-ni, là một ứng thân của đức Phật Lô-xá-na, thì khó nhận được Phật là thường trụ, luôn hiện tiền, do đó, cũng không quan niệm đúng đắn được quả vị tối thượng của chư Phật.

Lại Tam tạng kinh điển tuy nhiều, nhưng phương diện của Phật và của chư Tổ, theo duyên cũng có sai khác. Có kinh điển chỉ dạy về Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa, nghĩa lý không rốt ráo và chưa phải là con đường tu hành thành Phật đạo. Về các kinh điển Đại thừa, nếu chấp chữ nghĩa trong kinh, mà không nhận rõ ý tứ, thì cũng chẳng khác gì, nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng mà thôi. Vì thế, người tu hành theo phép Đại thừa, cần quy y với đạo lý chân thật, mà Phật và chư Tổ đã chỉ trong các kinh điển, nghĩa là quy y với Đệ nhất nghĩa đế, đưa đến trực nhận pháp giới tánh, tức là tâm tánh, tức là bảo lai tự tánh.

Trong đạo Phật chúng ta hiện nay, chỉ có Thanh Văn tăng, vì theo căn cơ của loài người trong cõi này, chỉ có Thanh Văn tăng mới duy trì Phật pháp được lâu dài, nhưng không phải vì thế, mà không có chư vị Thập phương Bồ-tát, thể theo đại nguyện đại bi, luôn luôn hiện thân trong thế giới chúng ta, để hóa độ quần sanh. Chính các vị đã hiện thân làm các vị Tổ sư, uốn nắn những lệch lạc trong Phật giáo, sáng tác nhiều bộ luận quý báu, chẳng những làm sáng tỏ thêm đạo lý của Phật dạy, mà lắm khi còn phát triển và phát minh những phương pháp tu hành thích hợp với thời cơ làm cho Phật giáo được chấn hưng, san những thời kỳ bị suy sụp. Vì thế, ngoài trụ trì tăng, tín đồ đạo Phật còn quy y với thập phương Bồ-tát tăng là Thường trụ Tăng bảo.

Những tín đồ đạo Phật đã phát Bồ-đề-tâm, nên còn biết trụ trì Tam bảo cũng không ra ngoài pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh của mình, thế có nghĩa là tuy có mình quy y Tam bảo, nhưng sự thật, mình cũng là pháp giới tánh, Tam bảo cũng là pháp giới tánh, không có Tam bảo ra ngoài tâm tánh của mình và cũng không có tâm mình ra ngoài Tam bảo.

Tự tánh bản lai không có nhiễm ô, không có vô minh, đó là Phật bảo.

Tự tính bình đẳng, không có sai khác, tuy biến hiện ra tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, nhưng tất cả các pháp đó, đồng thời đều chỉ là tự tánh, đó là Pháp bảo.

Tự tính có diệu dụng vô lượng vô biên, có hằng sa tính công đức, hiện ra vô số thân, làm vô số Phật sự, nhưng sự thật không được một cái gì cả, đó là Tăng bảo.

Tam bảo trong tự tánh như thế là Tự tánh Tam bảo.

Người tu hành cần quy y với tự tánh Tam bảo, để khỏi nhận lầm thật có Tam bảo ra ngoài tâm tánh.

Quy y, theo tiếng Phạn là “Na-mô” nghĩa là quay về mà nương dựa. Chúngsanh mê lầm như đứa con dại đi lạc đường. Đứa con ấy, nghe theo tiếng gọi của cha mẹ, thì quay về nương dựa, đi theo cha mẹ để khỏi sự lầm lạc. Chúng sanh trong mê lầm, được nghe tiếng gọi của Tam bảo, biết quay vè nương dựa với Tam bảo, đi theo Tam bảo trên con đường giải thoát, thì mới đi ngược lại được với dòng mê và ra khỏi luân hồi.

Vậy quy y không chỉ là một nghi lễ, mà phải là một dịp pháp nguyện trước Tam bảo, cương quyết cải tà quy chánh, nói theo một cách khác là cương quyết đi theo Tam bảo, chứ không lạc vào con đường khác.

1. Quy y Phật, vĩnh bất quy y thên, thần, quỷ, vật: Nghĩa là quy y với Phật, nguyện vĩnh viễn không quy y với Trời, với Thần, với Quỷ, với Vật. Ngoại đạo thường mê tín theo các ông Trời, ông Thần, loài Ma quỷ và các loài vật thành tinh, như cây, đá, cọp, rắn v.v. Tín đồ đạo Phật biết trời, thần, quỷ, vật, chỉ là những loài chungs anh trong vòng luân hồi, nên cương quyết không theo họ và chỉ quy y theo Phật để được giải thoát.

Có người nói: “Cha cũng kín, mẹ cũng vái” hoặc “Phật thì xa, bản nha thì gần” hoặc “Phật cũng kính, Trời cũng sợ”, nói như thế là lẫn lộn giác ngộ với mê lầm, Phật với chúng sanh, Chánh pháp với ngoại đạo.

Nên nhận rõ rằng những loài trời, thần, quỷ, vật đều mê lầm như chúng ta, đều còn bị ràng buộc trong bản nghiệp, nên không thể hiểu biết chúng ta và thường cũng không có quan hệ gì với chúng ta.

Song tư tưởng của chúng ta có một sức mạnh phi thường, khi tư tưởng nhiều người tập trung tin tưởng, thì lại có thể tạo ra những trời, thần, quyrm vật, có một số tác dụng, nhưng, trời, thần, quỷ, vật đó sự thật chỉ là ảo tưởng mà thôi.

Ngoài ra, khi tu hành đã khá, bắt đàu chuyern nghiệp người sang nghiệp khác, thì chúng ta có thể cảm thông với những loài khác được, nhưng sự cảm thông đó vẫn không có lợi ích gì cả, vì những chúng sanh ấy, tuy khác loài người, vẫn còn là chúng sanh, do đó, trong lúc cảm thông với nhau, họ rất có thể lôi kéo người tu hành theo các ngoại đạo.

2. Quy y Pháp, vĩnh bất quy y ngoại đạo, tà giáo: Nghĩa là quy y với Phật pháp, nguyện vĩnh viễn không quy y với ngoại đạo, tà giáo. Ngoại đạo là những đường lối tu hành như đạo Nho, đạo Lão, v.v. không đưa đến kết quả giải thoát. Tà giáo là những lời dạy bảo sai lầm, trái với nhân quả, tăng trưởng các nghiệp ác.

Tín đồ đạo Phật, chỉ nương theo Phật pháp mà thôi, không nên xem đạo Phật cũng là một đạo như các đạo khác, không nên tìm xem kinh điển của các đạo khác, khi chưa hiểu Phật pháp, chỉ khi nào có đủ trí tuệ, phân biệt chánh tà, thì mới nên xem qua các kinh điển ngoại đạo, để chỉ trích những sai lầm và bảo vệ Chánh pháp.

3. Quy y Tăng, vĩnh bất quy y tổn hữu, ác đảng: Nghĩa là quy y với tăng chúng đạo Phật, nguyện vĩnh viễn không đi theo tổn hữu và ác đảng. Tăng chúng đạo Phật sống theo phép lục hòa, là thiện hữu, là thiện tri thức của chúng sanh, còn tổn hữu là một người hoặc những người xui giục làm những điều tổn thương đến đức hạnh, đến thiện niệm và chánh niệm. Ác đảng là những bè phái gây tổn hại cho đa số người, như bè lũ phản quốc, áp bức giết hại nhân dân, phục vụ cho quyền lợi bọn xâm lược nước ngoài. Tín đồ Phật giáo chỉ quy y với Tam bảo, quyết không theo những tổn hữu ác đảng, dù họ có khoác áo người tu hành.

Quy y Tam bảo là ba cái nguyện mà tín đồ đạo Phật cần phải giữ trọn, thì mới xứng đáng là tín đồ đạo Phật, vì thế, không nên truyền thọ Tam quy cho những người chưa hiểu rõ và chưa phát nguyện. Quy y lúc còn nhỏ tuổi, chỉ là kết duyên, không có tác dụng xác thực, khi đã lớn hiểu rõ và biết phát nguyện, thì nên phát nguyện trước Tam bảo, quy y theo đúng Chánh pháp. Tín đồ đạo Phật chúng ta còn tụng Tam tự quy:

- Tự quy y Phật đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.

- Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

- Tự quy y Tăng, đương nguyeengj chúng sanh thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

Nghĩa là:

- Tự mình quy y Phật, thì nên nguyện cho chúng sanh thấu rõ đạo Phật, phát lòng Bồ-đề vô lượng.

- Tự mình quy y Pháp, thì nên nguyện cho chúng sanh đi sâu vào đạo lý của kinh điển, trí tuệ rộng lớn như biển.

- Tự mình quy y Tăng thì nên nguyện cho chúng sanh có khả năng dìu dắt đại chúng tu tập, tổ chức đại chúng theo phép lục hòa, được vô ngại tự tại.

Ba câu này biểu hiện sự nhận rõ về Tam bảo và lòng từ bi, mong cho chúng sanh cũng hiểu rõ như thế và thiết thực học tập tu trì để cùng góp sức xây dựng Tam bảo.

Phát nguyện quy y Tam bảo có lợi ích rất lớn, vì quy y Tam bảo, tức là cải tà quy chánh, bỏ dữ, do đó, quyết định không đọa vào ba đường dữ. Điều cốt yếu là phải phát nguyện thành thực, một lòng tin tưởng Tam bảo, không tin những ngoại đạo tà giáo, những trời, thần, quỷ, vật, cả trong những lúc bị hoạn nạn, bị khó khăn, thì mới được sự lợi ích của việc quy y Tam bảo.

Trong nước ta, thường có phong tục thờ cúng tổ tiên, tín đồ đạo Phật hiểu rằng, ông, bà, cha, mẹ, thân bằng quyến thuộc, khi đã lâm chung, thì trừ khi được về Tịnh độ, tất cả phải luân hồi trong lục đạo, nên không thể có cái hồn về hưởng các lễ tiến cúng, vì thế, tín đồ chỉ xem ngày kỵ lạp là những ngày kỷ niệm, và trong những ngày ấy, thường làm những việc thiện và tụng kinh niệm Phật, để hồi hướng cho vong linh sớm giác ngộ tu theo đạo Phật và vãng sinh Tịnh độ.

Xin nguyện cho tất cả chúng sanh phát tâm thiết thực quy y Tam bảo, tinh tấn tu hành, cùng thành Phật đạo.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2024(Xem: 1218)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2340)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1059)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
19/12/2023(Xem: 4768)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10865)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 10124)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 5340)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
20/08/2023(Xem: 1721)
CHÙA PHẬT LINH 248A Quốc lộ 51, Xã Tân Hòa Thị xã Phú Mỹ, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Điện thoại: 0254 – 3891583 Email: thichhanhdinh@yahoo.com Website: WWW.chuaphatlinh.com Facebook: facebook.com/Chùa Phật Linh Youtube: Thích Hạnh Định Đường nối kết trang youtube https://www.youtube.com/channel/UCXkVoGAVPcN6tvFJyH2LnKg/videos Biên soạn Tỳ kheo Thích Hạnh Định
19/05/2023(Xem: 4819)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng đã kêu gọi đạo Phật ở thế kỷ 21, với sự nhấn mạnh không phải vào nghi lễ, cầu nguyện và lòng sùng mộ, đúng nghĩa hơn là nghiên cứu, tu học đặc biệt là các tác phẩm của 17 vị Luận sư vĩ đại thuộc Nalanda trường Đại học đầu tiên của Phật giáo. Để phù hợp với phương tiện thiện xảo của Đức Phật, nghiên cứu cần phải thích nghi với hoàn cảnh của thế kỷ 21, và phù hợp với các phương pháp truyền thống của Thời đại kỹ thuật số. Nhằm duy trì hiệu quả trong giáo dục Phật giáo, thì phải thích ứng với những nhu cầu thời đại, như nó đã luôn thực hành trong quá khứ. Đặc biệt là để tiếp tục truyền thống vĩ đại của giáo dục Phật giáo Nalanda, cần phải đáp ứng với các phương pháp giáo dục hiện đại, để cung cấp cho các thế hệ trẻ khả năng tiếp cận. Tôi xin dẫn chứng một số bối cảnh lịch sử để chứng minh rằng việc thích nghi với thời đại là phù hợp với truyền thống đạo Phật.
17/05/2023(Xem: 4831)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567