Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phong Cách Tán Tụng trong Phật Giáo Việt Nam

04/01/201101:49(Xem: 5759)
Phong Cách Tán Tụng trong Phật Giáo Việt Nam


Buddha_7

Phong Cách Tán Tụng trong Phật Giáo Việt Nam

Giáo Sư Trần Văn Khê 






Trên thế giới về cách tán, tụng có ba trường phái :

  • Bắc tông, hay Đại thừa gồm có Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh văn bằng tiếng Phạn (Sanskrit) để nguyên tiếng Phạn, phiên âm ra bằng tiếng Trung Quốc, đọc theo cách phát âm của người Trung Quốc, thì gần giống âm tiếng Phạn, nhưng khi đọc chữ phiên âm theo cách đọc của mỗi nước Triều Tiên, Nhật Bản hay Việt Nam thì rất xa âm tiếng Phạn, như bài chú Vãng sanh (Nam mô A di đà bà dạ v.v….) Có khi tiếng Phạn dịch ra tiếng Trung Quốc viết lại bằng chữ Hán như A Di Đà kinh, Tâm kinh Bát Nhã v.v…
  • Nam tông hay Tiểu thừa gồm các nước Sri Lanka (Tích Lan), Thái Lan, Cao Miên (Campuchia), Lào. Kinh chép bằng chữ Pàli đọc theo âm Pàli, không dịch ra tiếng bổn xứ.
  • Mật tông (Tây Tạng, Mông Cổ) kinh gồm những mật ngôn đọc theo một giọng thật trầm.

Sau khi nghe qua ba cách tụng kinh, chúng ta thấy rằng cách tán, tụng trong truyền thống Việt Nam đứng trong truyền thống Bắc tông.

(Phần minh hoạ bằng các đoạn trích các phong cách tụng của các nước Trung Quốc (danh hiệu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), Nhật Bản (kinh A Di Đà), Campuchia, Tây Tạng và miền Nam Việt Nam – NBT).

Sau khi nghe qua cách niệm "Nam mô A Di Đà Phật" trong các nước Đông Á, nghe qua vài bài tụng như chú Lăng Nghiêm, kệ Khai kinh v.v… chúng tôi có những nhận xét sơ bộ sau đây :

  1. Không có một thể nhạc Phật giáo chung cho các nước Đông Á, như cách hát "chant grégorien" chung cho các nước Tây Âu, Pháp, Ý, Tây Ban Nha v.v…. Lời kinh giống nhau nhưng nét nhạc của các tụng, tán tùy mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi.
  2. Mặc dù đạo Phật thành lập từ Ấn Độ, mặc dù một số kinh chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Á, nét nhạc trong các bài tụng, bài tán trong truyền thống Việt Nam không chịu ảnh hưởng của Ấn Độ hay Trung Quốc.
  3. Trong nước Việt Nam, nét nhạc của các bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru, những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng.
  4. Có hai điệu thức chính được dùng : điệu Thiền (như hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Nam) và điệu Ai. Điệu thay đổi tùy theo nội dung của bài tán.

Như bài tán "Dương chi tịnh thủy" ca ngợi Đức Quan Âm không có chi buồn.

Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhân thiên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệm hóa hồng liên

Khi nước cam lộ được nhành dương liễu (từ Bồ tát) rải xuống trần, một giọt biến thành ba ngàn giọt rửa sạch tội lỗi oan khiên. Núi lửa hóa thành bông sen hồng. Bài tán đó được tán theo điệu Thiền.

Nhưng khi tán bài tán "Nhất điện" có những câu :

"Thân hình bào ảnh tợ ngân sương. Mạng tợ ngân sương…"

Thân hình chúng ta như hạt sương trắng buổi sáng. Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng. Nhớ tới cái mong manh của cuộc đời nên bài tán được tán theo điệu Ai.

Điệu thức cũng tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi.

Như kệ Khai kinh hay tụng kinh A Di Đà, trong chùa tụng khác, mà trong một đám tang tụng khác.

Từ thực tế trên, có thể kết luận : Cách tán, tụng trong truyền thống Phật giáo Việt Nam rất gần với cách tán, tụng các nước trong phái Bắc tông.

Nhạc Phật giáo Việt Nam bắt nguồn từ nhạc dân tộc Việt Nam, mang hơi điệu nhạc dân gian, nhạc thính phòng, nhạc dân khấu và nhạc lễ trong cung đình Việt Nam.


VÀI ĐẶC TÍNH CỦA ÂM NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM

1. Âm nhạc Phật giáo Việt Nam là một loại lễ nhạc

Nhạc đi đôi với lễ, chỉ được tấu trong khi hành lễ, chớ không phải chỉ để nghe cho vui tai. Mỗi nét nhạc, mỗi bản nhạc đều có liên quan đến một bài kinh, hay một buổi lễ, mục đích để tạo một bầu không khí trang nghiêm, dẫn con người đi sâu vào cuộc sống tâm linh, để hiểu thấu nghĩa sâu xa của những câu kinh và thấm nhuần giáo lý.

Trong đời sống thường nhật tại các chùa, mỗi ngày thường có ba thời kinh : sáng từ 4 giờ đến 5 giờ, trưa cúng ngọ 12 giờ, và tối 6,7 giờ.

Mỗi lần đều có chuông báo chúng gọi Tăng Ni.

Mỗi thời đều có những bài tụng hay tán riêng.

Như trong thời sáng thì có kệ dâng hương, chú Lăng Nghiêm, Thập chú, Bát Nhã Tâm kinh, niệm danh hiệu Phật Thích Ca 108 lần, rồi phát nguyện, hồi hướng.

Trong thời tối, thiên về Tịnh độ, nên sau khi dâng hương, tụng chú Vãng sinh, kinh Hồng danh sám hối, kinh A Di Đà, chú Biến thực biến thủy, Phát nguyện, Tam tự quy v.v…

Trong thời cúng Khai kinh, có bài tán Dương chi tịnh thủy, tán Khể thủ, tụng bài tựa Lăng Nghiêm, trì chú Phổ Am, chú Đại Bi.

Ngoài các thời cúng trong chùa, còn có những lễ khác như Phật Đản (ngày sanh của Đức Phật), Thành đạo (ngày Đức Phật tìm được chân lý dưới gốc cây bồ đề), Vu Lan (muà báo hiếu), chẩn tế cô hồn v.v….

Trong dân gian còn có những lễ táng, thỉnh linh, tiến linh, đề phan, đề vị.

2. Nhạc Phật giáo là một loại thanh nhạc. Khí nhạc chỉ để phụ họa cho lời tán, tụng

Người Nhật có danh từ Shômyo, người Trung Quốc đọc ra Sheng minh, người Việt Nam đọc "Thanh minh". Thanh là tiếng, minh là sáng, sự trong sáng của tiếng nói. Tiếng Phạn là Saddhavidya.

Trong các nước Đông Á đều có tụng và tán. Người Việt ngoài hai lối tụng, tán cơ bản, còn có niệm, đọc, hô, bạch, tụng, xướng, thỉnh, tán, niệm Phật, niệm hương, đọc sớ, hô kệ, tụng kinh, xướng danh hiệu Phật, thỉnh linh, tán những bài ca ngợi công đức của chư Phật, Bồ tát…

Trong những lễ lớn, khi nhạc mới được dùng đến.

Mở đầu bằng chuông trống Bát nhã. Thường thường, người dự lễ tưởng rằng chuông trống đánh từng hồi. Chính chuông trống đánh theo số chữ trong bài kệ.

Bát nhã hội (3 lần, 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)

Thỉnh Phật thượng đường (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông).

Đại chúng đồng văn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)

Bát nhã âm (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông).

Phổ nguyện pháp giới (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông).

Đẳng hữu tình (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)

Nhập Bát Nhã (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)

Ba la mật môn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)

Hồi chuông và trống luôn đến dứt.

Sau trống chuông Bát nhã, dàn đaị nhạc tấu bài Đăng đàn.

Tiểu nhạc tấu bài Long ngâm, hoặc Ngũ đối thượng.

Chuông gia trì, mõ gia trì và tang mở đầu cho bài tán Dương chi tịnh thủy (trong lễ Khai kinh).

Trong lúc tán, nét nhạc theo câu kinh, nhạc công phải thuộc bài tán. Có khi nhạc tấu bài Lưu thủy thầy, tức là bản Lưu thuỷ đờn theo phong cách nhạc lễ.


NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA HAI CÁCH TỤNG, TÁN TRONG TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

  1. "Tụng" là đọc lớn, lớn hơn "đọc" và "niệm". "Tán" là ca ngợi, khen tặng. Tiếng "tán" có thể to hơn tiếng "tụng".
  2. Thanh giọng được hệ thống hóa trong khuôn khổ của một quãng tám, trong bài "tụng" cũng như bài "tán".
  3. Thang âm của bài tụng, có thể 3,4 hoặc 5 (tam, tứ hoặc ngũ cung). Thang âm trong các bài tán đều là ngũ cung.
  4. Điệu thức Thiền và Ai đều được dùng trong tụng hoặc tán và tùy nội dung bài kinh, theo địa phương, theo bối cảnh.
  5. Nét nhạc trong các bài "tụng" tùy theo thanh giọng của những chữ trong câu kinh và cũng tùy theo người tụng. Nét nhạc trong bài tán thường cố định theo từng bài. Người tán không thể thay đổi nét nhạc.
  6. Mỗi chữ trong câu kinh chỉ được thể hiện theo một âm trong bài tụng (Style syllabique). Trong bài tán, một chữ có thể tán với nhiều âm (Style mélismatique).
  7. Âm vực thâu hẹp trong bài tụng, và mở rộng trong bài tán.
  8. Trong bài tụng nhịp đều trường canh, mỗi chữ trùng với một tiếng mõ…

Trong bài tán, nhịp phức tạp hơn. Chữ quan trọng trong câu kinh, kệ thường được xướng theo nhịp ngoại. Tang, mõ đánh theo chu kỳ (rythme cyclique). Trống đánh theo đối điểm (contrepoint).

Có ba loại : tán rơi, tán xắp, tán trạo. Nhịp theo chu kỳ khác nhau.

Ngoài ra những cách "luyến láy" được qui định rất cẩn thận.

Vì thời gian có hạn, nên chưa đề cập vấn đề nhạc cụ dùng trong các lễ. Bài bản của các dàn nhạc phụ họa cũng chưa kể hết.


Kết luận:

Âm nhạc Phật giáo Việt Nam là một phần của âm nhạc truyền thống Việt Nam, mang tính chất đặc thù của âm nhạc dân gian, âm nhạc thính phòng và âm nhạc lễ Việt Nam.

Nét nhạc, điệu thức, tiết tấu trong âm nhạc Phật giáo Việt Nam rất phong phú và tế nhị.

Nhạc mang tính chất thanh thản, nghiêm trang, đôi khi buồn man mác, mà không bi lụy.

Nhạc gợi một bầu không khí trang nghiêm trầm lặng, giúp cho người tụng kinh và người nghe kinh có thể tập trung tư tưởng vào nghĩa của lời kinh.

Cách tụng, tán trong Phật giáo Việt Nam, ngày nay có xu hướng đi đến chỗ giản dị hóa. Trong khi tại các nước Đông Á khác, như ở Nhật Bản, Triều Tiên, nhạc Phật giáo được truyền tụng trong các chùa, nghiên cứu để viết thành sách đã được trình bày rành mạch trong các cuộc hội thảo khoa học, trong nước Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu rành mạch về nhạc Phật giáo. Tôi rất mong sẽ có những nhà nhạc học để tâm đến nhạc Phật giáo Việt Nam để cho những cách tán, tụng rất độc đáo của Việt Nam được truyền lại cho thế hệ mai sau, mà không bị lớp bụi thời gian che lấp và chôn vùi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2021(Xem: 5050)
Kiến Sơ chùa cổ bặt không ngôn Diện vách nhiều năm hướng nội tâm Cảm hoá thiền tăng trao kệ ngọc Thiền tông hưng khởi rạng trời Nam
11/12/2021(Xem: 12717)
Hương trầm thơm ngát cả rừng thiền, Vườn tuệ chiên đàn nguyện kết nên. Đao Giới vót thành hình núi thẳm, Lư lòng thắp sáng nguyện dâng lên.
03/09/2021(Xem: 30971)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
12/08/2021(Xem: 68495)
Trầm nhủ chiên đàn giá mật luân Hương yên tài nhiệt phúng tường vân Nhơn ôn biến triệt tam thiên giới Vi thoại vi tường đạt Thế Tôn.
10/08/2021(Xem: 4102)
Hiếu đồ cung tựu cảm buồn thương Thành kính dâng hương lễ cúng dường Tưởng niệm ân sư đền nghĩa cả Dốc lòng đảnh lễ thọ tâm tang
08/08/2021(Xem: 6761)
v Duy na xướng: Hiếu đồ tựu vị. Ai thành bài ban. Đảnh lễ tam bái – Quỳ – Phần hương – Thượng hương – Khởi thân đảnh lễ tam bái – Hồ quỳ. v Pháp ngữ vân: Ký tùy duyên nhi thuận tịch, nãi y pháp dĩ biếm truân. Cơ niên dư hoằng đạo chi xu, quy nhất lộ niết bàn chi cảnh. Ngưỡng lao đại chúng, đồng trợ chơn thuyên. v Cử tán: Tâm nhiên ngũ phận, Giới Định Tuệ hương. Giải thoát tri kiến chủ kiền thành, tịnh độ khởi căn nguyên. Diệp biến tam thiên, phụng hiến giác linh tiền. - Tiến Giác Linh Bồ Tát (tam xưng).
11/06/2021(Xem: 8902)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
05/06/2020(Xem: 4335)
Cúi đầu đảnh lễ Như Lai, Chứng minh đệ tử ngày nay phát nguyền. Con xin đem dạ chí thiền, Thành tâm sám hối nghiệp khiên đã làm. Bởi xưa chưa rõ dạ phàm, Nên chi kết tạo dây oan cõi trần,
12/05/2020(Xem: 15823)
Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật " tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 35 hiệu Phật trong Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng" với pháp thân đức Phật A Di Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
09/04/2020(Xem: 4786)
“Xây chùa, tạo tượng, đúc chuông, ba công đức ấy thập phương nên làm”, xây dựng ngôi Tam bảo, bao gồm hình thức và nội dung của cơ sở Tự viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường. Qua đó, Trụ trì mới có cơ sở hành đạo, thi hành Phật sự, hóa độ chúng sanh, báo Phật ân đức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567