Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thần Chú Trừ Rắn Độc

09/04/201302:10(Xem: 5806)
Thần Chú Trừ Rắn Độc
mattong_1
THẦN CHÚ TRỪ RẮN ĐỘC

Thích Nguyên Hùng

Thuở xưa, trú xứ của những người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình thường là khu rừng, vách núi, hang động, đồng hoang… Ngay cả Đức Thế Tôn, khi đã có những tu viện do các cư sĩ xây dựng cúng dường như Trúc Lâm, Kỳ Viên… thì Ngài cũng chỉ cư trú trong ba tháng an cư mùa mưa, còn phần lớn thời gian Ngài đi hoằng pháp và nghỉ lại trong những khu rừng trên lộ trình du hóa.

Rừng hoang, hang động, vách núi… thường ẩn chứa những điều hiểm nguy. Muôn loài thú dữ và côn trùng độc hại đều lấy núi rừng làm nhà; ma quái, ly mỵ, vọng lượng… chắc cũng ẩn dật đâu đó. Những mối hiểm nguy luôn tiềm tàng giữa rừng núi hoang vu, vậy mà các Tỳ-kheo lại ưa thích đời sống viễn ly, độc cư, nhàn tĩnh giữa núi rừng. Vậy nên, có lần tai nạn đã xảy ra với các Tỳ-kheo.

Chuyện kể rằng, Tôn giả Upasena khi đang ngồi thiền trong hang Đầu Con Rắn tại rừng Sitavana, thuộc thành Ràjagaha thì bị một con rắn cực độc rơi trúng trên người. Độc tố của loài rắn này không những giết chết Tôn giả Upasena mà còn hủy hoại, phân tán thân thể của Tôn giả thành một nắm trấu (Tương ưng bộ kinh).

Cùng sự kiện này, kinh Tạp A-hàmcòn kể thêm rằng, khi ấy Tôn giả Sàriputta chứng kiến thi thể Tôn giả Upasena bị phân hủy, cho dù Upasena đã đạt được định lực thâm sâu, có được tâm và tuệ vô ngã nên không hề có biểu hiện đau khổ, nhưng Tôn giả Sàriputta rất thương xót, nên sau khi cúng dường xá-lợi Tôn giả Upasena xong, ngài liền đến chỗ Thế Tôn và kể lại sự tình. Đức Phật nghe xong thì dạy rằng, nếu Upasena tụng bài kệ và thần chú sau đây thì sẽ không trúng độc và thân thể cũng không bị hủy hoại như trấu nát được. Rồi thì Đức Phật dạy câu thần chú: Ô-đam-bà-lệ, đam-bà-lệ, đam-lục, ba-la-đam-lục, nại-tí, túc-nại-tí, chỉ-bạt-tí, văn-na-di, tam-ma-di, đàn-đế, ni-la-chỉ-thí, bà-la-câu-bế-ô-lệ, ô-ngu-lệ, tất-bà-ha.

Nguyên bản tiếng Phạn của câu thần chú trên chưa được tìm thấy, nhưng nội dung bài kệ tụng thì hoàn toàn phù hợp với câu thần chú trong Luật tạng Pāli, Tiểu phẩm (Cullavagga) cho trường hợp xảy ra tương tự, nhưng không phải Tôn giả Upasena mà là một Tỳ-kheo bị rắn cắn chết ở thành Savatthi. Bài thần chú ấy tạm dịch như sau:

Tôi xin hướng từ tâm
Đến loài Virūpakkhas
Đến loài Erapathas
Con cháu loài Chabyā
Và loài Gotamakas đen
Tôi cũng hướng từ tâm
Đến chúng sanh không chân
Hai chân và bốn chân
Cùng chúng sanh nhiều chân.
Nguyện các loài không chân
Hai chân và bốn chân
Và những loài nhiều chân
Không làm tổn hại tôi!
Nguyện hết thảy sanh vật
Các loài có hơi thở
Tất cả mọi chúng sanh
Mỗi một trong loài ấy
Đều gặp điều tốt lành
Không loài nào gặp nạn.
Phật bảo là vô lượng
Pháp bảo là vô lượng
Tăng bảo cũng vô lượng
Còn chúng sanh bò, chạy
Như rắn, bò cạp, rết
Nhền nhện, thằn lằn, chuột
Chỉ có hạn lượng thôi
Nên tôi tụng bài kệ
Và thần chú hộ vệ
Xin các loài đi xa
Con kính lễ Thế Tôn
Cùng bảy Phật quá khứ”

Nội dung của câu thần chú trong Luật tạng Pāli như vậy không khác gì mấy so với nội dung bài kệ tụng được ghi chép trong kinh TạpA-hàm, kinh số 254 (số 252, bản Đại chính). Bài kệ tụng được xem như là thần chú ấy cũng được tìm thấy trong Tiểu bộ kinh, số 203, chuyện tiền thân Khandha-Vatta, với duyên do là có Tỳ-kheo bị rắn cắn chết khi đang chẻ củi.

Trong tất cả các bản kinh và luật trên đều có lời Phật khẳng định: “Nếu các ông tu tập từ tâm đối với bốn loại gia đình vua rắn này, các con rắn sẽ không cắn các ông, do vậy, bắt đầu từ nay, hãy tu tập từ tâm như vậy đối với bốn loại vua rắn”.

Như vậy, bản chất của bài kệ tụng mà hết thảy các Phật tử đều xem như thần chú bảo hộ (paritta) này là phương pháp tu tập phát triển tâm từ bi. Điều này cho thấy, để bảo hộ bản thân mình trước những hiểm nguy, người con Phật chỉ dùng một thứ ‘công cụ’ duy nhất là tâm từ bi. Khi tâm từ biến mãn mười phương thì không gì có thể làm tổn hại mình được. Cho nên, nếu tụng thần chú, dù là thần chú Đại bi, mà tâm của mình không có một chút tình thương đối với đồng loại, không từ niệm đối với chúng sanh thì thần chú không thể phát huy sức mạnh nhiệm mầu, không thể làm cho mình tai qua nạn khỏi, không thể bảo hộ mình trước những hiểm nguy, ách nạn…

Một điều đáng chú ý nữa là, khi tu tập phát triển tâm từ bi, hướng tâm đến các loài chúng sanh để ban rải tình thương hay cầu nguyện, thì tình thương ấy, lời cầu nguyện ấy phải là tình thương chân thật, lời cầu nguyện trên nền tảng của sự thật, phát sanh từ chân tâm. Kinh ghi: “Như lời chân thật này/Đại sư Vô thượng dạy”.

Như vậy, bản chất của thần chú là chân ngôn, là lời nói chân thật, không hư dối, là phương tiện để diễn đạt chân lý. Đọc tụng thần chú hàng ngày là cách sống nương tựa vào chân lý, sống với sự thật. Chẳng hạn khi mình đọc tụng chú Đại bi mở đầu bằng câu “Đại bi tâm đà-la-ni”, thì có nghĩa là con xin “duy trì, giữ gìn cái tâm tràn đầy yêu thương”. Chính cách sống, cách tu tập này mà chúng ta bảo hộ được bản thân, gia đình và xã hội thoát khỏi mọi khổ đau ách nạn; không những thoát khỏi sự tấn công của rắn độc, mà còn miễn nhiễm với mọi ô nhiễm của cuộc đời.

Thích Nguyên Hùng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 7448)
Những chỉ dạy gồm những trong Những Khai thị từ Đức Liên Hoa Sanh được nói trực tiếp bởi Padmasambhava cho các đệ tử thân thiết ở Tây Tạng. Trước tiên chúng được ban cho để trả lời các câu hỏi từ Bà Tsogyal, công chúa của Kharchen, bà chép lại và cất giấu chúng như kho tàng Terma quý báu để sẽ được khám phá vào nhiều thế kỷ sau.
08/04/2013(Xem: 5924)
Vào trung tuần tháng 12 (từ ngày 11 đến 19/12) năm 1994, tại sân vận động Olympic, thuộc bang Barcelona, nước Tây Ban Nha, đã diễn ra tuần lễ thuyết Pháp và truyền Pháp Mật Tông KALACHAKRA theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chủ trì.
08/04/2013(Xem: 4833)
Thành ngữ « Pháp Nghệ Thuật Thưởng Thức Chân Chính » không có nghĩa tượng trưng cho những biểu tượng hay nhận định về bánh xe cuộc đời hoặc lịch sử Đức Phật Gautama; ở đây muốn nói đến nghệ thuật phóng xuất trạng thái tâm thức nơi người nghệ sĩ, có thể gọi những phóng xuất trạng thái Thiền định trực tiếp trong sáng tạo không bám víu vào tư tưởng hay thiên kiến.
08/04/2013(Xem: 18939)
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát từ Tòa đứng dậy, trật áo bên phải , quỳ xuống chắp tay , đảnh lễ chân Phật, bạch rằng :” Thế Tôn ! Con muốn nói Pháp , hay trừ nghiệp chướng trong ba đời. Mong Thế Tôn từ bi hứa khả “
08/04/2013(Xem: 10997)
Đều để Kệ Duyên Khởi Số đủ như Kinh nói Làm đủ như vậy xong Pháp tu trì niệm tụng Dùng đây làm phước điền Tất cả các Hữu Tình Mau thành A Súc Phật
08/04/2013(Xem: 11328)
An( Om ) Cứu Độ Du Hồi Đáp Liệt Mẫu (Samskara Tàre – Độ thoát luân hồi Mẫu ) Dùng Đô Đáp Liệt (Tuttàre) thoát tám nạn. Tất cả bệnh tội, Đô Liệt (Tùre) cứu Trước Cứu Độ Mẫu kính tán lễ
08/04/2013(Xem: 12183)
Bạch tản cái đại phật đỉnh vương tối thắng vô tỷ đại uy đức kim cương vô ngại đại đạo trường đà la ni niệm tụng pháp yếu
08/04/2013(Xem: 10148)
Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai có toàn thân màu xanh ngọc bích, ngự trong cung điện báu trên tòa sen trăm báu (Bách Bảo Liên Hoa tòa) , nhập vào Tam Muội ĐẠI KHÔNG phóng tỏa ra vô số ánh sáng.
08/04/2013(Xem: 7157)
Nạp mộ hạt lạt đát na đát lạt dạ gia ( 1 ) Nạp mộ a lạt-gia ( 2 ) Phộc lô chỉ đê thấp phiệt la gia ( 3 ) Bộ địa tát đỏa gia ( 4 ) Mô ha tát đỏa gia ( 5 ) Mô ha ca lô nặc ca gia ( 6 ) Đát điệt tha ( 7 )
08/04/2013(Xem: 6079)
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật Bạc Già Phạm khéo hay thành tựu Uy Đức, Tam Ma Gia, Trí, mọi Công Đức tối thắng hiếm có của Kim Cương. Ngài đã được mão báu Quán Đỉnh của tất cả Như Lai, vượt qua ba cõi. Ngài đã chứng nhập Trí Diệu Quán Sát, Pháp Đại Du Già của tất cả Như Lai, vô ngại tự tại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567