Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bồ-Tát Thừa

11/12/201016:20(Xem: 9461)
Bồ-Tát Thừa

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

BỒ-TÁT THỪA

Bồ-tát thừa là đường tu hành của các vị Bồ-tát, nhằm tự giác, giác tha, đến giác hạnh viên mãn và thành Phật Đạo.

Trong Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa, đường lối tu hành của Phật dạy, đều dựa vào quy luật nhân quả sẵn có, trong diễn biến của sự sự vật vật, đường lối này chủ yếu nhận rõ nguyên nhân của luân hồi, tu tập diệt trừ những nguyên nhân ấy, để ra khỏi luân hồi và được giải thoát. Còn Bô-tát thừa, thì nhằm mục đích tự giác và giác tha, đi đến hạnh giác viên mãn.

Tự giác là giác ngộ bản lai tự tính của mình. Muốn giác ngộ được bản lai tự tính, thì điều cốt yếu là phải nhận rõ, thế nào là bản lai tự tánh.

Tất cả sự sự vật vật có danh, có tướng, có thể nhận biết được, thì đều gọi là pháp, và đều thuộc về một giới, gọi là pháp giới. Bản tánh của pháp giới, là các pháp duyên khởi ra nhau, một pháp duyên khởi ra tất cả các pháp, tất cả các pháp duyên khởi ra một pháp, cùng ba đời, khắp 10 phương, không thể tách rời một pháp nào với một pháp nào cả. Ví dụ, như hạt bụi là một vật có hình tướng, vật có hình tướng này, không thể riêng có một mình, và chỉ có được nhờ đối với những cái không có hình tướng. Những cái không có hình tướng đó, cũng phải nhờ đối với những cái có hình tướng khác mà thành, và những cái có hình tướng khác đó, lại cũng phải nhờ đối với những cái không có hình tướng khác mà thành, các pháp ảnh hưởng dây chuyền với nhau như thế, nên cái có của hạt bụi, là do tất cả các sự vật trong ba đời, mười phương duyên khởi ra các sự vật trong ba đời, mười phương. Nếu cái có hình tướng của hạt bụi không thành lập thì cái không có hình tướng cũng không thể thành lập và như thế, tất cả sự vật đều hóa thành không có tính cách gì. Cái tính của tất cả các pháp duyên khởi dây chuyền lẫn nhau, thì gọi gì tánh trùng trùng duyên khởi, tánh ấy là tánh của pháp giới, nên cũng được gọi là pháp giới tánh. Dựa vào pháp giới tánh này, tất cả các pháp tác động, ảnh hưởng, chi phối… nương tựa kết hợp, đối đãi lẫn nhau mà chuyển biến không ngừng, theo quy luật nhân quả, nên gọi pháp giới tánh là cơ sở, là then chốt của nhân quả,chỉ có thể diễn biến trong pháp giới tính mà thôi.

Tâm của chúng sanh là một pháp, trong vô lượng, vô số pháp. Đã là một pháp thì bản tánh của tâm chỉ có thể là pháp giới tánh. Vậy giác ngộ bản lai tự tánh, tức là giác ngộ pháp giới tánh của tự tâm.

Pháp giới tánh của tự tâm, cũng tức là pháp giới tánh của tất cả sự vật, của tất cả các pháp, không có gì sai khác. Do pháp giới tánh không có gì sai khác, nên gọi là như, do pháp giới tánh rõ thật là bản tính của các pháp, nên gọi là chân, vì thế nên pháp giới tánh, cũng gọi là tính chân như. Giác ngộ được tính chân như của tâm mình, thì gọi là tự giác.

Pháp giới tánh là chân như, nhưng pháp giới tánh lại có khả năng duyên khởi ra mọi sự, mọi vật, duyên khởi ra thế giới và chúng sinh trong mười phương, ba đời, có nhiều tướngsai khác, mặc dầu bản tánh vẫn là chân như, không có sai khác. Nếu chỉ nhận được cái tánh chung của các pháp là tánh chân như, thì còn chưa có nhận thức sâu sắc về pháp giới tánh, vì thế, các vị giác ngộ được bản lai tự tánh cần phải vận dụng pháp giới tánh trong nhiều trường hợp khác nhau, để thấy rõ cái dụng to lớn của pháp giới tánh, để thấy rõ pháp giới tánh duyên khởi ra các sự vật mà không hề thay đổi, pháp giới tánh tuy không hề thay đổi, mà có khả năng duyên khởi ra các sự vật. Vì thế, đi đôi với các công hạnh tự giác, các vị Bồ-tát còn tu tập những công hạnh giác tha, nghĩa là hiện ra nhiền thân trong các loài, để hóa độ chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

Cả trong lúc mới phát tâm tu học Bồ-tát thừa, các vị Bồ-tát cũng đã phát những đại nguyện phổ độ chúng sanh, vì chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn, thì công hạnh tự giác mới thật viên mãn, nghĩa là chứng được toàn thể toàn dụng của pháp giới tánh. Nếu không có công hạnh giác tha, thì chân như chỉ là cái chân như tương đối, cái chân như đối với cái không chân như, như chân như vô dụng, không thể là bản tánh chân như của pháp giới tánh.

Lại, cũng chỉ nhờ công hạnh giác tha, mới rõ được, thật tướng của pháp giới, thật tướng ấy, về phương diện tuyệt đối là bất khả tư nghị, nghĩa là không thể nghĩ được, không thể nói được, mà về phương diện tương đối, thì lại có thể nghĩ được, có thể nói được. Thật tướng tương đối này rất phức tạp, vì một vật dù nhỏ đến đâu, cũng đối đãi hiện ra cái vũ trụ của mình và cái tướng của vật đó, cũng chuyển biến thao sự đối đãi của các vật khác. Chính vì thế, mà chúng sanh có cái thân nào, thì đồng thời có cái cảnh giới đối hiện với cái thân ấy, vì thế mà một sự vật nào cũng có những tướng đối hiện trong cảnh giới của tất cả sự vật khác. Về sự vật đối hiện lẫn nhau như thế, thì gọi là diện hữu. Do có đối đãi mà thành ra có, do đối với cái này thì hóa ra thế này, đối với cái khác thì hóa ra cái thế khác, như huyễn, như hóa, không có tự tánh, nên gọi là diện hữu. Chỉ khi nào thật hành trong diện hữu, mà hóa độ quần sanh, thì mới nhận rõ thật tướng của pháp giới, đi đến chẳng những nhận rõ cái không sai khác về thể tánh, mà còn nhận rõ cái không sai khác về sự tướng, đi đến nhập một với pháp giới tánh và thành Phật đạo.

Những phương pháp tu hành để nhập một với pháp giới tánh rất nhiều, nay chỉ xin giới thiệu hai phương pháp là: Nhất tâm tam quán và lục Ba-la-mật.

A. Nhất tâm tam quán

Tâm là tâm hay biết hiện tiền của chúng ta, tâm ấy là một pháp, nên bản tánh của tâm ấy, tức là pháp giới tánh. Pháp giới tánh chỉ là một, nên gọi là nhất tâm. Nhất tâm là một tuyệt đối chỉ có tâm tính, ngoài tâm tính ra, không còn có gì nữa, nói một cách khác là tất cả sự vật, dầu tâm, dầu cảnh, dầu sắc, dầu không, dầu mê, dầu ngộ, dầu Phật, dầu chúng sanh, đều chỉ là tâm tính. Trong tâm tính tuyệt đối ấy, thật tế không có cái gì không phải là tâm tính, nên cũng không còn đối với cái gì, mà gọi là tâm tính được nữa. Người tu hành nương theo đạo lý nhất tâm này, mà tu ba phép quán, nên gọi là Nhất tâm tam quán. Ba phép quán là Không quán, Giả quán và Trung quán.

1. Không quán: Không quán là quán tất cả sự vật nghĩ bàn được, đều do sự chi phối của tâm phân biệt, ngoài tâm phân biệt ra thì cũng không thể có những sự vật nghĩ bàn được, như thế tất cả các sự vật nghĩ bàn được, nghĩa là tất cả các pháp, đều do tâm phân biệt biểu hiện như huyễn, không có tự tính. Lại cái tên phân biệt đó, ngoài các pháp bị phân biệt ra cũng không còn gì, do đó, chẳng những các pháp bị phân biệt và cả cái tâm phân biệt, đều không có tự tính. Không quán diệt trừ được tất cả các phân biệt và đem về vô phân biệt.

2. Giả quán: Giả quán là quán tất cả sự vật, tuy không có tự tính nhưng lại có thể đối đãi hiện ra nhiều tính sai khác, song tất cả những cái sai khác đó, chỉ là cái sai khác, trong bản tính không sai khác. Giả quán là vô phân biệt, hiện ra có phân biệt, đồng thời quy nạp tất cả những cái có phân biệt, trở về bản tính vô phân biệt. Do giả quán này, người tu hành có thể theo sự phân biệt của chúng sanh mà làm Phật sự, mà làm các công đức, nhưng vẫn không rời tánh vô phân biệt.

3. Trung quán: Trung quán là tất cả sự vật, phân biệt thì có, không phân biệt thì không, thật tế vẫn không thể nghĩ bàn được và vẫn ra ngoài cái có và cái không, cho đến ra ngoài tất cả các quan niệm đối đãi khác, lần lần đi đến bản tánh chân như, theo duyên mà không thay đổi, không thay đổi mà theo duyên, phát ra bình đẳng tánh trí, nhận tất cả mọi vật đều bình đẳng, cho đến Trung đạo và không Trung đạo cũng bình đẳng, bình đẳng và bất bình đẳng cũng bình đẳng, từ đó phát huy hiệu dụng của chân như, đi đến nhập một với pháp giới tánh, trên cùng với chư Phật đồng một từ lực, dưới cùng với chúng sanh đồng một bi ngưỡng, mà thật tế không thấy có sự sai khác giữa mình với người, giữa tâm với cảnh, giữa có và không, giữa mê và ngộ, giữa Phật và chúng sanh. Đó là chân pháp giới của chư Phật và của các vị pháp thân Bồ-tát.

B. Lục Ba-la-mật

Lục Ba-la-mật là sáu pháp đến bờ bên kia. Bờ bên này là vô minh, bờ bên kia là trí tuệ tự giác. Sáu phép Ba-la-mật là những phép tu hành, thuận theo trí tuệ tự giác, đi đến trí tuệ tự giác, ở trong trí tuệ tự giác, nên gọi là đến bến bờ kia. Sáu phép ấy là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền đinh và bát nhã Ba-la-mật.

1. Bố thí Ba-la-mật:

Bố thí là đem những cái mình có, mà giúp cho người. Khi đem tiền của mà giúp cho người, thì gọi là tài thí, khi đem chánh pháp mà dạy cho người, thì gọi là pháp thí, khi đem sức mình cứu giúp che chở cho người, thì gọi là vô úy thí, nghĩa là bố thí cái không sợ, khi người khác đang sợ hãi. Các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh không có xan tham mà tu hạnh bố thí. Trong lúc bố thí, các vị không rời bản tánh chân như, nên không thấy thật có mình bố thí, thật có người chịu bố thí, thật có sự bố thí, không thấy thật có quả báo bố thí và không mong cầu quả báo ấy, nên gọi là bố thí Ba-la-mật, khác với lối bố thí thông thường, còn phân biệt có mình, có người, có sự, có vật. Do các vị Bồ-tát thuận theo tâm tánh vô biên mà bố thí, nên phúc đức cũng vô lượng, vô biên.

2. Trì giới Ba-la-mật

Các vị Bồ-tát nhận xét bản tánh không có thuận trước, nên thuận theo bản tánh, tu hành phép trì giới Ba-la-mật. Giới có ba nhóm: Nhóm thứ nhất, là nhiếp luật nghi giới, cùng tất cả những luật nghi, giữ gìn một cách nghiêm túc, khi đã lãnh thọ, để hộ trì thân tâm được thanh tịnh, xa rời các ác nghiệp. Bồ-tát chấp trì luật nghi nơi tâm, làm cho tâm không vọng động, đi đến cả thân, và tâm đều yên lặng thông suốt, không còn những niệm bất thiện và mê lầm.

Nhóm thứ hai, là nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là cái giới buộc phải làm tất cả những điều kiện hữu lậu và vô lậu, nói một cách khác là phải học làm tất cả những điều có lợi cho người và cho các loài hữu tình, đồng thời, phải có học tập và tu hành tất cả các pháp môn nhuận theo bản tánh thanh tịnh.

Nhóm thứ ba, là nhiêu ích hữu tình giớilà cái giới buộc phải tìm mọi cách làm lợi cho các loài hữu tình, đặc biệt là làm cho các loài hữu tình hiểu biết và tin ngưỡng Phật pháp, dắt dẫn các loài hữu tình tu hành theo đạo giải thoát. Các vị Bồ-tát chú ý đặc biệt việc hóa độ chúng sanh, vì biết rõ tất cả những phước báo thế gian chỉ là tạm thời, duy có dắt dìu chúng sanh vào con đường giải thoát, thì mới phục vụ lợi ích lâu dài cho chúng sanh mà thôi.

Trong lúc trì giới các vị Bồ-tát không thấy thật có mình trì giới, không thấy thật có giới phải trì, không thấy thật có thiện, thật có ác, thật có hóa độ, thật có chúng sanh, nói một cách khác, không lúc nào rời bản tính chân như, nên gọi là trì giới Ba-la-mật.

3. Nhẫn nhục Ba-la-mật:

Nhẫn nhục Ba-la-mật, nếu phải dịch cho đúng thì phải dịch là nhẫn Ba-la-mật, vì nhẫn có nhiền hành tướng sai khác, chứ không phải là nhẫn nhục. Nhẫn gồm ba thứ là: An thọ khổ nhẫn, nghĩa là an tâm chịu các cảnh khổ, Nạn oán hại nhẫn, nghĩa là chịu đựng những sự ám hại của kẻ thù, và Đế sát pháp nhẫn,nghĩa là bền chí, quyết tâm quán sát chín chắn chân tánh của các pháp. Các vị Bô-tát thuận theo bản tánh chân như vốn không có giận ghét, không có chấp nệ mà tu hành nhẫn Ba-la-mật. Chẳng những đối với những nghịch cảnh, có hại cho mình, Bồ-tát không sanh lòng giận ghét, mà đối với những thuận cảnh, có lợi cho mình, Bồ-tát cũng ko sanh lòng ham trước, Bồ-tát còn đi ngược lại những thói quen mê lầm nhiều đời nhiều kiếp, kiên quyết không nhận thật có ngã, thật có pháp, mặc dầu sự thúc dục của những thói quen đó. Do tâm cương quyết ấy, Bồ-tát luôn luôn huân tập tự tâm bằng những chánh niệm vô ngã, vô pháp, đi đến thật chứng vô sinh nhẫn và vô pháp nhẫn. Trong lúc tu hành nhẫn Ba-la-mật, các vị Bồ-tát không thấy thật có mình tu hành, thật có nhẫn phải tu, thật có đạo quả phải chứng, không hề rời bản tánh chân như, nên gọi là nhẫn Ba-la-mật.

4. Tinh tấn Ba-la-mật

Các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh không có lười biếng, mà tu hành tinh tấn Ba-la-mật. Do các vị Bồ-tát thật biết sẵn có tâm tính thanh tịnh sáng suốt như Phật không khác, nên phát tâm cương quyết tu tập phát hiện tánh ấy, luôn luôn tiến mãi trên con đường Bồ-đề, nên gọi là tinh tấn. Như thế, tinh tấn không phải là cái siêng năng tu tiến trên con đường tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Tinh tấn bao gồm tất cả các Ba-la-mật, nó có tác dụng thúc đẩy tu tiến thêm mãi, không tự mãn với những pháp đã thực hiện được. Trong lúc tinh tấn, các vị Bồ-tát thuận theo bản tánh chân như, không thấy thật có pháp phải tu, không thấy thật có việc phải làm, không thấy thật có đạo quả phải chứng, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật.

5. Thiền định Ba-la-mật

Thiền định dịch là tịnh lự, có cả tịnh và lự, nghĩa là có cả sự yên lặng và sự suy nghĩ, mới gọi là thiền định. Trong các kinh, thường cắt nghĩa thiền định là “tâm nhất cảnh tính”. Tâm nhất cảnh tính có rất nhiều nghĩa: hàng sơ tâm tu tập thiền định, chuyên tâm về một cảnh, thì chỉ được tâm nhất cảnh, chứ chưa được tâm nhất cảnh tính. Các vị tu tập thiền định, quán tất cả các cảnh đều đồng một tính, như tính chân không, tính như huyễn v.v. thì bắt đầu được gọi là tâm nhất cảnh tính, vì tâm chỉ duyên với một tính của cảnh mà thôi. Nhưng tâm năng quán và cảnh sở quán không thể tách rời nhau, năng với sở là một, tâm với cảnh không hai, nên chỉ khi nào, đi đến tri và lý hợp nhất, năng và sở đồng một thể tính, thì mới thật được tâm nhất cảnh tính. Các vị Bồ-tát tu thiền định, nhưng vẫn thuận theo bản tánh chân như, không thấy thật có thiền định phải tu, không thấy thật có đạo quả phải chứng, nên gọi là thiền định Ba-la-mật.

6. Bát nhã Ba-la-mật

Bát nhã, thường dịch là trí tuệ, do trí tuệ ấy, phát hiện ra bản tánh chân như, không được một cái gì, nên cũng gọi là không tuệ. Bồ-tát thuận theo bản tánh không có si mê mà tu hành trí tuệ Ba-la-mật. Trí tuệ là cái tâm sở biết lựa chọn giữa chân và vọng, giữa thật và giả, phân tích ra thì có văn tuệ, tư tuệ, và tu tuệ.

Văn tuệ: Là khi nghe Phật pháp, hiểu rõ ý nghĩa, bắt đầu quan niệm được bản tánh thanh tịnh sáng suốt của mình, do đó phát lòng tin chắc chắn đối với Phật pháp.

Tư tuệ: Là nương theo Chánh pháp đã nghe được, tự mình suy xét nơi cảnh hiện tiền, đi đến giác ngộ được bản lai tự tánh của mình không có sai lầm.

Tu tuệ: Là nương theo cái trí tuệ, bắt đầu trực nhận bản tánhchân như mà tu tập gột rửa những thói quen mê lầm từ nhiều kiếp để lại, đi đến duy có một tâm chân như, phát ra cái diệu dụng của chân như, đầu đủ vô lượng, vô biên công đức và nhập một mới pháp giới tánh.

Trí tuệ bát-nhã của các vị Bồ-tát phá tan tất cả những chấp kiến mê lầm, chấp có thật ngã, thật pháp, thuần một Trung đạo, không còn một sự đối đãi gì, tuyệt nhiên không có sự phân biệt về người, về mình, về tâm, về cảnh, về thời gian, về thường, về đoạn, về có, về không, về trung gian hay không phải trung gian, về lý, về sự, nên gọi là bát nhã Ba-la-mật.

Các vị Bồ-tát vận dụng bát nhã Ba-la-mật mà hóa độ chúng sanh, mà đầy đủ bốn đức từ, bi, hỷ, xả. Từ là yêu mến chúng sanh, cho chúng sanhcác điều vui, Bi là thương xót chúng sanh, cứu chúng sanh khỏi điều khổ, Hỉ là vui mừng khi được gặp gỡ thân cận chúng sanh, vì đó là dịp kết duyên và hóa độ, Xả là nhận rõ mọi sự mọi vật đều là những tướng sai khác của bản tánh không sai khác, nên tuy làm nhiều Phật sự, rất nhiều công đức, nhưng vẫn không thấy có ai làm, có làm cái gì và có làm cho ai, vẫn không có một cái gì cả. Vì bản tánh là chân như, ra ngoài các sự đối đãi.

Trong sáu phép Ba-la-mật, bố thí, trì giới và nhẫn nhục thuộc về phần giới, thiền định thuộc về phần định, và bát nhã thuộc phần tuệ, tinh tấn thì bao gồm tất cả. Giới, định, tuệ là ba phép vô lậu học, mà tất cả các đệ tử Phật đều phải tu trì. Có trì giới được nghiêm túc, thì tâm mới yên lặng và dễ tu thiền định, có tu thiền định thì mới phát ra trí tuệ và được giải thoát. Bồ-tát tu sáu phép Ba-la-mật, thì tăng thêm tư lương ấy mà chứng được những đạo quả trên đường Bồ-đề.

Muốn tu theo Bồ-tát thừa, trước hết cần phải phát Bồ-đề tâm, thì cần phải học hỏi Phật pháp, suy xét nghĩa lý để mường tượng bản lai tự tánh là như thế nào. Nếu không nhận được bản tánh chân như là duy nhất, mình và chúng sanh là đồng thể, tâm Phật và chúng sanh là bình đẳng, không có sai khác, thì không thể phát Bồ-đề tâm được. Vì thế, việc học hỏi Phật pháp là rất cần thiết cho những người tu theo đạo Phật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2011(Xem: 8916)
Chương 61: Quán—Contemplation Chương 62: Giải Thoát—Liberation Chương 63: Ma Và Ngũ Thập Ấm Ma—Demons and Fifty Demons Chương 64: Chấp Trước-Kết-Buông Xả—Graspings-Fetters-Nonattachment Chương 65: Vô Thủy-Vô Chung—Beginninglessness, Endlessness Chương 66: Kiếp—Aeon Chương 67: Ngã và Vô Ngã—Ego and Egolessness Chương 68: Điên Đảo—Conditions of Being Upside-down Chương 69: Vô Thường—Impermanence Chương 70: Ta Bà—The Saha World Chương 71: Vô Minh—Ignorance Chương 72: Chủng Tử—Seed
30/05/2011(Xem: 8974)
Chương 43: Ái Dục--Ngũ Dục—Cravings--Five Desires Chương 44: Kiến và Tà Kiến—Views and Wrong Views Chương 45: Khổ và Bát Khổ—Sufferings and Eight Sufferings Chương 46: Cầu và Vô Sở Cầu—Doors of Seeking and Non-Seeking Chương 47: Bát Đại Nhân Giác— Eight Awakenings of Great People Chương 48: Căn-Cảnh-Thức—Organs-Objects-Consciousnesse Chương 49: Bát Thức và A Đà Na Thức—Eight Consciousneses and Adana Consciousnese Chương 50: Đại Thừa Bách Pháp—Mahayana One Hundred Dharmas Chương 51: Tương Đối-Tuyệt Đối-Viên Dung-Như ThựcRelative Absolute Totality True Reality Chương 52: Lậu Hoặc—Leakage and Delusions,Hữu Lậu-Vô Lậu—Leakage and Non-leakage Chương 53: Cà Sa—Monk’s Robe Chương 54: Tâm—Mind Chương 55: Duy Tâm—Mind-Only Chương 56: Phật Tánh—Buddha-Nature Chương 57: Chư Như Lai và Huyền Nghiệp của các Ngài - Thus Come Ones and their Wonderful Works Chương 58: Cam Lộ—Sweet Dews Chương 59: Tam Muội—Samadhi Chương 60: Thiền—Meditation
30/05/2011(Xem: 9183)
Chương 20: Diệu Đế và Thánh Đạo—Noble Truths and Noble Paths Chương 21: 37 Phẩm Trợ Đạo—Thirty-Seven Limbs of Enlightenment Chương 22: Sự Yêu Thương và Tứ Vô Lượng Tâm—Love and Four Immeasurable Minds Chương 23: Tứ Nhiếp Pháp—Four Elements of Popularity Chương 24: Lục Hòa—Six Points of Harmony Chương 25: Tứ Ân—Four Great Debts Chương 26: Công Đức và Tội Phước—Merit and Virtue-Offences and Blessings Chương 27: Ba La Mật—Paramitas Chương 28: Thân-Khẩu-Ý—Body-Mouth-Mind Chương 29: Tín-Hạnh-Nguyện-Hành-Hạnh-Nguyện của chư Bồ Tát—Faith-Conducts-Vows-Bodhisattvas’Practices-Conducts-Vows Chương 30: Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối—Four Kinds of Pure Precepts Chương31:Hôn Nhân theo Quan Điểm Phật Giáo—Marriage in Buddhist Point of View Chương 32: Thiện Ác—Good and Bad (Kusala & Akusala) Chương 33: Tập Khí và Buông Xả—Old Habits and Abandonment Chương 34: Nghiệp Báo—Actions and Recompenses Chương 35: Nhân-Duyên-Quả—Causes-Conditions-Effects Chương 36: Giới—Rules in
30/05/2011(Xem: 18114)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
24/02/2011(Xem: 15936)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
19/02/2011(Xem: 7076)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
19/02/2011(Xem: 10308)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
02/02/2011(Xem: 9282)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
01/02/2011(Xem: 14359)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
15/01/2011(Xem: 17936)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựa ở Đức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567