Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sám Hối Sáu Căn

13/03/201414:18(Xem: 9352)
Sám Hối Sáu Căn
duc-phat-012


Nghi Thức

SÁM HỐI SÁU CĂN

(Dựa theo “Lục Thì Sám Hối

Khoa Nghi”

của vua Trần Thái Tông, Việt-nam)

 


khải bạch

Nghi Thức Sám Hối này do cư

sĩ Hạnh Cơ soạn và chú thích. Nội dung của nghi thức

đã được dịch từ bài

“Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi”(bằng

Hán văn) của vua Trần Thái Tông (1218-1277).

Nghi thức đã được lựa

chọn và sắp xếp lại thành chỉ có

một thời, khác với nguyên tác.

Theo nguyên tác (trong tác phẩm Trần Thái

Tông Ngự Chế Khóa Hư), vua Trần

Thái Tông đã soạn sáu nghi sám hối

riêng biệt cho sáu thời trong một ngày

đêm (khuya, sáng, trưa, chiều, đầu

hôm, nửa đêm); mỗi thời, sám

hối tội lỗi của một trong sáu căn

(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), có

nghi thức đầy đủ từ lúc dâng

hương cho đến khi hồi hướng.

Trộm nghĩ, Việt-nam vốn đã có

nghi thức sám hối riêng của mình

từ gần ngàn năm trước, nhưng

lại không được sử dụng phổ

biến, mà trong thiền môn, từ lâu

nay, chỉ có những nghi thức sám hối

của Trung-hoa được sử dụng. Vì

vậy, để tỏ lòng tôn kính hướng

về cội nguồn quí báu của Tổ Tiên

Dân Tộc, nghi thức này đã được

tuyển dịch và soạn ra.

Kính cẩn,

Cư sĩ Hạnh Cơ

Edmonton, Gia-nã-đại,

đầu đông năm 2000 (PL. 2544)

NGHI THỨC SÁM HỐI SÁU CĂN

1. Thiền tọa(10 phút – mục

đích là để điều hòa thân

tâm trước khi vào nghi lễ Sám Hối)

2. Dâng hương(đại chúng

cùng quì, lắng nghe và quán tưởng

theo lời xướng của vị Chủ lễ)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Kính bạch Đại Giác Thế Tôn

Đại chúng hòa hợp tề tựu trước nghiêm đài

Dâng nén hương thơm trùm pháp giới

Hương này do âm dương hội tụ

Trời đất(1) sinh thành

Công vun trồng trải đã nhiều đời

Lại được sức chư thần(2) bảo hộ

Gốc rễ vững vàng,

Từng nhờ thấm nhuần mưa pháp

Thể chất thanh khiết

Từng nương bóng mát mây từ

Giống kì lạ không thể sánh cùng cây thường

Hương thơm trong lành người phàm khó biết

Vừa châm vào lửa, cắm lên lư vàng

Liền kết thành lọng báu tầng tầng

Bay thẳng lên không trung

Dùng làm lễ dâng trước Phật

Chúng con tin sâu sắc

Cùng một dạ chí thành

Nguyện hương thơm vi diệu

Xông khắp cõi mười phương

Cúng dường vô lượng Phật

Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng

Rời khỏi đài quang minh

Đến vô biên Phật độ

Thi hành các Phật sự

Ơn nhuần khắp chúng sinh

Đều phát tâm bồ đề

Đất tâm(3) đà rộng mở

Muôn hoa nở thắm tươi

Chúng con dâng cúng Phật

Gió nghiệp lặng đời đời

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ

Tát

(3 lần)

3. Lễ Tam Bảo

Nhất tâm kính lễ Phật Bảo thường

  • trụ trong mười phương (1 lạy)

Nhất tâm kính lễ Pháp Bảo thường

  • trụ trong mười phương (1 lạy)

Nhất tâm kính lễ Tăng Bảo thường

  • trụ trong mười phương (1 lạy)

4. Khai thị 1(quì – vị Chủ lễ

đọc lời khai thị, đại chúng lắng

nghe)

Thưa đại chúng! Đi lại dễ

dàng trên bộ hay dưới sông là

nhờ có xe, thuyền; rửa sạch trần

cấu nơi thân tâm là nhờ sám

hối. Muốn rửa sạch thân tâm mà

không dùng phương pháp sám hối thì

cũng giống như muốn đi lại dễ dàng

mà không dùng xe thuyền. Công năng của

việc sám hối thật là to lớn, như

kinh Đại Tập nói: “Áo dơ dù để

cả trăm năm, nhưng giặt trong một ngày

thì có thể sạch sẽ. Cũng vậy, các

nghiệp xấu đã tích tụ hàng trăm

ngàn kiếp, nếu biết quán chiếu bằng

trí tuệ của Phật, thì có thể tiêu

trừ sạch hết chỉ trong một ngày hoặc

một giờ.”

Vả lại, chúng sinh vốn có tính

giác trọn vẹn, sáng suốt thanh tịnh,

trong lặng như thái hư, một hạt bụi

cũng không dính được. Nhưng vì

do bọt vọng tưởng nổi dậy mà

uế độ(4) hiện thành, phân

chia có năng và sở, Phật và chúng

sinh, ngu và trí v.v..., căn tánh đều

sai khác. Nếu chỉ bày ra một cửa

thì thật khó ngộ nhập, cho nên đức

Phật của chúng ta đã dùng trí nguyện

rộng lớn, mở cửa phương tiện,

tùy lối mà chỉ cho đường về,

ứng theo bệnh mà cho thuốc uống. Vì

biết rõ các huyễn cấu nơi chúng

sinh chỉ là do vọng tưởng phát sinh,

nên khuyên phải nhất tâm kiền thành

qui y sám hối; khiến cho gió lặng sóng

yên, bụi sạch gương sáng, thân tâm

thanh tịnh, tự tại như xưa. Vì sao

được như vậy? Vì phút trước

tâm xấu xa, như mặt trăng bị mây

che, mà phút sau tâm đã trở nên

tốt đẹp, như bó đuốc quét sạch

bóng tối. Ôi! Chẳng phải là công

đức sám hối lớn lao đến như

vậy sao! (3 tiếng chuông, đại chúng đứng

dậy)

5. Lời sám hối tổng quát(đại

chúng đồng tụng theo tiếng khánh)

Chí tâm sám hối

Đệ tử chúng con

Từ vô lượng kiếp

Sáu căn sai quấy

Bỏ mất bản tâm

Không biết đường ngay

Đọa ba ác đạo

Không sám tội trước

Khó hối lỗi sau

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trụ trong mười phương

(3 lạy)

6. Sám hối tội lỗi của nhãn

căn(đại chúng đồng tụng theo

tiếng khánh)

Kính bạch Thế Tôn

Căn mắt chúng con

Cái xấu xem kĩ

Việc thiện qua loa

Nhận lầm không hoa(5)

Bỏ quên trăng thật

Thương ghét khởi niệm

Đẹp xấu tranh giành

Liếc xéo nhìn xiên

Che mờ chánh kiến

Xanh đi trắng đến

Tím phải vàng sai(6)

Mọi thứ nhận lầm

Khác gì mù mắt

Gặp người nhan sắc

Nhìm trộm liếc ngang

Mê tối kiếp xưa

Bản lai diện mục(7)

Thấy người giàu có

Nhìn ngó đăm đăm

Gặp kẻ nghèo hèn

Không thèm để ý

Khi thân nhân chết

Lệ máu đầm đìa

Người khác qua đời

Ráo khô nước mắt

Hoặc thấy Tam Bảo

Hoặc vào già lam

Trước tượng trước kinh

Lơ là không thiết

Phòng tăng điện Phật

Trai gái cợt đùa

Mắt liếc mày đưa

Đắm mê sắc dục

Không sợ Hộ Pháp

Không trọng Long Thần

Hớn hở ham vui

Đầu chưa từng cúi

Tội lỗi như thế

Vô lượng vô biên

Đều do mắt sinh

Phải sa địa ngục

Trải hằng sa kiếp

Mới được làm người

Dù được thân người

Lại bị đui chột

Nếu không sám hối

Thật khó tiêu trừ

Nay trước Phật đài

Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trụ trong mười phương

(3 lạy)

7. Sám hối tội lỗi của nhĩ căn

Kính bạch Thế Tôn

Căn tai chúng con

Ghét nghe giáo pháp

Thích những lời tà

Quên mất bản tâm

Chỉ lo vọng ngoại

Sáo đàn huyên náo

Gọi khúc long ngâm(8)

Tiếng mõ tiếng chuông

Cho là tiếng ếch

Hát tình ca thảm

Chú ý lắng nghe

Lại để ngoài tai

Câu kinh lời kệ

Thoáng nghe khen hão

Khấp khởi mong cầu

Nói rõ lời lành

Không màng đón nhận

Bạn chơi bạn rượu

Chuyện ngắn chuyện dài

Sư trưởng dạy khuyên

Bịt tai không đoái

Tiếng vòng tiếng xuyến

Liền nảy lòng tham

Nghe nửa câu kinh

Liền thành tai ngựa

Tội lỗi như thế

Vô lượng vô biên

Đầy ắp bụi trần

Kể sao cho xiết

Hiện báo vừa hết

Liền đọa tam đồ(9)

Khi được thân người

Lại làm người điếc

Nếu không sám hối

Thật khó tiêu trừ

Nay trước Phật đài

Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trụ trong mười phương

(3 lạy)

8. Sám hối tội lỗi của tị căn

Kính bạch Thế Tôn

Căn mũi chúng con

Thường ham mùi lạ

Trăm thứ chan hòa

Chẳng thích chân hương

Năm phần thanh tịnh(10)

Xạ lan(11) sực nức

Mê luyến tìm cầu

Giới định thơm lừng

Chưa từng để mũi

Trầm xông hương đốt

Đặt trước Phật đài

Ngửi trộm ngông nghênh

Hít hơi phẩy khói

Ý thức trần tục

Khinh mạn Long Thần

Chỉ biết đam mê

Mùi hương trái đạo

Mặt đào má hạnh

Đeo dính chẳng lìa

Cây giác hoa tâm

Gọi về không ngó

Hoặc ra phố chợ

Hoặc vào nhà trù

Thấy bẩn(12) muốn ăn

Thèm mùi lông thú

Tỏi hành không tránh

Tanh hôi chẳng hiềm

Mê đắm không dừng

Như heo dầm ổ

Hoặc hỉ nước mũi

Hoặc búng sáp vàng(13)

Bôi cột quẹt thềm

Bẩn dơ đất tịnh

Say mèm nằm ngủ

Điện Phật phòng tăng

Hơi thở hôi nồng

Hun(14) kinh xông tượng

Ngửi mùi son phấn

Thành kẻ dâm ô

Ngửi mùi sen thơm

Thành ra kẻ trộm

Không hay không biết

Đều do nghiệp mũi

Tội lỗi như thế

Vô lượng vô biên

Khi xả mạng rồi

Đọa ba đường khổ

Trải hằng sa kiếp

Mới được làm người

Dù được thân người

Lại cam mũi tịt

Nếu không sám hối

Thật khó tiêu trừ

Nay trước Phật đài

Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trụ trong mười phương

(3 lạy)

9. Sám hối tội lỗi của thiệt căn

Kính bạch Thế Tôn

Căn lưỡi chúng con

Ham đủ các vị

Rành rẽ tinh thô

Thức thức nếm qua

Béo gầy đều biết

Giết hại sinh vật

Nuôi dưỡng thân mình

Chiên rán cá chim

Nấu hầm cầm thú

Đầy miệng thịt máu

Kín ruột tỏi hành

Vừa hết đòi thêm

Ăn hoài không đủ

Đàn chay gặp hội

Lễ Phật cầu thần

Đành để bụng không

Đợi khi hoàn mãn

Ăn chay buổi sáng

Cơm ít nước nhiều

Cháo thuốc qua loa

Giống như người bệnh

Tít mắt mỡ thịt

Cười nói oang oang

Rượu chuốc cơm mời

Nguội đi nóng tới

Cưới gả con cái

Thết tiệc đãi đằng

Sát hại chúng sinh

Chỉ vì cái lưỡi

Đặt điều nói dối

Thêu dệt lắm lời

Đâm thọc hai chiều

Lại thêm ác khẩu

Nhục mạ Tam Bảo

Nguyền rủa song thân

Khinh rẻ thánh hiền

Lừa vua dối chúa

Bàn bạc bươi móc

Hay dở chuyện người

Thị phi chính mình

Tìm phương dấu diếm

Bình luận kim cổ

Khen chê đó đây

Nịnh bợ nhà giàu

Lăng nhục kẻ khó

Chửi mắng tôi tớ

Xua đuổi tăng ni

Nói lời dèm pha

Thật là độc địa

Nói lời gian xảo

Êm như tiếng ru

Thật nói thành hư

Vẽ tô điều quấy

Oán hờn thời tiết

Phỉ nhổ non sông

Tán gẫu phòng tăng

Huyên thuyên điện Phật

Tội lỗi như thế

Vô lượng vô biên

Nhiều như trần sa

Đếm sao cho hết

Mạng này vừa chết

Cảnh khổ đọa vào

Kéo lưỡi trâu cày

Đồng sôi rót miệng

Thọ báo muôn kiếp

Mới lại làm người

Dù được thân người

Suốt đời câm ngọng

Nếu không sám hối

Thật khó tiêu trừ

Nay trước Phật đài

Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trụ trong mười phương

(3 lạy)

10. Sám hối tội lỗi của thân căn

Kính bạch Thế Tôn

Căn thân chúng con

Tinh cha huyết mẹ

Giả hợp nên hình

Năm tạng trăm xương

Cùng nhau kết tụ

Chấp là thân thật

Quên mất pháp thân

Sinh sát đạo dâm

Thành ra ba nghiệp

Đây là nghiệp sát

Bạo ngược lộng hành

Không phát lòng từ

Bốn loài một thể

Vì không biết rõ

Giết hại mặc tình

Hoặc là giết lầm

Hoặc là cố ý

Hoặc tự mình giết

Hoặc bảo người làm

Hoặc tìm thầy bùa

Thuật tà trù ếm

Hoặc làm thuốc độc

Dùng hại sinh linh

Tính chỉ hại người

Không hề thương vật

Hoặc đốt rừng núi

Lấp cạn suối khe

Xua chó thả ưng

Giăng chài bủa lưới

Móng tâm khởi ý

Cử động hành vi

Thấy nghe vui theo

Đều là tội sát

Đây nghiệp trộm cắp

Lòng dạ tham lam

Thấy tài vật người

Tâm tà móng khởi

Mò túi mở tráp

Bẻ khóa cạy then

Lấy làm của riêng

Tài sản thường trụ

Không chỉ vàng ngọc

Mới là tội to

Cọng cỏ cây kim

Đều là tội trộm

Đây nghiệp dâm dục

Tâm mê sắc thanh

Mắt đắm phấn son

Liêm trinh chẳng kể

Lòng đầy tư dục

Điện Phật phòng tăng

Cư sĩ nữ nam

Cười đùa cợt nhả

Tung hoa ném quả

Khều cẳng kề vai

Khoét ngạch trèo tường

Tội dâm tất cả

Tội lỗi như thế

Vô lượng vô biên

Đến lúc mạng chung

Liền sa địa ngục

Gái nằm giường sắt

Trai ôm cột đồng

Trải kiếp hằng sa

Mới sinh nhân thế

Nếu không sám hối

Thật khó tiêu trừ

Nay trước Phật đài

Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trụ trong mười phương

(3 lạy)

11. Sám hối tội lỗi của ý căn

Kính bạch Thế Tôn

Căn ý chúng con

Lăng xăng nghĩ ngợi

Không lúc nào dừng

Vướng víu tình trần

Kẹt tâm chấp tướng

Như tằm kéo kén

Càng buộc càng bền

Bướm lao vào đèn

Tự thiêu tự nướng

Hôn mê không tỉnh

Điên đảo phát sinh

Nhiễu loạn tâm thần

Đều do ba độc

Tội đầu của ý

Keo kiệt tham lam

Ghen ghét mưu mô

Của mình thì tiếc

Của người vơ vét

Vốn ít lời nhiều

Của chứa tợ sông

Vẫn cho chưa đủ

Như hũ lủng đáy

Rót vào trống không

Chẳng bao giờ đầy

Thà để gạo mốc

Thà để tiền mục

Không giúp người nghèo

Vải chất lụa chồng

Mặc ai đói rách

Được người trăm lạng

Không kể là nhiều

Bỏ ra một đồng

Bảo mình hao lớn

Trên từ châu báu

Dưới đến tơ gai

Kho đụn chứa đầy

Chưa từng bố thí

Bao nhiêu sự việc

Ngày tính đêm lo

Mỏi trí lao tâm

Đều từ tham nghiệp

Đây tội sân hận

Gốc bởi lòng tham

Lửa giận bốc lên

Nạt nộ trợn mắt

Đốt tiêu hòa khí

Không riêng kẻ phàm

Cả đến tăng ni

Tranh đua công kích

Khích bác sư trưởng

Chỉ trích mẹ cha

Cỏ nhẫn úa vàng

Lửa độc rực cháy

Buông lời hại vật

Cất tiếng hại người

Không nhớ Phật từ

Không tuân giới luật

Hí luận thì giỏi

Đối cảnh lại ngu

Dù ở cửa không

Chưa thông vô ngã

Như cây sinh lửa

Lửa đốt cháy cây

Những tội trên đây

Đều do sân nghiệp

Đây tội si độn

Căn tính ngu đần

Ý thức tối tăm

Tôn ti không rõ

Không phân thiện ác

Giết gấu gẫy tay

Chặt cây hại thân

Mắng Phật mang họa

Phun trời ướt mặt(15)

Quên đức quên ơn

Bội nghĩa bội nhân

Không tỉnh không xét

Đều là si nghiệp

Những tội như trên

Rất nặng rất sâu

Khi bỏ thân mạng

Sa vào địa ngục

Trăm ngàn kiếp sau

Mới được làm người

Chịu báo ngu dốt

Nếu không sám hối

Thật khó tiêu trừ

Nay trước Phật đài

Chí thành sám hối

Nhất tâm kính lễ Phật Pháp Tăng

thường trú trong mười phương

(3 lạy)

12. Khai thị 2(quì – vị Chủ lễ đọc lời khai thị, đại chúng lắng

nghe)

Thưa đại chúng! Gốc thân không

vững, bản mệnh khó an. Phàm là người

đầu đội trời, không tránh khỏi

nhãn quang rơi xuống đất(16).

Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp

khó được lại thân người. Mặt trời lên đến giữa trời thì phải xế, người đời có thịnh ắt có suy. Hình thể chẳng bền

lâu, giàu sang không giữ mãi. Mau lẹ

như nước chảy dưới sông, mỏng

manh như mây trên đỉnh núi. Ngày thường

chẳng tạo nhân lành, có lúc ắt

về cảnh khổ. Hãy khởi lòng tin sâu

sắc, trừ sạch nghi ngờ. Hãy mở

tâm trong sáng như chư Phật, soi rọi phá

tan cái thùng tăm tối chúng sinh. Nên

nhớ tới cơn vô thường thấm

thoắt, chớ tham phù thế xa hoa. Hãy mau

kéo mũi lôi về(17), chớ

để buông lòng phóng chạy. Hãy tự

soi sáng nội tâm, không nên chạy tìm

ngoại cảnh. Nên biết tiền trình khó

tiến, chớ tham nệm ấm ngủ say. Lên

giường khó bảo đảm sẽ xuống

giường, đêm nay há biết được

đêm mai. Cửa giác ngộ hãy tiến

thẳng vào, ba đường ác chớ

nên nhắm tới. Quay đầu lại nhận

lấy quê mình(18), mở mắt

ra tỉnh mộng phù thế. Hãy nghĩ tới

bốn con rắn độc(19) đang

bức bách, chớ quên hai con chuột(20)

đang gặm mòn. Luân hồi ba cõi đến

bao giờ, quanh quẩn bốn loài chừng

nào dứt? Hãy sớm gieo giống lành,

không nên khư khư tìm quả ác. Người

người mau tỉnh, ai nấy siêng tu. Nên

bước đi trên đường vãng

sinh, hãy vịn vào xe giải thoát. Cửa

ngục nào đâu, đêm nay quyết tâm

phá vỡ. Dốc lòng lễ Vô Thượng

Từ Dung, mở mắt thấy Đại Quang

Minh Tạng. (3 tiếng chuông, đại chúng đứng dậy)

13. Pháp ngữ(vị Chủ lễ xướng)

Trống pháp rền vang dậy

Đánh tan mộng thế trần

Chuông chùa ngân sương sớm

Thức tỉnh kiếp trầm luân

Người đang say mê ngủ

Còn chìm trong tối tăm

Đâu biết phương Đông nọ

Mặt trời sáng rỡ dần

Đêm dài rồi cũng sáng

Đường mờ khó thoát thân

Nếu chẳng siêng hành đạo

Làm sao tỏ chân tâm

14. Phát nguyện(đại chúng đồng

tụng theo tiếng khánh)

Nguyện giữ tâm ý thường trong lặng

Nguyện rèn tàng thức dứt vấn vương

Nguyện bao nghi ngờ đều phá vỡ

Nguyện cho trăng định mãi tròn đầy

Nguyện lắng pháp trần không khởi động

Nguyện tránh xa lưới ái biển tình

Nguyện ngưng tâm vượn thôi nhảy nhót

Nguyện dừng ý ngựa dứt lăng xăng

Nguyện hằng ấp ủ lời Phật dạy

Nguyện vui thiền định Tổ Sư truyền

Nguyện luôn thực hành hạnh Bồ Tát

Nguyện vượt ba cõi chứng Chân Như

15. Hồi hướng(đại chúng đồng tụng theo tiếng khánh)

Chúng con quay về nương Thánh Chúng

Chí thành đảnh lễ đức Từ Tôn

Hồi hướng công đức khắp quần sinh

Do nhân thù thắng thành Chánh Giác

(3 lạy, hoàn mãn)

CHÚ THÍCH:

(01) Âm dương, trời đất:Đây là những từ tượng trưng cho đức sinh thành, nói theo tín ngưỡng dân gian Việt-nam. Trong giáo lí nhà Phật, những từ ấy chỉ có nghĩa là “duyên sinh”, tức là bất cứ sự vật gì cũng đều do các duyên

(điều kiện) hợp lại mà sinh thành.

(02) Chư thần:“Chư thần” ở

đây là chỉ cho chư vị Hộ-pháp,

thiện thần luôn luôn ủng hộ và

bảo vệ Phật pháp.

(03) Đất tâm:Tâm chứa chủng tử của vạn pháp và làm phát sinh vạn pháp, cũng giống như đất

chứa hạt giống của mọi loại cây

cỏ và làm nẩy sinh mọi loại cây

cỏ. Bởi vậy, TÂM thường được

gọi là “đất tâm” (tâm địa).

(04) Uế độ:là cõi dơ bẩn,

tức chỉ cho những nơi mà đời

sống đầy phiền não, tối tăm, đau

khổ. Thế giới loài người chẳng

hạn, là một loại “uế độ”.

(05) Không hoa:là hoa đốm giữa

hư không. Khi mắt bị đau, hay vừa

dụi mắt xong mà nhìn lên khoảng không,

chúng ta thấy như có vô số hoa đốm

đủ màu nhảy múa trong không khí.

Hoa đốm đó không có thật, chỉ

do mắt bệnh mà hóa hiện ra.

(06) Xanh đi trắng đến, tím phải

vàng sai:Đây là nói về cái tâm

không bình đẳng, phân biệt chấp trước

khi đứng trước sự vật. Đó

là cái tâm vọng động của người

không tu hành, chỉ biết chạy đuổi

theo thị dục mà gây tội lỗi.

(07) Bản lai diện mục:là mặt mắt

tự thuở nay. Đây là một thuật

ngữ thường dùng trong thiền môn,

chỉ cho chân tánh, hay Phật tánh vốn

có sẵn trong mỗi chúng sinh.

(08) Long ngâm:là tên một khúc

nhạc hay. Truyện “Trịnh Thuật Tổ”

trong sách Bắc Tề có chép: Thuật

Tổ là người chơi đàn cầm

giỏi. Một đêm nằm ngủ thấy một

người chơi một khúc nhạc rất

hay, tỉnh dậy bèn theo đó soạn thành

khúc “Long Ngâm”, được nổi

tiếng đương thời.

(09) Tam đồ:là ba đường khổ, tức ba cảnh giới với ba cách hành hạ khác nhau, khiến cho chúng sinh chịu

đau khổ cùng cực: 1. Hỏa đồ

(cảnh giới lửa): trong cảnh giới

địa ngục, chúng sinh bị lửa

thiêu đốt mãnh liệt; 2. Đao đồ

(cảnh giới dao): trong cảnh giới ngạ

quỉ, chúng sinh vừa bị đói khát,

vừa bị các thứ dao kiếm bách

hại nặng nề; 3. Huyết đồ (cảnh

giới máu): trong cảnh giới súc

sinh, các loài vật bị loài người

ăn thịt, và chính chúng cũng ăn

thịt lẫn nhau.

(10) Năm phần thanh tịnh:Đây là

năm thứ hương thơm thanh tịnh, gọi

là “chân hương”; danh từ Phật

học Hán Việt gọi là “ngũ phần

hương”, gồm có: 1. Hương GIỚI:

hương thơm do sự giữ gìn giới

luật, các nghiệp thân ngữ ý đều

thanh tịnh; 2. Hương ĐỊNH: hương thơm

của sự tu tập thiền định, tất

cả vọng niệm đều chìm lắng, tâm

ý không còn loạn động; 3. Hương

TUỆ: hương thơm của trí tuệ sáng

chói, thấy biết sự vật hoàn toàn

bằng chánh kiến; 4. Hương GIẢI THOÁT:

hương thơm của thành quả giải thoát,

không còn bị ràng buộc bởi bất

cứ loạiphiền não cấu uế nào; 5. Hương GIẢI THOÁT TRI KIẾN: hương thơm của bậc đã chứng đạt trí tuệ siêu việt, dứt tuyệt căn bản vô minh, thấy rõ bản tánh vốn vô nhiễm của mình, thân tâm hoàn toàn tự tại, không còn bị bất cứ điều gì làm cho chướng ngại. Năm thứ chân hương trên

cũng chính là năm thứ công đức

để làm nên pháp thân của chư

Phật; cho nên, chữ “HƯƠNG” ở

đây được dùng để ví dụ

cho pháp thân của chư Phật. Bởi vậy,

“ngũ phần hương” cũng tức

là “ngũ phần pháp thân” (tức:

giới pháp thân, định pháp thân,

tuệ pháp thân, giải thoát pháp thân,

và giải thoát tri kiến pháp thân).

(11) Xạ lan:chỉ cho các mùi thơm

vật chất, trần tục.

(12) Bẩn:Chữ “bẩn” ở đây là chỉ cho các thức ăn có mùi tanh hôi của thịt cá, do hành động

sát sinh, hoặc do những hành động

bất chánh mà có.

(13) Sáp vàng:chỉ cho cứt mũi hoặc nước mũi đặc như đờm.

(14) Hun:có nghĩa như xông, ướp.

(15) Giết gấu gẫy tay, chặt cây hại thân, mắng Phật mang họa, phun trời ướt mặt:Đại ý của bốn câu này nói lên sự ngu si tối dạ của người đời, không biết điều gì là đúng, sai, phải, trái. Một anh chàng cầm rựa vào rừng giết gấu. Anh đang đi, thình lình một con gấu xông ra cắn cánh tay anh, nhưng chưa trúng. Thấy thế, anh chàng bèn cầm rựa chặt đứt lìa cánh tay kia của mình để cho con gấu khỏi cắn được! Một anh chàng khác leo lên một cây cao lớn để chặt một cành. Anh muốn chặt ở ngay chỗ sát thân cây cho cành được dài. Anh bèn leo ra ngồi ở đầu cành và xoay mặt vào để chặt phía trong. Cành cây đứt, mang theo anh ta rớt xuống đất! Một người nông dân đem lúa ra phơi, bỗng trờimưa xối xả. Ông ta giận quá, ngửa mặt lên vừa chửi trời, vừa phun nước miếng cho dơ trời. Nhưng bao nhiêu tiếng chửi của ông chỉ có ông nghe, bao nhiêu nước miếng ông phun lên đều rơi trở lại trên mặt ông! Có một bà nọ do ngoại đạo xúi giục, đã độn bụng lớn rồi đến chỗ Phật để bêu xấu, đổ thừa cho Phật đã gây ra cái bụng bầu cho bà, rồi mắng

chửi Phật. Nhưng không ngờ, trong

lúc bà đang mắng chửi Phật thì

một con chuột ở đâu chạy tới

cắn đứt cái xà rông của bà

rớt xuống, làm cho bao nhiêu thứ

bà độn trên bụng đều rớt

xuống theo, lộ rõ lòng dạ ác độc

của bà.

(16) Nhãn quang:là sức sáng của

con mắt. Nhãn quang rơi xuống đất là

nói con người nhất định không

thoát khỏi sự chết.

(17) Kéo mũi lôi về:Ý câu

này nói, luôn luôn quán sát và

điều phục tâm ý mình, không để

cho nó chạy lông bông đuổi theo năm

dục.

(18) Quê mình:tức là tự

tánh thanh tịnh vốn có (bản lai diện

mục) của mình.

(19) Bốn con rắn độc đang bức bách:Bốn con rắn độc là chỉ chobốn yếu tố (tứ đại: đất, nước, gió, lửa) tạo nên thân người. Bốn thứ này luôn luôn

chống trái lẫn nhau, làm cho thân ta chẳng

lúc nào thấy an ổn. Chúng lại còm

cõi, già nua theo thời gian, chỉ chực

tan rã, gây cho ta bao nhiêu lo âu, phiền

muộn, khổ đau.

(20) Hai con chuột đang gặm mòn:Hai con

chuột là chỉ cho ngày và đêm. Ngày

qua đêm đến, hết ngày lại đêm,

hết đêm lại ngày; cứ thế mà

thời gian trôi qua, bào mòn thân xác,

cho đến ngày tàn tạ để vào cõi

chết; giống như người đeo vào

sợi dây treo trên miệng giếng, bị

hai con chuột cứ chạy qua chạy lại, gặm

nhấm lần hồi, cho đến khi sợi dây

đứt, người kia rớt xuống đáy

giếng tan thân.

PHỤ LỤC

KỆ BỐN NÚI

(Nguyên tác Hán văn của vua Trần

Thái Tông

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn - 1999)

A. DUYÊN KHỞI (lời người

dịch)

Mùa mưa năm đó, đức Phật

an cư cùng với đông đảo chư

Tăng, Ni tại tu viện Kì-viên (Jatevana), ở

kinh thành Xá-vệ (Savatthi) của vương

quốc Kiều-tát-la (Kosala).

Một buổi chiều nọ, vua của nước

Kiều-tát-la là Ba Tư Nặc (Pasenadi), đến

tu viện hầu Phật. Vua tỏ ý rất hối

hận, lâu nay vì công việc triều chính

quá bận rộn, nên đã không tinh tấn

lắm trong việc tu tập. Vua hứa với

Phật là từ nay phải để thêm

nhiều thì giờ cho việc tu học. Phật

dạy:

“Đúng vậy, thưa đại vương! Bây giờ tuổi đại vương đã cao, – năm đó vua đã 70 tuổi – nếu

không lo tu tập thì đại vương không

còn nhiều thì giờ nữa đâu! Đại vương! Ví dụ, một vệ sĩ thân tín của đại vương từ hướng Đông chạy về báo với đại vương là có một quả núi vĩ đại đang từ phương Đông tiến dần tới đây; quả núi ấy đã nghiền nát tất cả người, sinh vật và cây cỏ trên đường nó đi qua. Tiếp đó, một người khác từ hướng Tây chạy về cũng báo với đại vương là có một quả núi vĩ đại đang từ

phương Tây tiến dần tới đây. Rồi các người khác từ các hướng Nam và Bắc cũng chạy về báo với đại vương là có các quả núi vĩ đại đang từ các phương Nam và Bắc tiến dần tới

đây; các quả núi ấy đều đã

nghiền nát tất cả người, sinh vật

và cây cỏ trên đường chúng

đi qua. Đại vương biết rõ là bốn

quả núi vĩ đại kia từ bốn phương

sắp ập tới mình, và mạng sống

của đại vương sẽ không còn kéo

dài bao lâu nữa. Đại vương không

còn nhiều thì giờ! Vậy đại vương

sẽ làm gì trong tình huống ấy?”

Vua Ba Tư Nặc suy nghĩ rất nhanh, rồi bạch

Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo con nghĩ, trong

tình huống ấy thì con chỉ có một việc

đáng làm mà thôi: Đó là, con

phải sống thời gian còn lại thật

xứng đáng; nghĩa là con phải sống

thật trầm tĩnh và đúng theo chánh

pháp.”

Phật dạy: “Hay lắm, đại vương! Tôi xin nói rõ để đại vương biết: Bốn quả núi vĩ đại đó chính là bốn tướng trạng Sinh, Già,

Bệnh, và Chết của đời người.

Chính cái già và cái chết là những

quả núi hiện đang tiến tới và

vây hãm chúng ta.”

Nhà vua bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!

Biết được cái già và cái

chết đang tiến tới, con nghĩ chỉ còn

một cách là con phải sống đúng theo

chánh pháp, dùng những ngày tháng

còn lại để làm những việc lành

nào có thể làm, và xây dựng

cho những thế hệ tương lai.”

Nhà vua lạy Phật và trở về hoàng

cung.

*

Sinh, Già, Bệnh, Chết là bốn tướng

trạng đau khổ, hằng vây phủ và hành

hạ tất cả mọi người, không ai

có thể chống lại hay vượt thoát

nổi. Chỉ có tu tập theo Phật pháp để

đạt được trí tuệ giác ngộ

cao tột, thì mới giải thoát khỏi

vòng vây của bốn quả núi to lớn

kia mà thôi.

Lời dạy của đức Thế Tôn về “Bốn Núi” trên đây đã được ghi lại trong các kinh Tương Ưng Bộ(thuộc tạng Pali) và Tạp A Hàm(thuộc tạng Hán). Trên bước đường tu học Phật pháp, vua Trần Thái Tông (1218-1277) của nước ta đã rất lấy làm tâm đắc về đoạn kinh “Bốn Núi”này, và đã lấy cảm hứng từ đó mà viết nên bài văn “Tứ Sơn”(bốn núi), nêu lên các đề tài thiền quán quan trọng trong thiền môn. Bài văn

viết bằng chữ Hán, được in

chung với những bài văn khác của

nhà vua, trong tác phẩm thiền học nổi

tiếng của Phật giáo Việt-nam: KHÓA

HƯ LỤC (tức Trần Thái Tông Ngự

Chế Khóa Hư).

Bài văn “Tứ Sơn”này gồm

có năm đoạn văn viết bằng thể

biền ngẫu, diễn giải ý nghĩa của

bốn quả núi: Đoạn đầu nói một

cách tổng quát về thực trạng rằng,

bởi vì vô minh mà chúng sinh phải

trôi lăn mãi trong dòng sinh tử; bốn

đoạn sau, mỗi đoạn nói về tướng

trạng của một quả núi: SINH, LÃO, BỆNH,

TỬ, nêu rõ ý thức về tính

chất vô thường của đời người.

Mỗi đoạn văn trên đều được

kết thúc bằng một bài kệ thơ; bài

kệ đầu viết theo thể thất ngôn tứ

tuyệt, bốn bài sau theo thể thất ngôn

bát cú. Ở đây chúng tôi chỉ

xin dịch năm bài kệ thơ ấy mà

thôi.

B. KỆ BỐN NÚI (phiên âm

và dịch)

1) TỨ SƠN KỆ

Tứ sơn tiễu bích vạn thanh tòng

Ngộ liễu đô vô vạn vật không

Hỉ đắc lư nhi tam cước tại

Mạch ki đả sấn thướng cao phong

Dịch:

BÀI KỆ BỐN NÚI

Bốn núi cao chót vót

Sum sê muôn cây rừng

Tuệ giác nhìn vạn vật

Tất cả thảy đều không

Hãy cưỡi lừa ba cẳng

Lên thẳng đỉnh tột cùng

2) NHẤT SƠN (Sinh)

Chân tể huân đào vạn tượng thành

Bản lai phi triệu hựu phi manh

Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm

Khước bội vô sinh thụ hữu sinh

Tị trước chư hương thiệt tham vị

Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh

Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách

Nhật viễn gia hương vạn lí trình

Dịch:

NÚI THỨ NHẤT (Sinh)

Do nhân duyên hun đúc

Vạn pháp được sinh thành

Vốn không phải điềm báo

Cũng không thuần mầm xanh

Vì bỏ quên vô niệm

Hữu niệm liền phát sinh

Kiếp vô sinh đã trái

Hữu sinh phải nhận hình

Mũi lưỡi tham hương vị

Mắt tai đắm sắc thanh

Quê nhà ngày xa mãi

Kiếp phong trần lênh đênh

3) NHỊ SƠN (Lão)

Nhân sinh tại thế nhược phù âu

Thọ yểu nhân thiên mạc vọng cầu

Cảnh bức tang du tương hướng vãn

Thân như bồ liễu tạm kinh thu

Thanh điêu tích nhật Phan lang mấn

Bạch biến đương niên Lã Vọng đầu

Thế sự thao thao hồn bất cố

Tịch dương Tây khứ thủy Đông lưu

Dịch:

NÚI THỨ HAI (Già)

Đời người như bọt nước

Thọ yểu chớ vọng cầu

Mặt trời đà xế bóng

Bồ liễu dần sang thu

Mới ngày nào trẻ đẹp

Giờ đây đã bạc đầu

Việc đời trôi cuồn cuộn

Ngoảnh lại ích gì đâu

Hướng Tây mặt trời lặn

Về Đông nước chảy mau

4) TAM SƠN (Bệnh)

Âm dương khiên đức bổn tương nhân

Biến tác tai truân cập thế nhân

Đại để hữu thân phương hữu bệnh

Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân

Linh đan mạn sá trường sinh thuật

Lương dược nan linh bất tử xuân

Tảo nguyện viễn li ma cảnh giới

Hồi tâm hướng đạo dưỡng thiên chân

Dịch:

NÚI THỨ BA (Bệnh)

Âm dương không hòa hợp

Gây họa đến thế nhân

Có thân thì có bệnh

Không bệnh hẳn không thân

Trường sinh cùng bất tử

Chỉ dối kẻ ngu đần

Gấp xa lìa ma cảnh

Quay về với thiên chân

5) TỨ SƠN (Tử)

Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh

Ngư ông túy lí điếu chu hoành

Tứ thùy vân hiệp âm mai sắc

Nhất phái ba phiên cổ động thanh

Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch

Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh

Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh

Nguyệt lạc trường giang dạ kỉ canh

Dịch:

NÚI THỨ TƯ (Chết)

Một trận cuồng phong thổi

Mịt mù cát bụi bay

Ngư ông say túy lúy

Mặc cho chiếc thuyền quay

Bốn phương trời u ám

Vần vũ lớp lớp mây

Sầm sập mưa xối xả

Lô xô sóng bủa vây

Ầm ầm tiếng sét nổ

Xe sấm tít mù xoay

Phút giây trời quang tạnh

Bụi lắng gió ngừng lay

Trong lòng sông vắng lặng

Còn lại mặt trăng đầy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2010(Xem: 7630)
Trong các chùa Phật giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, một số loại thuộcpháp khí như chuông, trống, mõ được dùng để trang nghiêm nơi đạo tràng,hoặc thêm phần sắc thái lễ nhạc trong lúc tụng kinh, lễ sám, thuyếtpháp v.v... Những loại này xuất hiện từ hồi nào? Nhằm mục đích gì?... Chuông, trống được đưa vào PG từ khi Đức Phật còn sanh tiền với mục đích tập hợp chúng Tăng. Về sau, chuông, trống, mõ được dùng trong các nghi lễ để trang nghiêm đạo tràng...
28/09/2010(Xem: 4067)
Phật Giáo Đông truyền trong tâm niệm đem giáo lý Đại Thừa chiếu sáng Phương Đông, vì lẽ đó trong bất cứ lĩnh vực nào về văn hóa nghệ thuật, triết học, văn học, thi ca, tín ngưỡng, âm nhạc, phong tục, tập quán củangười Đông phương mà không thấy không có sự hiện diện của Phật Giáo, cũng như tinh thần từ bi phổ độ bình đẳng của Phật Đà, sự hòa nhập trongtinh thần vô tư chỉ có một mục đích duy nhất là “Hoằng Pháp Độ Sanh” nên ngày nay khi nói đến văn hóa Đông phương người ta không thể không nhắc đến Phật Giáo.
23/09/2010(Xem: 9732)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 8634)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
20/09/2010(Xem: 6749)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
19/09/2010(Xem: 13863)
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh buốt xương khô, Não người thay buổi chiều thu, Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
18/09/2010(Xem: 4751)
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, lạc bang giáo chủ, y chánh trang nghiêm, tứ thập bát nguyện độ chúng sanh, cữu phẩm liên đài mông thát hóa
18/09/2010(Xem: 4734)
Từng nghe, pháp không tự khởi, nhờ cảnh mới sanh, đạo chẳng hư hành, gặp duyên liền ứng. Hôm nay, hoa đàn la liệt, Phật sự xiển dương, hương xông triện báu
18/09/2010(Xem: 5715)
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổ mà đức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
15/09/2010(Xem: 3651)
Đấng Pháp vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người, Cha lành chung bốn loài. Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567