Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

11/12/201016:25(Xem: 9342)
Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ

TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM

tamminh-ledinhthamBác sĩ Lê Đình Thám sanh năm 1897 tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Đoeẹn Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Bác sĩ là thứ nam của cụ Lê Đĩnh (làm quan dước triều Tự Đức với chức Đông các điện Đại học sĩ sung chức Binh bộ thượng thư) và mẹ là cụ bà Phan Thị Hiệu (kế thất).

I. ĐƯỜNG ĐỜI

Thời thơ ấu, Bác sĩ cùng anh là Lê Đình Dương (sau này là Đông Dương y sĩ) đã trực tiếp học chữ Hán với thân phụ. Cả hai anh em đều thông minh xuất chúng ngay từ thuở còn thơ.

Lớn lên, Bác sĩ theo học ở các trường Pháp – Việt. Trong những năm còn là học sinh hay sinh viên, Bác sĩ đã được cảm tình của cả thầy và bạn, luôn luôn giành vị thứ hàng đầu trong các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp.

Bác sĩ tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (Thủ khoa) tại Hà Nội năm 1916 và đỗ Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc tại Y khoa Đại học đường Hà Nội năm 1930.

Bác sĩ ra trường (1916) đúng vào lúc phong trào Duy Tân khởi nghĩa bị thất bại, bào huynh là y sĩ Lê Đình Dương bị Pháp bắt đày lên Ban Mê Thuột và mất tại đó. Bác sĩ bị tình nghi và luôn luôn bị theo dõi. Trong thời gian này, Bác sĩ còn nghiên cứu thêm về triết học Động phương như Nho, Lão, Phật,…

Năm 1926, trong lúc đang phụ trách y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), Bác sĩ được tin cụ Phan Chu Trinh mất. Bác sĩ cùng những người yêu nước chống Pháp thời bấy giờ đã làm lễ truy điệu trọng thể và chịu tang nhà chí sĩ yêu nước. Thực dân Pháp đã thuyên chuyển Bác sĩ ra Hà Tĩnh, và sau đó ít lâu, lại thuyên chuyển về Huế đảm trách y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur. Ở đây, Bác sĩ đã cộng tác với Bác sĩ Normet (Giám đốc Y tế Trung kỳ) phát minh ra sérum Normet và mấy dược phẩm có giá trị khác. Trong thời gian này, Bác sĩ lên chùa Trúc Lâm, cách kinh đô Huế khoảng 12 km, để học đạo với Hòa thượng trụ trì ở đây là ngài Giác Tiên. Sau khi nhận chân được giáo lý cao thâm của đạo Phật, Bác sĩ đã chuyển hướng đời mình: Phát nguyện Qui y Tam bảo, trường trai trong những ngày còn lại của đời mình, quyết tâm nghiên cứu học hỏi kinh điểm Phật giáo để hoằng hóa độ sanh. Bác sĩ đã được Hòa Thượng Giác Tiên làm lễ thọ Tam qui Ngũ giới và đặt pháp danh là Tâm Minh.

II. ĐƯỜNG ĐẠO

Năm 1929 – 1933, Bác sĩ thọ giáo với Hòa thượng phướng Huệ (chùa Thập Tháp, Bình Định). Nghiên cứu các bài giảng của ngài Tái Hư đạo sư ở Trung Hoa về cách thức tổ chức Phật giáo, Bác sĩ đã đệ đạt ý kiến của mình lên quí Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Khiết và được các Ngài chấp thuận. Từ đó Hội An Nam Phật học ra đời, do các vị tôn túc hòa thượng và cư sĩ tiên tiến đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc hoằng dương Chánh pháp. Trụ trở đầu tiên đặt ở chùa Trúc Lâm do Bác sĩ làm Hội trưởng và các tôn túc Hòa thượng nằm trong Ban Chứng Minh và Cố vấn cho Hội. Sau đó, Hội dời trụ sở về chùa Từ Đàm (mới được xây dựng lại) và bắt đầu truyền đạo với nhiều hình thức mới do sáng kiến và công lao hàng đầu của Bác sĩ:

- Thuyết pháp thường kỳ cho tín đồ nghe tại chùa Từ Đàm và Từ Quang.

- Mở trường đào tạo Tăng tài từ sơ đẳng đến cao đẳng Phật học.

- Thành lập các Tỉnh hội, Chi hội, Khuôn hội để gánh vác trách nhiệm hoằng dương Chánh pháp khắp các tỉnh miền Trung.

- Thành lập đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, các Gia đình Phật hóa phổ.

- Xuất bản tờ báo Phật giáo (Nguyệt san Viên Âm).

- Xây dựng Đại tòng lâm tại Kim Sơn (Huế).

Từ năm 1934 đến 1945 là những năm hoàn chỉnh các tổ chức Phật giáo và công cuộc đào tạo Tăng-tài. Kết quả của những năm tháng mà Bác sĩ đã đóng góp mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng-sĩ tài ba đã nở rộ (trong đó có một số hiện nay đang giữ những nhiệm vụ trọng yếu trong Giáo hội); một giới cư sĩ Phật tử thuần thành, có thực tu thực học, trợ thủ đắc lực cho giới Tăng-già trong công cuộc hoằng dương chánh pháp.

III. ĐỜI ĐẠO HÀI HÒA

Mùa thu năm 1946, theo tiếng gọi chống thực dân Pháp cứu nước, Bác sĩ cùng gia đình rời khỏi Huế vào chiến khu tham gia kháng chiến chống Pháp đồng thời cũng tiếp tục làm Phật sự tại địa phương (Liên khu V). Sau khi công cuộc chống thực dân Pháp thắng lợi, Bác sĩ về thủ đô Hà Nội và được mời giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân các nước, gìn giữ hòa bình. Cũng trong thời gian này, Bác sĩ được bầu làm Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Ngoài những giờ làm việc cho xã hội, Bác sĩ thường đến chùa Quán sứ để dịch kinh và giảng Pháp cho Tăng, Ni và Phật tử. Mặc dù, lúc ấy đất nước ta đang bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc, Bác sĩ vẫn vun vén mối quan hệ đạo tình giữa Phật giáo miền Nam và Phật giáo miền Bắc. Một bằng chứng cụ thể là trong Đại hội Phật giáo thế giới họp tại Ấn Độ năm 1957, Bác sĩ đã vận động để cho hai phái đoàn Phật giáo miền Bắc và miền Nam nhập làm một phái đoàn Phật giáo Việt Nam và bầu Hòa thượng Huệ Quang làm trưởng đoàn.

Sau những năm tháng tận tụy phục vụ đắc lực cho đạo pháo và dân tộc, Bác sĩ đã bình thản ra đi vào 10 giờ sáng ngày 23-4-1969 (nhằm 7.3 ÂL) tại Hà Nội.

IV. MẤY CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI CHÉP TIỂU SỬ VỀ CUỘC ĐỜI CỦA BÁC SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM.

1. Nguyên nhân gì đã đưa Bác sĩ Lê Đình Thám đến với đạo Phật?

Trong các bài viết về tiểu sử BS. Lê Đình Thám, thường thấy có nói đến một chi tiết được xem như là nguyên nhân chính đã thu hút Bác sĩ Lên Đình Thám đến với đạo Phật. Đó là bài kệ của tổ Huệ Năng. Câu chuyện được kể như sau: Năm 1926, trong thời gian công tác tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), một hôm đi viếng cảnh chùa Non Nước (Đà Nẵng). Bác sĩ tình cờ thấy trên vách chùa có ghi bài kệ của tổ Huệ Năng (“Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạn trần ai”). Bài kệ đã đập mạnh vào tâm trí Bác sĩ, ghi một ấn tượng sâu sắc khá phai mờ. Hai năm sau(1928), khi được thuyên chuyển về làm y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur tại Huế, nhân mội hôm đi tham quan chùa Trúc Lâm, Bác sĩ đã yết kiến Hòa thượng Giác Tiên và được Hòa thượng khai ngộ cho về ý nghĩa thâm sâu của bài kệ. Từ đó, Bác sĩ phát Bồ-đề tâm, xin quy y Tam bảo và nhận Hòa thượng Giác Tiên làm bổn sư.

Chúng tôi không phủ nhận ý nghĩa thâm sâu của bài kệ của tổ Huệ Năng, cũng không phủ nhận cái ảnh hưởng có mức độ của bài kệ trong tâm hồn của Bác sĩ. Nhưng cho rằng bài kệ là nguyên nhân chính thúc đẩy Bác sĩ đến với đạo Phật thì chưa thỏa đáng. Chúng ta thử đặt một giả thiết ngược lại: Nếu không tình cờ đọc được bài kệ ấy trên vách chùa Non Nước, nếu không có cơ may gặp được Hòa thượng Giác Tiên giải thích cho Bác sĩ cái ý nghĩa thâm sâu của bài kệ thì Bác sĩ sẽ không đến với Phật, để trở thành một trụ cột chính của phong trào Chấn hưng Phật giáo của miền Trung, và đồng thời, của cả nước chăng? Chắc chắn một giả thiết như vậy không thể đứng vững được. Chúng tôi có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng, dù có hay không có bài kệ của tổ Huệ Năng, con đường tất yếu mà Bác sĩ phải chọn để đi là con đường đến với đạo Phật. Và để có được sự khẳng định này, chúng tôi đã căn cứ trên nhiều yếu tố cụ thể: bản thân và gia đình của Bác sĩ, hoàn cảnh xã hội và giai đoạn lịch sử của đất nước bấy giờ.

Đọc tiểu sử của Bác sĩ, chúng ta nhận thấy Bác sĩ đã hưởng được nhiều thuận lợi, may mắn trong đời mà ít người có được: Một dung mạo khôi ngô dễ mến, một nền học vấn quán thông cả Đông và Tây phương, một địa vị tri thức hàng đầu trong nền trật tự xã hội mới. Nhưng bên cạnh những thuận lợi quý báu ấy, những khó khăn trở ngại mà Bác sĩ phải đương đầu cũng không phải là ít: Một thân sinh làm đến chức Thượng thư, nhưng đã treo ấn từ quan, nghĩa là đang có “vấn đề”với triều đình; một người anh ruột bị bắt và bị chết trong ngục thất vì chống chế độ thực dân Pháp; một tài năng xuất chúng nhưng không được trọng dụng, vì chính quyền thực dân nghi ngờ; một lòng yêu nước nồng nàn, nhưng phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng. Và đây chính là nỗi đau lớn nhất, niềm trăn trở nhức nhối nhất của Bác sĩ. Làm cách nào góp sức cởi cái ách thực dân quá lớn đang đè nặng trên đầu dân tộc? Các cuộc khởi nghĩa vũ trang của những người đi trước đã bị tiêu diệt, các phong trào yêu nước Cần Vương, Văn thân, Đông du đã theo nhau tan rã, nền cai trị của thực dân mỗi ngày mỗi được củng cố, Triều đình Huế chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của uy quyền quốc gia.

tamminh-ledinhtham2-contentChúng ta có thể hình dung được những ngày chán chường Bác sĩ phải kéo lê cuộc đời tẻ nhạt của mình, như một cuộc lưu đày, sau khi ra trường, qua 7 tỉnh miền Trung, từ Bình Thuận đến Hà Tĩnh. Và khi từ Hà Tĩnh được thuyên chuyển về Huế, thực dân thôi “săn sóc” Bác sĩ và cuộc lưu đày 10 năm đã chấm dứt chăng? Chưa đâu! Đây chỉ là một sự thay đổi chiến thuật: Thực dân không muốn để cho Bác sĩ ở lâu ở Hà Tĩnh – một tỉnh nghèo nhất nước, nhưng cũng sản sinh ra nhiều nhà chí sĩ, cánh mạng nhất nước – là vì sợ Bác sĩ “nhiễm” nặng thêm cái tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, nên đưa Bác sĩ về Huế - nơi cũng sản sinh không ít những nhà chí sĩ yêu nước thương nòi, nhưng cũng không ít những “thương nữ bất tri vong quốc hận”, đêm đêm trên dòng “sông Hương nước chảy lờ đờ”, cất lên những giọng ca ai oán, sầu bi làm nhụt chí nam nhi. Trong những năm đầu về Huế, vị Bác sĩ kính mến của chúng ta có lẽ cũng đã có lúc bị mê hoặc bởi những tiếng đàn, tiếng ca réo rắt, ai oán ấy. Nhưng rồi một buổi sáng Chủ nhật, Bác sĩ đã dời dòng sông Hương để đi về phái núi Ngự, tìm đến những ngôi chùa cổ rêu phong để học đạo, rồi sau đó đã xin thọ Tam qui, Ngũ giới với những vị cao tăng thạc đức. Chúng ta có thể hình dung được tiếng cười khoái trá của viên Chánh sở Mật thám Sogny khi được nhân viên báo cáo sự kiện này. Ông ta nói gì trước một tin bất ngờ như vậy? Có thể là một câu nói tương tự như thế này với cái giọng Việt Nam lơ lớ: “Đi tu, rời bỏ tiếng dàn hát trên sông Hương để đi theo tiếng chuông tiếng mõ sau núi Ngự? Tốt thôi, cứ để cho anh ta tự do đi chùa!”. Đối với viên mật thám vô cùng quỷ quyệt này, Bác sĩ lúc bấy giờ là một “anh hùng đã thấm mệt”- nói nôm na là đã “hết xài”. Nhưng đối với Bác sĩ, đây là giai đoạn khởi đầu của một cuộc đời có ý nghĩa. Bác sĩ đến với Phật giáo không phải là để tìm sự thảnh thơi mà chính là để thực hiện tấm lòng yêu nước thiết tha của mình, bằng cách trở về nguồn, tìm lại những tinh coa của nền văn hóa truyền thống dân tộc, một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật, đạo của Từ bi và Trí tuệ, Bình đẳng và Vị tha… Qua cái nhìn chính xác và sâu sắc của Bác sĩ, đạo Phật có một giá trị nhân bản và một tiềm năng rất lớn, nếu biết khai thác và cải cách cho thích hợp với thời đại mới, thì sẽ cống hiến cho đời nhiều chất liệu quí báu để xây dựng con người và xã hội tốt đẹp. Nắm vững chủ trương đúng đắn ấy, Bác sĩ đã tập hợp và huy động được những đồng tâm đồng chí trong giới Tăng-ni và Phật tử có tâm huyết bắt tay vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Và từ đó, đạo Phật Việt Nam đã có một sắc thái mới mẻ, trong sáng hơn. (Hình bên trên: tượng BS. Tâm Minh đặt tại khuôn viên chùa Từ Đàm, Huế)

2. Những yếu tố gì trong con người của Bác sĩ Lê Đình Thám đã đưa Bác sĩ thành công trong công cuộc Chấn hưng Phật giáo?

Có một lý tưởng cao đẹp đã là khó, thực hiện thành công lý tưởng cao đẹp ấy lại còn khó hơn. Hai cái khó ấy, Bác sĩ đã vượt qua không mấy khó khăn. Trước tiên, là nhờ trí tuệ thông minh vô cùng nhạy bén của Bác sĩ. Thứ đến, là có một nền học vấn sâu rộng vững chắc quán xuyết cả Đông Tây (như chúng ta đã thấy ở phần trên), cộng thêm với cái đức tính say mê tìm tòi, hiểu biết về nhiều lĩnh vực: Khoa học, triết học, văn chương, nghệ thuật,… Một sự trùng hợp ngộ nghĩnh, không mà như có chuẩn bị trước: Đức Phật thường dạy đệ tử cần phải trau dồi Ngũ minh để giúp đời: Nội minh (tinh thông giáo lý nội điển), Nhân minh (tinh thông phương pháp biện luận), Thanh minh (tinh thông ngôn ngữ), Y phương minh (tinh thông y lý để chữa bệnh), Công xảo minh (tinh thông nghề nghiệp). Trong năm cái này, Bác sĩ có đủ cả năm và đã sử dụng một cách thành thạo xuất sắc, đạt hiệu quả cao, không ai sánh kịp.

Nhưng nếu chỉ có trí tuệ và tài năng, thông minh và kiến thức thì chưa đủ để trở thành một nhà lãnh đạo lớn nói chung, và của Phật giáo nói riêng.

Ở Bác sĩ, có một đức tánh quý báu nhất, đã đưa Bác sĩ đến thành công, là sự quên mình vì công việc chung. Khi bắt tay vào một công việc gì, Bác sĩ tận tụy hết mình, không quản khó khăn mệt nhọc, không tiếc sức khỏe, thời gian, tiền bạc, chỉ mong sao cho công việc được viên thành. Vì không chỉ thấy có mình, nêm Bác sĩ đã dễ dàng thông cảm, hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, sở trường sở đoản của người khác và từ sự hiểu biết đó, dành cho họ một chỗ đứng thích nghi, một công tác thích hợp với khả năng của mỗi người, mỗi giới trong cái công trường rộng lớn của xã hội.

Chúng ta không thể không ngạc nhiên và vô cùng thán phục Bác sĩ, khi thấy Bác sĩ đã động viên được không những giới đồng liêu tân học, mà cả giới cựu học thâm Nho, không những giới tư sĩ mà cả giới Tăng-già, từ các bậc đại lão Hòa thượng cho đến cháu thanh, thiếu, đồng niền, mọi người hăng hái tham gia vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Bác sĩ đã có một sức thu hút rất lớn, đã tập họp được các giới đồng bào đến với Phật giáo, là do Bác sĩ đã thể hiện được đức tánh Vô ngã, Vị tha.

Cuộc đời Bác sĩ là một tấm gương sáng cho Phật tử chúng ta cùng soi chung.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày lễ Phật Đản

PL.2535 (28-5-1991)

Võ Đình Cường

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2024(Xem: 1062)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 1949)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 951)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
19/12/2023(Xem: 4358)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10463)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 9825)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 4984)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
20/08/2023(Xem: 1678)
CHÙA PHẬT LINH 248A Quốc lộ 51, Xã Tân Hòa Thị xã Phú Mỹ, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Điện thoại: 0254 – 3891583 Email: thichhanhdinh@yahoo.com Website: WWW.chuaphatlinh.com Facebook: facebook.com/Chùa Phật Linh Youtube: Thích Hạnh Định Đường nối kết trang youtube https://www.youtube.com/channel/UCXkVoGAVPcN6tvFJyH2LnKg/videos Biên soạn Tỳ kheo Thích Hạnh Định
19/05/2023(Xem: 4643)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng đã kêu gọi đạo Phật ở thế kỷ 21, với sự nhấn mạnh không phải vào nghi lễ, cầu nguyện và lòng sùng mộ, đúng nghĩa hơn là nghiên cứu, tu học đặc biệt là các tác phẩm của 17 vị Luận sư vĩ đại thuộc Nalanda trường Đại học đầu tiên của Phật giáo. Để phù hợp với phương tiện thiện xảo của Đức Phật, nghiên cứu cần phải thích nghi với hoàn cảnh của thế kỷ 21, và phù hợp với các phương pháp truyền thống của Thời đại kỹ thuật số. Nhằm duy trì hiệu quả trong giáo dục Phật giáo, thì phải thích ứng với những nhu cầu thời đại, như nó đã luôn thực hành trong quá khứ. Đặc biệt là để tiếp tục truyền thống vĩ đại của giáo dục Phật giáo Nalanda, cần phải đáp ứng với các phương pháp giáo dục hiện đại, để cung cấp cho các thế hệ trẻ khả năng tiếp cận. Tôi xin dẫn chứng một số bối cảnh lịch sử để chứng minh rằng việc thích nghi với thời đại là phù hợp với truyền thống đạo Phật.
17/05/2023(Xem: 4730)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567