Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3 - Dòng dõi đức Phật

09/05/201312:19(Xem: 4214)
Chương 3 - Dòng dõi đức Phật


Phật Học Tinh Yếu

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

Trọn bộ 3 thiên

---o0o---

Dòng Dõi Đức Phật

Tiết mục:

I. Chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ

II. Dòng Cam-Giá

III. Họ Thích-Ca

IV. Gia thuộc

Pháp Tạng trích dẫn: Kinh Phật-Thuyết-Thất-Phật, Kinh Khởi-Thế-Nhân-Bản, Kinh Phật-Bản-Hạnh, Kinh Phật-Thuyết-Thập-Nhị-Du.

Đề yếu: Chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ trong tiết thứ nhất, đại khái chỉ cho dòng dõi thống trị, viễn nhân của giai cấp Sát-Ðế-Lỵ về sau, chớ lúc ấy chưa có giai cấp đó. Tiết thứ hai, thứ ba, lược thuật về trạng thái của kiếp giảm, con người lần lần kém phước, nên từ Đại-chuyển-luân-vương truyền đến Tiểu-chuyển-luân-vương rồi Túc-tán-vương. Trong hàng Túc-tán-vương nầy, đã sản xuất ra họ Thích-Ca thuộc chủng tộc Cam-Giá (Iksvàku). Tiết thứ tư mới chánh thức nói đến gia thuộc của Đức Phật, do một mạch liên lạc từ khi kiếp sơ biến chuyển đến thời gian ấy.

Theo sử thì chủng tộc Thích-Ca ở dưới chân núi Hy-Mã, về phía bắc sông La-Bạt-Đề (Rapti) chiếm một diện tích ước 320 dặm vuông. Giữa khu vực ấy lại có con sông Rô-Hi-Ni (nay là sông Rohana) chảy xuyên qua. Thành Ca-Tỳ-La-Vệ vị trí ở về phía tây bắc sông nầy, nơi đã sản xuất ra bậc thánh-nhơn cứu thế.

Tiết I: Chủng Tộc Sát Ðế Lỵ

Đức Phật bảo: - Ta sanh nơi cung vua Tịnh-Phạn, thuộc chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ. (Kinh Phật-Thuyết-Thất-Phật)

Nầy các Tỷ-khưu! Vào thuở kiếp sơ, lúc thế gian mới phân chia ruộng nương, mới có danh tự, chưa thành lập sự trừng phạt, có một chúng-sanh tiếc giữ lúa của mình, trộm lấy của kẻ khác. Có người trông thấy liền bảo rằng: “Nầy anh kia! Tại sao anh đã có lúa mà trộm lấy của kẻ khác? Anh đã làm chuyện xấu xa tội ác rồi! Thôi, tôi tha cho, từ rày đừng còn như thế nữa”.

Kẻ trộm kia tuy đã được tha, song vẫn không hối lỗi, tái phạm nhiều lần. Sau cùng, anh bị chúng bắt lôi đến chỗ đông, trách mắng, đánh đập, rồi hô to lên rằng: “Đây là kẻ trộm đạo!” Nhưng anh trộm kia vẫn chối cãi, chống cự, và nói: “Tôi không có tội gì cả! Mấy người nầy dùng lời thô mắng chửi tôi, dùng tay đánh đập tôi”. Bấy giờ đại chúng đang tụ tập ở đó, thấy thế đều sanh lòng buồn rầu. Nhiều người thương khóc nói: “Hôm nay trong bọn chúng ta có những kẻ đã đem nhau đến chỗ khổn ác, đã sanh ra pháp chẳng lành, đã bị phiền não làm tăng trưởng quả khổ đời sau và sẽ hướng về ác thú. Tại sao thế? Vì chúng ta hiện thấy mấy người nầy co kéo, mắng chửi xua đuổi nhau. Bây giờ bọn ta nên công cử bậc chân chánh lên làm chủ để xử đoán mọi việc, kẻ nào đáng quở trách thì quở trách, đáng trừng phạt thì trừng phạt, đáng xua đuổi thì xua đuổi. Đối với vị ấy, chúng ta nên trích mỗi người một phần lúa để cung cấp”. Sau khi đại chúng đã bình luận như thế rồi, đồng ưng thuận tìm cầu một vị làm Thủ-hộ-chủ.

Lúc đó trong đám đông có một người hình vóc đoan chánh, diện mạo tôn nghiêm, cử chỉ nghi dung rất là đáng mến. Chúng liền cử vị ấy lên làm Hộ-chủ, người nầy cũng vui lòng ưng thuận. Từ đó về sau, việc xử phạt được nghiêm minh, không còn ai tranh cãi lấn hiếp ai, đại chúng cũng y theo lệ, chung nhau đóng góp để chung cấp cho vị Hộ-chủ ấy. Cứ như thế đời nầy tiếp đời kia, thành ra chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ. (Kinh Khởi-Thế-Nhân-Bản)

Nầy các Tỷ-khưu! Các ông nên biết, vua Sát-Ðế-Lỵ cũng gọi là Điền-chủ; bởi kiếp tối sơ do nhân duyên như thế, đại chúng mới công cử, nên thành ra vương chủng vậy. (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Tiết II: Dòng Cam Giá

Đức Phật bảo:

- Bấy giờ vị vua do đại chúng công cử, về sau sanh được một hài nhi tên là Chân-Thật. Đứa bé nầy đủ 32 tướng tốt, sau làm Chuyển-luân-vương, là bậc Ðại-địa-chủ, cai trị bốn châu thiên hạ, có một ngàn người con, bảy báu tự nhiên đầy đủ, oai đức rộng lớn, nhiếp phục tất cả giặc loạn. Khi vị vua ấy còn trị hóa ở đời, từ đất liền cho đến bờ biển, không có gai góc và gò nổng cao thấp. Lúc đó nhân dân được an vui, không gặp sự sợ hãi khó khăn, ngũ cốc đều tươi tốt. Vua cai trị đúng theo chánh đạo, nên không cần động đao binh mà các nơi tự hàng phục.

Nầy các Tỷ-khưu! Trong một ngàn người con của vua Chân-Thật, có vị trưởng tử tên là Ý-Hỷ, cũng gọi là Tự-Dụng, sau nối ngôi làm Chuyển-luân-thánh-vương. Vị Luân-vương nầy cũng có bảy báu, một ngàn người con, oai đức và cách trị hóa y như vua cha. Kế Ý-Hỷ luân-vương là Trí-Giả luân-vương. Kế Trí-Giả luân-vương là Đảnh-Sanh luân-vương, tương truyền như thế cho đến đời Đại-Tu-Di luân-vương. Từ vua Chân-Thật cho đến Đại-Tu-Di, kể ra có đến 29 đời Chuyển-luân-thánh-vương.

Vua Đại-Tu-Di từ khi lên ngôi trị hóa, mỗi đời truyền nhau, được 101 vị Tiểu-chuyển-luân-vương, đều cư trụ ở thành Bao-Ða-Na, hưởng nhiều phước lạc. Trong các vì vua ấy, vị rốt sau tên là Sư-Tử-Thừa lên nối ngôi, rồi truyền lại cho con cháu đến 61 đời Tiểu-chuyển-luân-vương, đều cư trụ ở thành Ba-La-Nại, trị hóa dân chúng, hưởng phước an vui. Từ vua Sư-Tử-Thừa truyền cho đến vua Đại-Tự-Đại-Thiên ở thành Mỵ-Di-La, kể chung có đến 173.122 đời Tiểu-chuyển-luân-vương, chỗ cư trụ tùy theo mỗi lớp, đều có thay đổi.

Nầy các Tỷ-khưu! Các vì vua ấy tương truyền cho đến vị sau rốt là Ngư-Vương. Nên biết các bậc Tiểu-chuyển-luân-vương như thế, đều có nhiều phước đức căn lành, hưởng đủ phước báo ở đời, thống trị từ miền đất liền cho đến mé biển, cùng tất cả vùng rừng núi. Những Luân-vương ấy, mỗi vị đều có nhiều Túc-tán-vương. Nay ta kể tiếp cho các ông nghe:

Ngư-Vương có người con làm vua một cõi, tên là Chân-Sanh. Vị hoàng vương nầy nhân từ đời tổ phụ cho đến bản thân đều có tu tập căn lành, nên mới được ở địa vị cao; nhưng không bao lâu vì phước báo hết nên mất ngôi. Dân chúng thời ấy thấy vua phước đức kém, đáng thương xót, nghèo nàn đơn bạc hơn các đời vua trước, nên lại đặt hiệu là Khả-Quật-Vương. Song vua Khả-Quật may có được người con phước đức lên nối ngôi, tên là Bình-Đẳng-Hạnh-Vương. Rồi từ vua Bình-Đẳng-Hạnh mỗi đời truyền nhau cho đến vua Đại-Mâu-Thảo kể được 142 đời vua, đều cư trụ ở thành Bao-Đa-Na. Chẳng may tới đời vua Đại-Mâu-Thảo lại không có con truyền nối. Ông nghĩ rằng: “Các vị Túc-tán-vương trong dòng họ của ta, mỗi khi thấy tóc trên đầu điểm bạc, liền hội các con lại làm lễ quán đảnh, tùy theo vị thứ phong cho vương tước. Riêng mình thì đem sản vật của một châu trù phú nhất để bố thí, rồi cạo râu tóc, từ ngôi vua, xuất-gia tu hành. Nay ta không có con, ai sẽ nối ngôi ta? Ai sẽ nối dõi dòng họ của ta?” Nhưng lại tự nghĩ: “Nay nếu ta không xuất-gia tu hành, tức là làm mất chủng tộc hiền-thánh”. Suy nghĩ cùng cạn như thế, vua Đại-Mâu-Thảo liền đem việc nước giao cho các vị đại-thần, rồi cạo râu tóc xuất-gia.

Sau khi xuất-gia, ông giữ giới thanh tịnh, tu hành tinh tấn, chứng được Tứ-thiền, có đủ ngũ thông, thành bậc vương-tiên. Vị vương-tiên ấy sống rất lâu, da nhăn lưng còm, thân thể suy yếu, tuy chống gậy nhưng không đi được xa. Mấy đệ-tử của vương-tiên, khi muốn khất thực hay có việc đi đâu, thường dùng cỏ nhuyễn lót trên cái giá để thầy ngồi, rồi treo rút lên cây, vì sợ các loài thú đến khuấy nhiễu tiên-nhơn trong cơn thiền định. Một hôm, sau khi hàng đệ-tử đi khất thực, có anh thợ săn ở xa trông thấy vương-tiên, ngỡ là loài chim, trương cung bắn chết. Các môn đệ lúc khất thực trở về, thấy thầy bị tuẫn nạn, liền chất củi làm lễ trà tỳ, rồi thâu linh cốt xây bảo tháp, thường dùng hương hoa để cúng dường.

Trong lúc vương-tiên bị tên, có hai giọt máu nhỏ xuống đất. Chỗ hai giọt máu ấy, về sau sanh ra hai mụt mía (cam giá). Hai mụt mía nầy lần lần cao lớn, nắng rọi mưa chan, không bao lâu đã đến thời kỳ thuần thục. Ngày nọ, nơi hai thân cây bỗng nổ vang lên tiếng lớn, xuất hiện một đồng nam và một đồng nữ, tư dung xinh đẹp vô cùng. Hàng đệ-tử của vương-tiên thấy thế, nghĩ rằng thầy mình lúc còn tại tục không có con cái, nay hai đứa bé nầy cũng là huyết thống của người, liền hết lòng nuôi dưỡng và báo cho các vị đại-thần hay. Khi mấy vị đại-thần nghe nói, rất đỗi vui mừng, cùng nhau đến rừng rước hai đứa bé đem về cung, rồi thỉnh một vị Bà-La-Môn đến xem tướng và đặt tên. Vị Bà-La-Môn xem xong, khen là phước tướng, lại nhân đứa đồng tử nầy do ánh mặt trời rọi vào thân cây mía, đến ngày thuần thục mà được xuất sanh, nên đặt họ là Cam-Giá-Sanh, tên là Thiện-Sanh, cũng gọi là Nhật-Chủng. Còn đứa đồng nữ thì đặt tên là Thiện-Hiền, cũng gọi là Thủy-Ba. Về sau, Cam-Giá-Sanh được tôn lên làm vua, và Thiện-Hiền thì làm đệ nhất vương-phi của vua. (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Tiết III: Họ Thích Ca

Vua Cam-Giá có bà vương-phi thứ hai, tư dung rất xinh đẹp. Bà nầy sanh được bốn người con tên là: Cự-Diện, Kim-Sắc, Tượng-Chúng và Biệt-Thành. Còn Thiện-Hiền vương-phi chỉ sanh một con tên là Trường-Thọ. Luận về dung mạo, Trường-Thọ vương-tử rất khôi ngô tuấn tú, ít có người hơn; nhưng theo tướng sư thì vương-tử không đủ cốt cách làm vua một nước lớn.

Cũng vì lẽ ấy, nên Thiện-Hiền vương-phi hằng đem lòng lo buồn. Bà nghĩ: “Bọn Cự-Diện bốn đứa thảy đều oai dũng, ta chỉ có một người con, phải làm thế nào cho nó được nối ngôi? Hiện thời vua rất yêu quí ta, hằng quyến luyến ít khi xa rời. Vậy ta phải trang điểm cực kỳ xinh đẹp làm cho ngài say mê, rồi nhân lúc vắng vẻ ta sẽ cầu xin điều đó”. Sau khi suy nghĩ như thế, bà dùng nước thơm tắm gội sạch sẽ, tóc tẩm dầu thơm, chải bới vén khéo, điểm phấn thoa son, đầu kết vòng hoa, cổ đeo chuỗi anh lạc, rồi đi đến chỗ vua. Cam-Giá-Vương thấy bà kiều diễm như vậy, càng thêm say đắm. Trong lúc đi nghỉ, chỉ có hai người, vương-phi tâu rằng: “Thưa Đại-vương! Thiếp may mắn được nhờ ơn yêu dấu, nay có một điều tâm nguyện, xin Đại-vương thuận cho”. Vua bảo: “Ái phi! Nàng có điều chi mong ước, cứ hãy nói ra, ta sẽ chấp thuận”. Vương-phi lại tâu: “Nếu Đại-vương hứa nhận sự yêu cầu của thiếp, xin chớ cải hối, bằng có như thế thì thiếp không dám tỏ ra”. Vua nói: “Ta nhất định thuận theo sở nguyện của Ái phi, nếu về sau mà cải hối thì đầu của ta sẽ bị vỡ ra làm bảy mảnh”. Sau khi nghe vua đã hứa như thế, vương-phi tâu xin đuổi bốn anh em Cự-Diện ra khỏi nước, để cho con mình được nối ngôi. Cam-Giá-Vương biết bốn con không có lỗi lầm, khó lấy cớ chi mà đuổi ra khỏi nước, nhưng vì vương-phi nài nỉ, nhắc lại lời thề, nên kết cuộc vua phải theo.

Sáng ra, vua gọi bốn hoàng tử đến bảo: “Các con hãy sắp đặt rời khỏi xứ nầy, đi đến nơi khác mà ở”. Bốn vương-tử quỳ xuống tâu: “Bạch Phụ-vương! Chúng con không có lỗi chi, cớ sao Phụ-vương lại nỡ đuổi đi nơi khác?” Vua nói: “Đó là ý kiến của Thiện-Hiền vương-phi, cha đã hứa lỡ, nên trót phải theo”. Khi ấy đệ nhị vương-phi, mẹ của bốn hoàng tử, và các bà phi khác, biết được tin ấy, cũng xin vua đem con cái và quyến thuộc đi theo. Kế đó, các hàng đại-thần, các quan văn võ, quân giữ voi ngựa, quân cung nỗ, quan quân giữ kho tàng, cũng xin đem bè đảng quyến thuộc đi theo. Trước tình cảnh ấy, không biết nói sao, vua cũng đành chấp thuận. Rồi cho đến các thợ làm đồ bằng tre, thợ mộc, thợ da, thợ đúc ngói gạch, thợ gầy rượu, thợ cạo, thợ nhuộm, các dược sư, y sĩ, hàng nông, mục, ngư, tiều, nghe vua đuổi bốn hoàng tử, cũng xin đem tất cả quyến thuộc đi theo. Trước khi khởi hành, vua bảo bốn hoàng tử rằng: “Từ nay về sau, nếu muốn kết hôn, các con đừng chọn người ngoại tộc, chớ để cho dòng Cam-Giá phải bị đoạn tuyệt”. Bốn vương-tử cúi lạy vâng lời, rồi hướng dẫn đoàn người đi về phía bắc, dưới dãy Tuyết-Sơn.

Đoàn người đi chầm chậm, dọc đường săn bắn các loài cầm thú dùng làm thức ăn, sau rốt đi đến một chỗ đất đai phì nhiêu bằng phẳng, thảo mộc xanh rậm tốt tươi. Nơi đây có những ao đầm rộng lớn, nước dẫy đầy trong sạch. Lại có các loại cây như: cây Đa-la, cây A-thuyết-tha, cây Ni-câu-đà, cây Ưu-đàm-bà-la, cây Ca-lê-la v.v... gốc cao tàn lớn, cành lá giao nhau, phủ che rậm mát cả một vùng. Lại có những thứ hoa đẹp như: hoa A-đề-mục-đa, hoa Chiêm-ba, hoa A-du-ca, hoa Ba-đa-la, hoa Bà-lỵ-sư-ca... và các thứ cây có quả, các loại tạp cầm, dã thú rất nhiều, cảnh sắc rất nên xinh đẹp. Chỗ nầy nguyên xưa là nơi cư trụ của một vị tiên tên là Ca-Tỳ-La (Kapila - Kiếp-Tỷ-La).

Các vị vương-tử tìm được chỗ tốt, liền quyết định ở đó lập thành ấp để trị hóa. Mỗi vị đều vâng lời cha, lựa người trong họ mà kết hôn. Sau vua Cam-Giá hay được, trong lòng vui mừng, khen rằng: “Các con ta khéo lập quốc kế, hay đem nhân đức trị hóa thần dân”. Nhân đó, bốn vương-tử mới lấy họ là Thích-Ca (Năng-Nhân cũng gọi là Kiều-Đáp-Ma, xưa dịch Cù-Đàm), lại nhớ gốc tích của vị tiên xưa ở đó, nên đặt tên thành là Ca-Tỳ-La. Về sau ba vị vương-tử lần lượt qua đời chỉ còn một vị trụ thế trị vì, lấy hiệu là Ni-Câu-La-Vương. Vua Ni-Câu-La sau truyền ngôi cho con là Câu-Lư, Câu-Lư truyền cho Cù-Câu-Lư, Cù-Câu-Lư truyền cho Sư-Tử-Hiếp. Sư-Tử-Hiếp-Vương sanh được bốn trai một gái, khi lớn tuổi truyền ngôi cho người con cả là Duyệt-Đầu-Đàn, đời đời nối tiếp ở tại thành Ca-Tỳ-La, trị hóa nhân dân, hưởng nhiều phước lạc. (Thành ấy bây giờ là xứ Piprawa, phía đông bắc là tỉnh Ba-La-Nại – Bénarès - phía nam là xứ Népal). (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Tiết IV: Gia Thuộc

Bấy giờ vị quốc chủ xứ Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) là Tịnh-Phạn-Vương (cũng gọi là Bạch-Tịnh-Vương). Cách thành Ca-Tỳ-La không xa, lại có một thành tên là Thiên-Tý. Nơi thành nầy hiện cư ngụ một nhà Thích-chủng rất hào quí, tên là Thiện-Giác trưởng-giả. Trưởng-giả giàu lớn, đầy đủ oai đức, tư sản to tát, các kho châu báu rất nhiều, nhà cửa đẹp lộng lẫy như cung điện Tỳ-Sa-Môn thiên-vương.

Vị Thích trưởng-giả nầy sanh được tám người con gái đẹp là: Vi-Ý, Vô-Tỷ-Ý, Đại-Ý, Vô-Biên-Ý, Kế-Ý, Hắc-Ngưu, Sấu-Ngưu và Đại-Huệ. Nàng con gái thứ tám, trong buổi sơ sanh, có vị Bà-La-Môn đến xem tướng và nói: “Cô bé nầy lớn lên, nếu có gia thất, sẽ sanh một người con làm Chuyển-luân-thánh-vương, bảy báu tự nhiên, oai đức đầy đủ, cho đến không cần dùng hình phạt mà trị dân”.

Vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) nghe nói cô gái thứ tám của Thiện-Giác trưởng-giả có tướng sanh con quí, liền nghĩ: “Ta sẽ cưới người con gái ấy làm hoàng-hậu, để cho ngôi Chuyển-luân của dòng Cam-Giá ta không đoạn tuyệt”. Nghĩ rồi, ngài sai sứ đến nhà Thiện-Giác trưởng-giả hỏi xin Đại-Huệ. Trưởng-giả trình với sứ rằng: “Ông về tâu lại cùng Đại-vương, nói tôi có tám con gái, đứa lớn là Vi-Ý đứa út là Đại-Huệ, tại sao Đại-vương lại hỏi đứa nhỏ nhất? Vậy xin Đại-vương chờ tôi gả bảy đứa lớn xong, việc ấy sẽ định sau”. Sứ-giả về thưa lại, Tịnh-Phạn-Vương bảo: “Nếu như thế, ta sẽ rước luôn tám nàng về cung”. Hai bên ưng thuận xong xuôi, đến ngày nghinh hôn, Tịnh-Phạn-Vương cưới cô lớn là Vi-Ý và cô út là Đại-Huệ. Còn ba hoàng đệ của ngài thì cưới sáu cô kia, mỗi vị hai nàng, đem về làm phi. (Kinh Phật-Bản-Hạnh)

Vua Bạch-Tịnh có ba người em trai, kể theo thứ tự là: Cam-Lộ-Tịnh-Vương, Hộc-Tịnh-Vương, và Thiết-Tịnh-Vương. Hai vị phối thất của ngài, mỗi người sanh một con, hoàng-hậu Ma-Gia (Maya) sanh ra Thái-tử Tất-Đạt-Ða, còn bà Kiều-Đàm-Di (cũng gọi là Ba-Xà-Ba-Đề - Prajàpati) sanh ra Nan-Đà. Cam-Lộ-Tịnh-Vương có hai con, con lớn là Điều-Đạt (Đề-Bà-Đạt-Đa), con thứ là A-Nan. Hộc-Tịnh-Vương có hai con, con lớn là Thích-Ma-Nạp, con thứ là A-Na-Luật. Thiết-Tịnh-Vương cũng có hai con, con lớn là Thích-Ca-Vương, con thứ là Thích-Thiếu-Vương.

Thái-tử Thích-Ca Tất-Đạt-Đa (Sakya- Siddhàrtha) sanh vào tháng tư, lúc mặt trời mọc, nhằm ngày trăng tròn (theo lịch Trung-Hoa thì mùng 8, tháng 4 - trước Gia Tô 624 năm). Điều Đạt sanh ngày mùng 7 tháng tư, Nan-Đà ngày mùng 9 tháng tư, A-Nan ngày mùng 10 tháng tư.

Thái-tử thân cao một trượng sáu thước (thước mộc), Điều-Đạt cao một trượng năm thước tư, Nan-Ðà cao một trượng năm thước tư, A-Nan cao một trượng năm thước ba. Trong họ Thích-Ca, hàng quí tộc phước đức thường thường cao một trượng bốn thước. Còn nhân dân trong nước mức cao trung bình độ một trượng ba thước. (Kinh Phật-Thuyết-Thập-Nhị-Du)

---o0o---

Source:Di Đà Nguyện Hải
Vi tính:
Huệ Toàn, Huệ Trang, Từ Hỷ và Tuệ Cường
Trình bày :Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/04/2023(Xem: 9580)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
18/03/2023(Xem: 6164)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3567)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
15/03/2023(Xem: 3807)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
31/01/2023(Xem: 6125)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
23/12/2022(Xem: 13380)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18052)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13579)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12084)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6191)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567