- Mật Tạng Việt Nam số 19
- Mật Tạng Việt Nam số 20
- Mật Tạng Việt Nam số 21
- Mật Tạng Việt Nam số 22
- Mật Tạng Việt Nam số 23
- Mật Tạng Việt Nam số 24
- Mật Tạng Việt Nam số 25
- Mật Tạng Việt Nam số 26
- Mật Tạng Việt Nam số 27
- Mật Tạng Việt Nam số 28
- Mật Tạng Việt Nam số 29
- Mật Tạng Việt Nam số 30
- Mật Tạng Việt Nam số 31
- Mật Tạng Việt Nam số 32
- Mật Tạng Việt Nam số 33
- Mật Tạng Việt Nam số 34
- Mật Tạng Việt Nam số 35
- Mật Tạng Việt Nam số 36
- Mật Tạng Việt Nam số 37
- Mật Tạng Việt Nam số 38
- Mật Tạng Việt Nam số 39
- Mật Tạng Việt Nam số 40
- Mật Tạng Việt Nam số 41
- Mật Tạng Việt Nam số 42
- Mật Tạng Việt Nam số 43
- Mật Tạng Việt Nam số 44
- Mật Tạng Việt Nam số 45
- Mật Tạng Việt Nam số 46
- Mật Tạng Việt Nam số 47
- Mật Tạng Việt Nam số 48
- Mật Tạng Việt Nam số 49
- Mật Tạng Việt Nam số 50
- Mật Tạng Việt Nam số 51
- Mật Tạng Việt Nam số 52
- Mật Tạng Việt Nam số 53
- Mật Tạng Việt Nam số 54
MẬT TẠNG
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TẬP II
Ban phiên dịch:
Thích Viên Đức, Thích Thiền Tâm
Thích Quảng Trí, Thích Thông Đức
Cư sĩ Huỳnh Thanh, Như Pháp Quân
MẬT TẠNG VIỆT
PHẬT TÂM KINH PHẨM
( Cũngthông với Đà La Ni Đại Tùy Cầu )
Mật Tạng Bộ 2 .No- 920( Tr.02- Tr.08 )
Quyển Thượng
Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi phụng chiếu dịch Phạn ra Hán
Sa môn Thích Quảng Trídịchtừ Hán ra Việt văn.
Ta nghe như thế này: Một thời Phật trú tại đỉnh núi Kim Cang nước Cu Diễm Di, xem khắp mười phương thấy toàn là màu sắc như lửa cháy. Thấy thế, Đức Phật khẽ thở dài nghĩ thương chúng sanh sai đường lạc lối, lấy gì cứu thoát; đang suy nghĩ như thế, thời thế giới của Chư Phật, cảnh giới của Bồ Tát, trên đến Ba mươi ba cõi Trời, dưới đến tận cùng Kim Cang Tế, cung điện của các Ma thảy đều rung rinh. Đồng thời, ba đời Chư Phật thảy đều suy nghĩ như vậy, lại các Bồ Tát nơi tự tâm bất động, các hàng Kim Cang khiến các quyến thuộc làm các Kim Cang sự nghiệp không thể ngồi yên nơi tòa, bay đi khắp mười phương. Các hàng Chư Thiên, Tiên, Ma đều sợ sệt không biết chạy nơi nào.Bấy giờ có mười Bồ Tát Kim Cang Tạng sửa sang y phục, bạch Phật rằng:“Bạch Thế Tôn! Đây là điềm gì?Là Thiện hay là Ác?”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lo suy nghĩnênkhông trả lời. Khi đó, ở trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Kim Cang Mẫn bảo Bồ tát Kim Cang Tạng rằng:“Đây là tướng không tốt. Nay Phật đang nhập Từbi Tam muội, nên cần tịnh tâm chờ Phật giải thích"
Bấy giờ, lại có một vị Bồ Tát gọi là Đức Tạng hỏi Bồ tát Kim Cang Mẫn rằng: “Vì sao gọi là Từ bi Tam muội?” .
Bồ Tát Kim Cang Mẫnđáprằng:“ Lành thay! Lành thay! Các ông có biết chúng sanh đang bị đắm chìm trong vô minh hay không?Ta vì tất cả chúng sanh không biết được Pháp, không biết được tâm, không tự điều phục, bị các Ma sai sử, lấy gì để cứu hộ, lấy gì để nhiếp phục các độc” .
Liền đó, tức có ba chục ngàn vạn ức Bồ Tát đều là các Bậc Quán Đảnh Đại Pháp Vương Tử, đầy đủ đại oai đức tự tại, lại bạch Phật rằng:“Bạch Thế Tôn! Bọn chúng con có thể làm được gì không?”.
Phật trả lời: “ Khôngđược” .
Lại có trăm ngàn hằng hà sa số thế giới Kim Cang Mật Tích, mỗi vị Mật Tích có bốn Thiên hạ Lực sĩcũngbạch Phật rằng:“ Bạch Thế Tôn! Còn chúng con có thể làm được chăng?”.
Phật bảo:“Không được?” .
Lại các vị Đại Tự Tại Thiên trong tất cả Thế giới hay biến thân làm Phật, lại bạch Phật rằng:“Bạch Thế Tôn! Sức biến hóa của chúng con có thể nhiếp được chăng?”.
Phật bảo:“Sức huyễn hoặc của các ông cũng không thể được”.
Lúc ấy, trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Bảo Đức bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Tất cả chư Bồ Tát, Kim Cang, Thiên Tiên, cũng không ai nhiếp phục.Nay Thế Tôn lấy gì để cứu chúng sanh ra khỏi các nạn?”.
Thời Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Bảo Đức rằng: “Chỉ có thần lực của Như Lai Tâm Trung Tâm là không thể sánh kịp.Vì sao vậy? Vì hay khiến các Ma sanh lòng từ mẫn, hay khiến các Pháp hiện tiền, Chư Phật thường không xa lìa, hay khiến Chư Bồ Tát làm quyến thuộc, các Kim Cang ban cho oai lực, hay khiến Chư Thiên thường luôn ủng hộ, các Đại Dạ Xoa, La Sát làm người trị Pháp, lại hay khiến tất cả các Đại Ma Thần sanh lòng hoan hỷ, hay khiến hành giả sức như Phật, tâm như Phật, trí như Phật, oai như Phật, hay khiến hành giả ra làm việc gì đều được tùy tâm, hay chặt đứt tất cả chướng nạn. Đế Thích, Phạm Vương đều theo phò trì, khiến cho đến Bồ Tát trọn không thối chuyển, tất cả sự nghiệp thế gian đều tự hiểu biết, cho đến tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả thế giới có thông không thông, có trí không trí, hiền hay không hiền thảy đều quy phục".
Bấy giờ, Đại chúng nghe xong thảy đều muốn dược nghe.Bỗng nhiên, ở nơi đại chúng phát ánh sáng rực rỡ hơn trăm ngàn mặt trời .
Bồ Tát Bảo Đức lại bạch Phật rằng:“Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng này?”.
Phật bảo: “ Đâylà ánh sáng hoan hỷ từ Tâm Trung Tâm sanh ra, ánh sáng này không có hạn lượng, không thể xưng tán, ca vịnh, cũng không ấn khả được. Vì sao vậy?Vì đồng với Chư Phật vô ấn khả, đồng với Như Lai vô sở đắc, và tất cả các tướng cũng đều vô kiến vậy! Hay gìn giữ các căn không xả ly, khiến các Ma không sai sử và thường ngăn các đạo Ma chướng ngại vậy! Do các nhân duyên trên, nên gọi là Tâm Trung Tâm” .
Bấy giờ tất cả Đại chúng đều bạch Phật rằng:“Chúng con đã từng theo Phật tu hành, chưa từng được nghe ca tụng công đức đại oai thần lực như vậy. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà nói Chương cú tu chứng Giác địa, giúp chúng con được thọ trì Pháp này” .
Khi đó, Đức Như Lai bảo rằng: “ Nàycác Thiện Nam Tử! Nay Ta sẽ nói, muốn tu thành Phật thì có mười cách nhất định sau đây sẽ thành tựu.Thế nào là mười?
- Thứ nhất: Trì tâm bình đẳng, nơi Pháp không nghi, nơi Phật sanh tín, sanh lòng thương xót chúng sanh, không đắm sắc dục.
- Thứ hai: Trì giới không phạm, thường nhiếp tâm không nói láo, hay giúp cho chúng sanh đoạn trừ ngã mạn.
- Thứ ba: Không làm ác, không được sát hại, không ăn ác thực (thịt, cá v.v...), thường xét kỹ mình không thấy lỗi của người.
- Thứ tư: Ở nơi các Pháp không sanh phỉ báng, dùng Phật Pháp ngăn ngừa tội lỗi, ở nơi Chư Tăng xem như cha mẹ.
- Thứ năm: Không quên lời nguyện, đối với giàu nghèo có tâm bình đẳng, hay tùy thuận người.
- Thứ sáu: Lời Phật nhớ kỹ, tu các Pháp cần cố giữ gìn, có người cầu xin thì phải dạy bảo, không cần xem xét căn Thượng, Trung, Hạ.
- Thứ bảy: Trì các ấn khế, không được dơ uế, không kết trái thời, không vì khen hay lợi lộc mà kết ấn, không lìa bỏ chúng sanh.
- Thứ tám: Nơi tất cả không tham lam, không đoạt lý làm ác, không dua nịnh ,giữ gìn Phật Pháp như giữ thân mạng, cho đến dẫu đói nghèo cũng không sanh hai lòng.
- Thứ chín: Thường cứu các nạn không được thối tâm, trừ kẻ không chí thành, không được khinh hay phỉ báng Pháp hoặc khiến kẻ khác cũng làm như vậy, thường phải chân thật nói lời mềm mỏng, hay thích việc lành, lòng đầy Từ bi.
- Thứ mười: Diệt trừ các tà hạnh, lòng tin bền chắc không từ laonhọc, trong đại chúng có Thiện trí thức cần nên lễ bái và thường gần gũi. Nếu nơi suối rừng thanh tịnh, tự có phát nguyện rộng cũng không được quên lãng, luôn luôn nhớ niệm, không khởi các tà kiến,.
Như vậy, mười điều khiến người tu trì quyết định được bất thối chuyển, mau đến Bồ đề, thành Bồ Tát, chứng thân Kim Cang không khó”.
Khi ấy,cácvị Bồ Tát nghe Phật dạy xong, đồng bạch Phật rằng:“Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nguyện tu học, cúi mong Thế Tôn lấy tâm Đại bi nói Thần chú này, đệ tử chúng con muốn được thọ trì” .
Phậtbảo:“ Các Thiện nam tử! Lắng nghe!Lắng nghe!Ta sẽ vì các ông mà nói” .
Thời Đức Như Lai dùng Bồ Đề Tâm khế, khiến cả đại chúng tâm không vọng động, mà nói chú rằng :
- Úm- bạt ra bạt ra sam bạt ra sam bạt ra ấn địa lặc da vi du đạt nễ hàm hàm rô rô giá lệ ca rô giá lệ ta phạ ha .
(OM- BHARA BHARA SAMBHARA SAMBHARA INDRIYAVI’SODHANEHÙM HÙM RURU CALE KURU CALE SVÀHA).Ø
¯Thứ nhất, kết Ấn Bồ Đề Tâm Khế:
Trước hết, hai tay hai ngón vô danh co lại để nơi lưng hai ngón giữa, hai ngón cái vịn đầu móng hai ngón út, hai ngón trỏ co lại móc đầu hai ngón vô danh, chắp tay lại để nơi tim tức thành .
Nếu có người kết Ấn khế này, tức được tâm Bồ đề, đầy đủ trí của Bồ Tát, đầy đủ các môn Ba La Mật ở nơi tâm. Tất cả Pháp môn bí mật của Chư Phật và Bồ Tát đều do Ấn này mà thành. Ở nơi tịnh thất, thọ trì Ấn khế này trải qua bảy ngày, tất cả Pháp yếu đều hiện tiền, tất cả Ma đạo, chúng sanh, đạo quỷ thần, đạo ẩn hình dấu thân, trì Ấn khế này tức biết được chỗ ở của họ, khiến không thể biến hóa ẩn dấu được Các Thiện nam tử, nếu được Ấn khế này, vừa khởi niệm liền có mười phương Chư Phật vân tập trên đảnh, khởi niệm tức có mười phương Bồ Tát làm Thị giả, mười phương các Kim Cang theo sai khiến, mười phương Chư Thiên gần gũi cúng dường. Tất cả loài Ma và quyến thuộc bỏ chỗ ở, lại giúp cho Pháp thành tựu, tất cả Tỳ Na Dạ Ca cũng đều lại cúng dường. Các Thiện nam tử! Nếu muốn hàng phục cácMa oán ngoại đạo, trước kết Ấn khế chú 21 biến để nơi tim, đứng thẳng xoay bên trái một vòng; đại địa tức thời rung rinh, tất cả loài Ma liền ẩn trốn xuống đất không dám xuất hiện, nếu có xuất hiện là do Phật thương xót cho phép, tâm không dám oán giận. Người trì chú không được giận dữ, vì như vậy Chư Phật không hoan hỷ, mười phương không yên.Ấn khế này là đầu Chư Phật, mẹ của các Pháp, vua của các ấn, mười phương Chư Phật do đây sanh ra, như Chư Phật Thế Tôn không ai dám vượt qua, cần phải xét kỹ không được lạm dụng, xemviệc lớn nhỏ mà dùng. Nếu muốn trì các Pháp, trước lấyẤn khế này làm đầu.Không có Ấn khế này, các Pháp như không có chủ; dẫu có thành tựu, thân tâm cũng không quyết định, chư Thần không vừa ý, khiến làm các Pháp hay bị chướng nạn, nên thật cẩn thận, không được bất tịnh dùng Ấn.
¯ Thứ hai, Ấn Bồ Đề Tâm Thành Tựu:
Còn gọi là Mười Phương Như Lai Đồng Ấn Đảnh Khế.Trước, lấy hai tay hai ngón giữa xoa nhau phải đè trái, đầu ngón ló ra nơi hổ khẩu, hai ngón vô danh co lại đè lưng hai ngón giữa, hai ngón cái đầu dựa nhau dựa trên lưng hai ngón vô danh, hai ngón trỏ cũng dựa trên lưng hai ngón vô danh đầu dính nhau; hai ngón út dựa nhau đứng thẳng, đầu ngón dính nhau, tức thành.
Nếu các Thiện nam tử, Thiện nữ nhân được Ấn khế này chuyển nghiệp tiêu chướng, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.Hay trì Ấn khế này, được “Văn trì bất vong” (nghe nhớ không quên), các Pháp yếu tự nhiên hiểu biết.Từ trước tới giờ dầu chưa tu trì, khởi tâm làm việc gì đều không sai.Khi trì tụng, có các ngoại đạo và Ma Ba Tuần lại làm não loạn, khởi tâm liền lui.Có cầu việc gì, lấy Ấn khế chỉ đó tức lại, dù cho các loại dùng các pháp biến hóa mê hoặc, kết khế khởi tâm liền hiện nguyên hình.Cần dùng phục tàng trong lòng đất, bảo châu nơi Long cung, kết khế khởi tâm tức thời đem lại.Các Pháp yếu trong mười phương thế giới, trong tâm mong muốn, trong niệm chỉ bảo rõ ràng.Cầu việc nhỏ không quá 3 ngày, việc lớn không quá 7 ngày.Trong mộng Phật tự ấn đảnh, tự hộ công lực.Nếu muốn thấy Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Quỷ thần, Tinh linh v.v… kết Ấn khế nơi mắt chú 108 biến tức thấy, cần phải an nhiên không được sợ sệt khiến thất tâm . Nếu nơi bổn thổ có các tai họa, kết khế chú 108 biến, lấy khế chỉ lên trời viết chữ Phật, tai họa tức tiêu trừ. Nếu trì Ấn khế bị các Ma làm não loạn, chỉ nói tiểu tặc không quá ba lần tức bỏ đi.Tất cả bệnh tật, tainạn ở thế gian đều trừ không nghi, kết khế chú mãn một ngày, bệnh cùi hủi tiêu trừ, trừ không chí tâm. Nếu cần Pháp yếu nơi Long Tạng, kết khế kêu tên Long Vương, không quá một đêm các Pháp tự hiện.Khi thấy được rồi phải gắng thọ trì không được lãng quên.Nếu được,cầnphải giữ bí mật không được truyền cho phi nhân. Cẩn thận! Cẩn thận!Phải biết việc lớn nhỏ mà dùng khế này, việc lớn nên dùng, việc nhỏ chớ dùng, dùng sẽ mất linh nghiệm.Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
¯ Thứ ba, Ấn Khế Chánh Thọ Bồ Đề:
Còn gọi là Nhiếp Thọ Chư Mật Môn Khế, hay còn gọi là Đảnh Luân Khế.
Trước lấy hai ngón vô danh để ló đầu nơi giữa hai ngón trỏ và ngón giữa.Đầu hai ngón trỏ và hai ngón giữa dựa nhau, đầu bằng nhau, hai ngón cái vịn tiết trên hai ngón giữa, hai ngón út đứng thẳng, đầu dựa nhau, chắp tay lại tức thành .
Các Thiện nam tử, muốn trì tâm pháp của Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, tùy theoẤn này khởi niệm tức được Trí Bất Động biến khắp mười phương. Là Thánh không phải Thánh, là Ma không phải Ma, cho đến các Thiên Tiên, Tứ Thánh quả, Đại Quỷ Thần v.v... đồngthời ấn Bổn Tôn tức được khế hợp. Tất cả sự nghiệp nơi thế gian, phải hay không phải, do Ấn này đồng tâm Phật không khác.Vì sao vậy? Vì được Tam muội của Chư Phật, các Bí tạng của Chư Phật, đều do Ấn này nhiếp hết; các Phật Đảnh Luân cũng do đây mà thành; các Kim Cang cũng do đây mà an trụ; tất cả chúng Thánh đều lại quy y; tất cả các ác đều hướng thiện và đều tự nhiếp tâm vậy; tất cả các chướng tự nhiên tiêu trừ; Thiên Ma Ba Tuần tự nhiên hàng phục; Lõa hình ngoại đạo tự biết xấu hổ; tất cả Long Tạng tự nhiên khai mở; tất cả các Thần phục tàng tự đem ban cho; Long Vương bảo châu tự nhiên xuất hiện; Diêm La Thiên Tử, Ngũ đạo thần quan tự lại sám hối. Tất cả các Pháp không hiện tiền do Ấn này tự nhiên hiện tiền; tất cả các Pháp môn hoặc thuận hoặc nghịch của Phật, Bồ Tát tự nhiên hiểu biết; tất cả oai quang của Chư Bồ Tát không che được thân hành giả vậy; việc nhỏ hay lớn cầu nguyện đều được. Nếu có kẻ trai lành, người gái tín được Ấn khế này thọ trì, trước phải tịnh tâm không cho tán loạn, thường ở nơi Định, trước thọ Tam quy và các Tâm giới, sau kết ấn khế này. Ngay lúc đó, Địa thần ở mười phương bưng lư hương cúng dường hành giả.Đế Thích Phạm Vương hiện ra trước mặt, nói rõ các bổn nguyện giữ gìn.Các Đại Thần Vương ở hai bên làm chứng minh.Quán Đảnh Luân Vương và các Thần Chấp Kim Cangởtrước sau, tay cầm phất giữ gìn hành giả. Các Đức Như Lai ở mười phương phóng bạch hào quang chiếu thân hành giả.Các Kim Cang Tạng ở trên hư không mưa các hoa báu an ủy hành giả.Trong hào quang có Hóa Phật cầm ấn Đại Pháp Luân, hành giả được ấn đảnh rồi, các môn Phật Pháp đều tự hiểu biết.Nếu muốn kết Ấn khế này, thiêu ba thứ hương, một là Đàn hương, hai là Huân Lục hương, ba là Trầm hương, mỗi khi thiêu hương, ba đời Chư Phật đều hiện trước mắt. Muốn triệu Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Thiên Địa Thần kỳ, Nhật nguyệt Tinh tú, Ngũ đạo phù quan, Tư mạng Tư lục, kết Ấn khế này chú 21 biến, vận tâm khắp mười phương làm ba lần, tất cả đều đến. Nếu muốn triệu mười phương các Thần Bảo tàng, Long Tàng, Phục Tàng, kết Ấn chỉ lên trời, liền hiện trước mặt. Nếu muốn sai khiến Thần quỷ, Kim cang, Thiên Thần, Bồ Tát, cho đến tất cả các bậc có đạo lực, kết Khế để nơi miệng đọc thầm 7 lần hoặc 21 lần, tức thời hiện tiền tùy ý sai sử. Mỗi ngày không luận đêm ngày sáng chiều, kết Khế tụng 1000 lần, mười phương Như Lai tức hộ công lực. Các loại Nội đạo, Ngoại đạo, các loại có Pháp thuật làm huyễn hoặc, muốn phá khởi tâm tức phá.Tất cả các loại tật bệnh, dùng tâm Đại bi mà cứu hộ đều được trừ lành. Có các bệnh khổ lại cầu cứu, không cần đi, chỉ kết Ấn khế miệng bảo:“Hãy đến bên bệnh nhân” tức có Thánh giả tự biến hóa thân lại mà trị. Muốn dùng Pháp này cần phải nén hơi thì thầm, không được bất tịnh dùng Pháp, nếu có bất tịnh các Pháp không thành.Nếu các ấn Pháp trì lâu không thành, kết Ấn khế này ngày tụng 1000 lần, không quá 7 ngày tức thành tựu. Không được tiết lộ, nhớ lấy, nhớ lấy, không được truyền phi khí nhân.Cần khổ luyện qua 21 ngày, được thành Phật, Bồ Tát .
¯ Thứ tư, Như Lai Mẫu Kheá:
Còn gọi Kim Cang Mẫu, còn gọi Bồ Tát Mẫu, còn gọi Chư Phật Trí Mẫu, Chư Pháp Mẫu, Chư Ấn Mẫu, Tự Tại Thiên Mẫu, còn gọi Khế Trì Mẫu, Tổng Trì Mẫu.
Hai tay chắp lại, hai ngón út trong lòng bàn tay, hai ngón trỏ như câu hai đầu ngón út, hai ngón cái áp lên lóng giữa hai ngón trỏ, hai ngón vô danh đứng thẳng đầu dựa nhau, hai ngón giữa đặt lên lưng hai ngón vô danh, đầu bốn ngón bằng nhau, chắp cổ tay lại tức thành.
Ngồi Kiết già phu, tụng Chú nho nhỏ tức linh nghiệm.Nếu có kẻ trai lành, người gái tín muốn trì Ấn khế này, tâm niệm mười phương Chư Phật 7 lần, sau đó kết Ấn. Ngày Rằm kết Ấn tụng vạn biến, mười phương thế giới tất cả tự tại Pháp môn tức thời hiện tiền, cho đến ba mươi ba cõi trời cần đến, tức đến không sai khác.Chư Phật trường sanh ta cũng trường sanh.Chư Phật thành đạo, ta cũng thành đạo.Chư Phật vô ngại, ta cũng vô ngại.Chư Phật hóa thân, phóng quang, tịch định, tam muội, thuyết pháp, không ăn, thì ta cũng hóa thân, phóng quang, tịch định, tam muội, thuyết pháp, không ăn; cho đến tất cả việc gì Chư Phật làm, ta cũng có thể làm như vậy.Vì sao thế?Vì ở trong tám loại Mẫu và tám tự tại, Chư Phật thường nói tám tự tại.Ta cũng từ trong đó mà ra không khác. Khế ấn này hay nhiếp lực tự tại trong tám phương, mỗi mỗi phương giới đều có tám tùy tâm. Tám loại như sau: Một Tùy tâm biến hóa, hai là Tùy tâm từ bi, ba là Tùy tâm cứu khổ, bốn là Tùy tâm thuyết pháp, năm là Tùy tâm tự tại thuận nghịch, sáu là Tùy tâm Nhiếp chư yếu khế tự lai tương trục, bảy là Tùy tâm mà tất cả độc ác khiến đều hướng thiện cho đến thành Phật không thốùi chuyển, tám là Tùy tâm mà tất cả quả báo phước đức ở nơi thế gian cần cho thì cho, cần bỏ thì bỏ cần tu thì tu, muốn thành tức thành, muốn phá tức phá. Này Thiện nam tử, như vậy trong các loại Tùy tâm, mỗi loại đều có trăm ngàn việc tùy tâm không thể nói hết.nếucó cầu việc gì sáng chiều kết Khế ấn mà cầu đều, nếu không như vậy Chư Phật tức vọng ngôn. Nếu có kẻ trai lành người gái tín muốn trì Ấn khế này, cầu Phật vị, cầu Bồ tát vị, cầu Kim Cang vị, Thiên thần vị, cầu hiện mười phương, cầu sanh Tây phương, cầu sanh hạ phương, cầu sanh trong mười phương tự tại, cầu trí thế gian biện luận giỏi v.v… chỉ cần chí tâm suy nghĩ việc đó,ngàytụng 1000 biến, trong bảy ngày tức được một lần ra khỏi, không có trở lại. Vì sao vậy?Vì đồng thân Phật được Phật thần thông, vì đồng tâm Phật được Phật từ vậy, vì đồng Phật nhãn thấy như Phật, vì đồng Phật lực được Phật giữ gìn, vì đồng Phật hành ở nơi thế gian, vì đồng Phật ấn gần gủi lãnh thọ, vì biến hóa đồng với Chư Phật, vì được Pháp thân nên chư Ma Ngoại đạo tự hàng phục; lấy gì hàng phục? Thấy hai thân tức thấy một thân, thấy hai Phật tức thấy một Phật.Thiện nam tử! nênbiết Khế này chỉ Phật với Phật mới có kẻ nhớ trì, không phải kẻ sơ tâm, không phải Kim Cang. Phật chỉ cho Khế này, không phải là kẻ hạ căn vậy.Thiện nam tử, nếu đem Khế này mười phương thế giới các chỗ thông linh, không có gì không biết, không gì không nhiếp thọ được, không ai không đảnh lễ, không ai không theo, không ai không ủng hộ. Mười phương Như Lai thảy đều ấn khả, làm cho trăm ngàn hằng hà sa số thế giới, đại địa thảy đều tràn ngập, núi Tu Di nát như bụi, chỉ có Phật thân là không thay đổi. Nên biết Khế này Chư Phật nắm giữ, nếu có Bồ Tát không từ nơi Phật thọ Khế này mà biết là điều vô lý, hết cả thế giới Chư Thiên không thể thấy nghe được.Vì sao vậy?Vì chư Phật cho không vậy!
Thiện nam tử! Nên biết Khế này có vô lượng lực.Nếu hay chí thành, trì qua ba ngày, đại địa chấn động như Phật ra đời, ánh sáng mặt trời mặt trăng tự nhiên lumờ.Vì sao vậy? Vì do oai lực của Khế. Thiện nam tử! Kết Khế ấn này của Ta, mọi việc làm Ta chỉ là phụ thuộc; đồng như tâm Ta, Ta cũng chỉ phụ thuộc; đầy đủ Đại từ bi, Ta cũng chỉ là phụ; trưởng dưỡng Pháp tánh, Ta cũng chỉ phụ thuộc; hay độ chúng sinh cho đến Bồ đề, Ta cũng chỉ phụ thuộc; y theo kinh giáo nhớ nghĩ nơi tâm, Ta cũng chỉ phụ thuộc; hay vì chúng sanh làm việc quyết dịnh, Ta cũng chỉ phụ thuộc; hay khiến chúng sanh tu hành giới hạnh, đối với chúng sanh làm các chế ước (điều kiện giao hẹn) khiến không dám sai, Ta cũng chỉ là phụ thuộc. Thiện nam tử! Nên biết Khế này, trì tụng trăm lần đưa lên đến đầu tức hay phóng quang, vì Khế này là tâm Như Lai.Kết Khế, trì trăm biến tự được tâm Phật. Nên biết Khế này là mắt Như Lai, trì Khế trăm biến đưa để nơi mắt trái tức thấy như Phật, đưa để nơi mắt phải tức thấy như Bồ Tát, đưa để giữa chân mày tức thấy như thần thông Kim Cang bất hoại. Thiện nam tử! Nên biết Ấn này là thần thông biến hóa của Như Lai, kết Khế trì trăm lần để đùi bên trái tức đồng vô biên thân Như Lai, ở trong thân quán thấy chúng sanh đầy đủ tự tại. Đưa Ấn nơi đùi phải, tức chuyển đại địa vào trong thân.Thiện nam tử! Nên biết Ấn này là Như Lai thần túc vô ngại, kết Ấn khế trì trăm lần trên dưới tám hướng, tức thời xuất hiện đều không quá bảy bước, nên biết Khế này đồng Như Lai ngữ. Trì Khế trăm lần để nơi miệng khi nói Pháp yếu, đồng như Phật nói, tất cả đều hợp khế kinh, nên biết Khế này là Như Lai đảnh luân.Trì Khế trăm lần hay vì ác nghiệp chúng sanh làm đại phước điền, làm thiện nghiệp chúng sanh chứng quả Thọ ký. Nên biết Khế này, giả sử Chư Phật đồng thời ra đời, thần lực cũng như Chư Phật, vì thế Khế này không thể nghĩ bàn. Nếu tu trì cần phải trân trọng, không được truyền cho phi khí nhân.Vì sao vậy?Vì Ta tự bảo hộ.Nếu truyền cho phi khí nhân tức đồng phỉ báng Ta, nếu phỉ báng thì làm sao mà được xuất ly; nếu không xuất ly, làm sao thấy và nghe được danh hiệu mười phương Chư Phật, làm thế nào thấy được Pháp thân Chư Phật, vĩnh kiếp không được Chư Phật hộ niệm; một khi đọa vào Địa ngục, mười hằng hà sa kiếp mới được ra khỏi, khi ra khỏi Địa ngục phải qua trăm ngàn kiếp làm thân đui mù. Cho nên, phải biết Ấn khế này cần trân trọng tu trì không dùng bừa bãi.Thọ pháp Sám hối, trừ nạn cứu khổ, nhiếp chướng, độ người, hàng ma, chế độc mới dùng, việc nhỏ dùng Pháp này không thành tựu, tức thất nghiệm. Nếy thường y như trên mà làm, tức tự thành nghiệm.Giả sử Ta có nói rộng hết nghĩa lý bao trùm khắp đại địa cũng không thể nào hết được .
¯ Thứ năm, Ấn khế Như Lai Thiện Tập Đà La Ni:
Còn gọi là Nhiếp Nhất Thiết Bồ Tát Khế, hay còn gọi là Nhiếp Nhất Thiết Kim Cang Tạng Khế, Pháp Thân Khế, Tập Nhất Thiết Đà La Ni Thần Tạng Khế, Tập Nhất Thiết Oai Lực Tự Tại Khế.
Chắp hai tay lại, hai ngón giữa phải đè trái xoa nhau trong lòng bàn tay, hai ngón cái trái đè phải vịn ngón giữa như cái vòng, hai ngón vô danh, hai ngón út đứng thẳng đầu dựa nhau, hai ngón trỏ vịn hai ngón vô danh vặn tiết trên tức thành.
Nếu có kẻ trai lành, người gái tín muốn trì Khế này, nơi sớm chiều chí tâm xưng niệm Chư Phật trong ba đời, mặt ngó mười phương nói Pháp Tam Quy, súc miệng rửa tay cho sạch sẽ, sau đó kết Ấn, bế tâm tịnh tọa, trong tâm tự biết lời của Chư Phật trong mười phương, một lòng nhớ nghĩ chứng Chư Phật tâm, lời lẽ Chư Phật từ đó mà ra, biến khắp thế giới chỗ có các Đà La Ni Pháp môn, hết thảy Đà La Ni thần, trăm vạn ức Kim Cang Tạng Vương, trăm vạn ức thế giới Bồ Tát Ma Ha Tát và Chư Phật Đà La Ni, Long Tạng, Nhật Tạng, Nguyệt Tạng, Địa Tạng, A Tu La Tạng, Phục Tạng, Bảo Tạng, Chư Phật bí mật cho đến tất cả Tạng Từ bi của Chư Phật đều tự khai mở trước mắt, biến khắp mười phương thế giới chỗ có các Tạng Đà La Ni tự nhiên hiểu biết; hiểu biết xong thời tất cả các Pháp Đà La Ni lấy dụng không ngại. Thiện nam tử! Nếu muốn thọ trì Pháp này cần đốt Đàn Hương, Huân Lục Hương, Trầm Hương v.v… y phục sạch sẽ, xong phát thệ rằng: “ Connay thọ trì Pháp ấn này là vì tất cả chúng sanh". Phát lời thệ xong tức kết Ấn trì đến 108 biến, tất cả Chư Phật hóa làm trăm bách ức Thần cầm các khí trượng cùng các quyến thuộc vi nhiễu người trì chú; trăm ức Thần quân, trăm ức Quỷ quân, cùng chư Thiên tiên thảy đều tự tập hỏi rằng:“Có cần sai sử điều gì, ta sẽ làm cho không dám trái”, chỗ cần làm đều được. Nếu chỗ cần các thất bảo, các Pháp ẩn hình và dùng Pháp giáo hóa tứ thiên hạ có đại oai lực, các vị trên đều tự nhiên thuận phục.Nếu không thuận, dùng Khế chỉ đó, tức trên Khế hóa ra binh chúng cầm lửa biến khắp mười phương thế giới, các binh chúng thân cao lớn vi nhiễu, Vua Chuyển Luân Vương dùng Ấn này thống trị thiên hạ. Muốn được Pháp tạng, trì Ấn để nơi timtức có Trì Đà La Ni Vương vì nói Pháp yếu tự nhiên hiểu rõ. Muốn hàng phục ác thú, dùng Khế chỉ đó, tức thời trên Ấn có năm con sư tử xuất hiện, ác thú tự nhiên quy phục.Xưa Như Lai ở Ma Ha Đà La quốc, dùng Ấn này hàng phục voi điên Hộ Tài.Nếu muốn dời đổi núi non, kết Ấn khế chú 1000 biến, dùng Ấn chỉ núi ba lần chỉ đất ba lần, tức thời Địa Tạng và Kim Cang Tế từ dưới núi vọt lên, đem núi dời qua phương khác mà tất cả chúng sanh không hay biết, Như Lai phóng quang động địa là dùng Ấn khế này. Nếu có tai họa, tật bệnh lưu hành, mưa gió sấm sét, mưa đá v.v… muốn dứt, kết Ấn chú 7 lần, luân chuyển ba vòng, các tai họa đều diệt . Nếu trì các chú lâu ngày không linh nghiệm, nên kết Ấn này để nơi đảnh đầu, tức được tối thắng thành tựu không nghi.Các Thiện nam tử, NhưLaithần lực do đây mà có, Như Lai Khế ấn Pháp do đây mà ra, quá khứ Chư Phật Pháp Tạng cũng do đây mà tập, Chư Phật nhiếp phục Bồ Tát, Kim Cang thần lực, Chư Thiên tiên, tất cả ngoại đạo để làm phục sự đều dùng Ấn khế nầy. Nếu tất cả các Pháp của chúng sanh không hiểu được, kết Ấn chỉ nơi tâm kẻ kia tức hiểu rõ Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang làm các việc thần thông, người không biết được đều dùng ấn khế này. Chứng đắc Đà La Ni, làm chấn động Tam Thiên thế giới không do Ấn khế này mà được là điều vô lý. Các Khế ấn trì tụng phần nhiều bị khuyết phạm, đắc Khế ấn này không lo khuyết phạm, không sợ mất Pháp, tất cả các Thánh trên từ Chư Phật dưới đến các loại ẩn hình biến hóa đều lại cúng dường.Nếu trì Ấn này, thần lực cũng bằng Chư Phật, nếu người tu Vô Thượng Bồ Đề dùng đó tức có oai lực.Không được truyền cho kẻ tiểu tâm tham lam, có truyền cũng vô dụng lại khởi lòng phỉ báng. Thiện nam tử, nên biết Ấn này là thân Chư Phật hay nhiếp các Pháp tự thông rõ vậy, nên biết Khế này là thân Như Lai hay nhiếp các Thánh lại ủng hộ, nên biết Khế này là Như Lai tâm nhiếp các Pháp tạng tại nơi ý, nên biết Khế này là Như Lai thân hay nhiếp Bồ Tát Kim Cang giúp đỡ thế gian, nên biết khế này là Như Lai thân hay nhiếp tất cả đại thần lo việc thế gian Với Ấn khế này ta chỉ là phụ thuộc, Khế ấn này tẩy rửa tay của chúng sanh hạ tiện vì các chúng sanh là do Bồ Tát dạy dỗ đắc thọ ký Bồ Đề, Ta chỉ là phụ thuộc. Lành thay!Lành thay!Thiện nam tử, đừng nói Chư Phật cũng do thân tâm dục, đừng khinh Ấn này, cần nên hộ trì. Vì sao vậy?Vì Chư Phật không làm hạnh dâm dục.Chư Phật Bồ Tát không có dâm dục, nên biết Khế này đồng với Chư Phật.Nếu trì Ấn khế này, từng tạo nhân đọa vào địa ngục liền khiến chúng sanh nhớ niệm tức được sanh Thiên, không có một ai phải chịu tội khổ.Như Lai Thích Ca thị hiện bệnh vào địa ngục cứu chúng sanh, thường dùng Khế ấn này vì không có Khế ấn nào bằng.Nếu Ta nói kiếp kiếp không ngừng nghỉ cũng không thể nói hết được.Nên nhớ lấy!Nhớ lấy!
¯ Thứ sáu, Ấn khế Như Lai Ngữ:
Còn gọi là Sắc Lịnh Chư Thần Khế, Sắc Lịnh Ma Vương Ngoại Đạo Khế, Văn Trì Bất Vong Khế, Tuyên Thuyết Chư Mật Môn Khế, Đồng Nhất Thiết Chúng Sanh Ngôn Âm Khế, Nhất Thiết Nghịch Thuận Nhi Thuyết Vô Năng Giá Khế .
Chắp hai tay lại nơi ngón vô danh, hai ngón út xoa nhau trong lòng bàn tay, dùng hai ngón cái, trái đè phải vịn nơi móng hai ngón vô danh và hai ngón út, hai ngón giữa đứng thẳng, hai ngón trỏ đứng thẳng hơi cách 2 phân .
Nếu kẻ trai lành, người gái tín được Ấn khế này hoặc thấy hoặc nghe, tất cả tội chướng nơi thân đều được tiêu trừ, các Pháp yếu hoặc không phải Pháp yếu nói ra đều thành sự thực, lời nói ra sắc triệu các việc khắp mười phương thảy đều nghe biết, trong tâm có cần Pháp gì miệng chỉ cần nói ra: "Ta cần Pháp này,cầnlực này, cần báu này, cần thuốc này, cần món ăn này". Tất cả các việc cần chỉ tịnh tâm kết Ấn tụng chú 1080 biến, chỗ cần các thứ tức thời chư Thần tự đem đến dâng; cho đến ba mươi ba cõi Trời nghe lời nói cũng như Chư Phật nói đều lại cúng dường. Các loại Dạ Xoa, La Sát, Quỷ thần ở mười phuong nếu có tâm độc hại, nghe lời nói tâm độc tức trừ, tự lại cầu xin phát nguyện rộng lớn:“ Chúng con xin nghe theo lời Phật không dám làm ác”. Hạ phương thế giới các Kim Cang tạng nghe lời nói, đem tòa Kim Cang dâng lên để người trì tụng ngồi lên trên đó.Duy Ma Cật lấy Kim Cang tọa ở Đông Phương dùng Ấn khế này, Như Lai Đa Bảo cũng dùng sức của Ấn khế này mà từ dưới đất vọt lên, nói gì đều được không có sai chạy.Vì sao vậy?Vì lời nói của Chư Phật biến khắp mười phương, nay lời nói đây cũng đồng với Chư Phật không khác, dùng lời nói quyết định như Chư Phật vậy. Các Pháp nói ra đều không sai lầm, nhớ nghĩ không mất cũng như Chư Phật, nói ra điều gì chúng sanh nghe được đều hiểu rõ ràng, nói đúng nói sai các chúng sanh nghe thảy đều tin theo như nghe nói Pháp, dạy bảo việc gì chúng sanh nghe theo không có quên, dầu có nói bậy chúng sanh cũng nghe như Chánh Pháp mà hộ trì. Nếu có chúng sanh nào bị thất tâm thất niệm muốn chết, Chân ngôn của Ta giúp được lại bổn tâm, khiến được chánh định, chỗ tu các pháp yếu khiến các chúng sanh ưa nghe, lời lẽ nói ra không có vượt bực. Thiện nam tử! Nếu trì Pháp này mãn 100 ngày, tất cả ngôn âm thảy đều hiểu biết, nếu hay chí tâm mà không hiểu được thì Chư Phật tức vọng ngôn.Nếu Ta nói lực của Ấn khế này không thể so sánh, không thể nói hết cho đến tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai, các Thánh cũng không thể biết được sức của Ấn khế này, trì tụng tự biết lấy. Tất cả việc đều từ trong tâm Khế này mà sanh, không được dùng bừa bãi.Nhớ kỹ, nhớ kỹ! Chúng sanh sơ tâm không được cho thấy Ấn khế này, việc nhỏ cấm dùng, nếu dùng khiến mất nghiệm".
Khi Đức Thế Tôn nói Pháp này xong, tất cả Bồ Tát, Kim Cang Tạng Vương cùng các quyến thuộc đều muốn thọ trì Pháp này.Tất cả thiên địa, đại trắc nhật, nguyệt, tinh tú đều mất ánh sáng, tất cả Thần linh tự nhiên tiêu mất.Phật thấy như vậy liền khẽ mỉm cười, dùng Ngữ khế chỉ mười phương giới Thiên địa đại minh, thời các Bồ Tát tự hiện thân hình, mỗi khi cất bước, trời đất rung rinh không đứng vững được, dùng hết thần lực cũng không dừng được .
Bấy giờ, Như Lai liền lại nơi tòa ngồi, hỏi cùng Đại chúng: “ Để Ta dùng Khế ấn nầy xem sao”, tức duỗi tay trái bốn ngón đưa về phía trước, ngón cái để nơi lòng bàn tay, tay phải cũng như tay trái để nơi vế phải, tức thời đại chúng và đại địa trở lại bình thường .
"Lành thay!Các ông nên biết, thần lực của Chư Phật là không thể nghĩ bàn, tâm các Bồ Tát được an ổn, được các Pháp, có chỗ gia trì, nếu không như vậy, dầu có tu hành cũng chẳng được gì".
Bấy giờ, Bồ tát Bảo Đức bạch Phật rằng: “ BạchThế Tôn! Khế ấn này gia trì như thế nào?Sao Ngài không nói ra, nếu không nói ra thì cũng như có bệnh mà không có cách cứu chữa".
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Đức Tạng rằng: “Định ấn này của Ta, tất cả Chư Phật do đây được Định. Từ xưa đến nay, chỉ có Chư Phật mới có Khế ấn này, còn tất cả Chư Bồ Tát Kim Cang không có, nếu có tức đồng với Chư Phật. Sức Định lực này không có lời nào nói hết được, vì không nói hết được nên các Pháp cũng không thể nào nói cho hết được, không ai nói được, không ai hiểu được, chỉ Ta mới hiểu được thôi, chỉ có quá khứ Chư Phật là hiểu được; nếu có Bồ Tát mà hiểu được tức đồng với Chư Phật không phải là Bồ Tát ”.
Lúc Như Lai nói lời này xong, phương dưới có một vị Bồ Tát tên là Vô Ngại Thông từ dưới đất vọt lên trước Đức Phật buồn rầu ngồi yên, bảo tọa cũng không có, ngồi mà thở dài không xưng tán Phật khiến đại chúng rất là kinh quái, đều đồng hỏi Phật. Phật đáp rằng: “Để Ta sẽ hỏi”, liền bảo Bồ Tát Vô Ngại Thông: “Ông nay sao lại thở dài? “ .
Thời Bồ tát Vô Ngại Thông vui vẻ, tòa báu xuất hiện oai quang rực rỡ chiếu khắp Đại chúng, từ tòa bước xuống sửa y áo đến trước Phật bạch rằng: “Con ở nơi phương dưới, nghe Phật nói Tâm Trung Tâm và các Ấn khế vui vẻ thọ trì được thần thông này, nay lại nơi đây. Lành thay!Đức Thế Tôn, xin chứng biết cho con ”.
Phật bảo: “ Tasở chứng cho ông nên cứu giúp chúng sanh, chỗ thấy biết đều ban cho họ. Ta sẽ đem Phật tâm ban cho, nếu được Phật tâm ban cho tức là Mạn Đà La” .
Bồ Tát Vô Ngại Thông bạch rằng: “Thế Tôn! Người chưa thành Phật, người không quyết định, người nhiều ràng buộc, người không Từ bi, các hàng như trên có vào được không?” .
Phật bảo: “ VôNgại! Nay Ta nói Pháp chỉ vì hàng hạ liệt, các hàng như trên muốn vào được Mạn Đà La, trong ngày làm Đàn có ba viện , không cần đồ cúng, chỉ cần hương thơm; 3 cây kích, nếu không có kích dùng 3 cây đao thay thế; 3 chén nước thơm; 3 mặt kiếng; chu vi Đàn 8 thước . Viện thứ nhất màu trắng, viện thứ hai mà đỏ, viện thứ ba màu xanh y như 5 phương pháp.Viện thứ nhất cầu Phật, viện thứ hai cầu Bồ Tát, viện thứ ba cầu Kim Cang.Ngoài ra các Thiên tiên quỷ thần, các Pháp ở nơi ngoài Đàn mà cầu, cử tâm đắc thành, không cần nhiều ngày đã có hiệu nghiệm; không được truyền ấn; có công hiệu nên cố gắng, cần phải tinh tấn các Pháp tự nhiên chứng được ".
Bấy giờ Đại chúng bạch với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Pháp khế này do đâu được trì, được hoán đảnh, được gia hộ, hay các thần thông biến khắp mười phương, khiến tất cả đều quy phục, hay khiến các Pháp tự nhiên hiện tiền, chỉ có người ở nơi Phật tu trì Pháp này mà được, các người như trên Phật tự chứng biết, nay chúng con cũng muốn thỉnh làm nơi quy y ".
Phật bảo: “ Cácông hãy chờ trong chốc lát sẽ thấy.” .
Tức thời Đức Phật ở nơi tự tâm kết trì Ngữ Khế, bảo khắp mười phương Phật Tâm Trung Tâm rằng: “ Cácông mau lại, Đại chúng muốn được thấy” .
Bấy giờ, Bồ Tát Đa La dẫn Bồ Tát Tam Khế và các quyến thuộc trước sau vinhiễu, từ phương Đông biến thân làm Phật mà lại, tất cả Đại chúng thành tướng Bồ Tát hiện ra trước Phật. Bồ Tát Kiên Ý từ phương
Bấy giờ, Như Lai bảo Đại chúng rằng: “ Nhưvậy, các vị đã đến từ nãy giờ có đáng làm Thầy các ông không? Các vị này đều thừa Phật lực, có đại thần thông không bao lâu sẽ đuợc thành tựu” .
Đại chúng không một ai lên tiếng.Phật bảo :“Lắng nghe! Ta sẽ gọi một người khác” ;liền gọi rằng: “Nầy đồng tử Quang Minh! Hãy đến đây!”.
Bấy giờ, đồng tử đang ở tại núi Tuyết Sơn, nghe Phật gọi tức thời liền tới nơi Đại chúng.Đại chúng nói rằng: “Phật gọi ông tới, vậy còn quyến thuộc ở đâu?” .
Đồng tử đáp rằng: “ Tấtcả các ông đều là quyến thuộc của ta”.
Đại chúng hỏi rằng: “Chúng ta cùng ông không từng biết nhau, tại sao bảo chúng ta là quyến thuộc?” .
Bấy giờ Đồng tử mật trì Ấn khế chỉ nơi đại chúng, ngoại trừ Hóa thân của Phật, còn tất cả chúng Bồ Tát thảy đều đảnh lễ Đồng tử, khiến Đại chúng đều không hiểu tại sao. Tứ chúng lễ xong thưa rằng :“Nay chúng tôi xin thỉnh Ngài làm Thầy” .
Đồng tử đáp rằng: “Như Lai Ngữ khế chân thật không hư dối, các ông nên thọ trì sẽ được như Ta không khác” .
Thời tất cả Đại chúng đồng lời bạch cùng Phật rằng: “Đồng tử này tu pháp Khế lâu chưa, mà nay có đủ thần lực nhiếp Đại chúng ở đây?” .
Phật bảo: “Các ông lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà nói nhân duyên này: Khi xưa, lúc Ta ở núi Linh Thứu tu hành, thường có nhiều loại ác thú muốn ăn thịt. Khi đó, ở trong Định, Ta nhớ lại Thầy Ta là Như Lai Không Vương có nói một câu chú, chỉ tụng một biến, tất cả các loại trùng thú độc ác đều được Phật tâm không có làm hại. Ta lại niệm tiếp, thời tất cả các loại ác trên đều được giới Bồ Tát, thảy đều ăn rau cỏ. Sau đó có một Đồng tử đến lo lắng cung cấp thừa sự cho Ta một đêm, và trộm được chú này.Sáng ra, Đồng tử từ giã Ta mà đi, sau 7 ngày được đại thần lực.Sau đó, gặp Ta lại muốn dùng thần thông nhiếp phục Ta, hai ba lần không được.Các ông nên biết, trộm Pháp mà còn có được thầøn thông như vậy, huống là được công khai thọ học“.
Đại chúng nghe Phật nói, thảy đều mong muốn được như Đồng tử có đại oai thần lực tự tại.Phật bảo: “ Qua7 ngày sau, các ông sẽ được, trừ kẻ không có lòng tin”
Bấy giờ, có một kẻ ngoại đạo ẩn hình vào trong Đại chúng, Phật biết mà không nói ra.Kẻ kia muốn dùng Ấn khế này để hàng phục các vị Bồ Tát, vì khởi tâm ác nên lúc đang kết Khế, thân tâm bị thiêu đốt, các Pháp đều mất hết. Nên biết Pháp này không được vọng truyền, tất cả sự nghiệp đều tùy ý, chỉ trừ có lòng ác, lòng ganh tỵ tức không thành, bằng không quyết chứng không sai''.
“Lành thay!Bạch Thế Tôn! Xin nguyện ấn khả, nguyện cho chúng con, mau được thân Phật, sớm chứng quả Phật!”
Khi đó, Như Lai vì muốn ấn khả cho tất cả Đại chúng, liền dùng chánh thọ Bồ Tát Khế 3 lần, chỉ khắp mười phương, tức có gió đen thổi đến làm tất cả các vị Bồ Tát đều lăn nhào xuống đất. Khi các vị xuất hiện, tức có mây đỏ xuất hiện, mưa các thứ hương thơm Chiên Đàn, lại tuôn nước thơm tắm khắp Đại chúng.Đại chúng được tắm xong, đều được thần thông tự tại, được tự tại rồi tức tu Pháp này, trải qua 7 ngày đều chứng thân Phật.Do oai lực của Khế này, Phật sắp nhập Niết Bàn, các Hóa Phật dâng cúng dường. Đại chúng được nghe lực của Khế này, tất cả đều cùng nhau tán thán công đức của Phật.
Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi và các Bậc Pháp Vương dùng thần lực báo khắp mười phương, tán thán Đức Phật .
Tức thời Như Lai lại nói kệ rằng :
Bấy giờ Đại chúng nghe Phật nói Pháp xong, thảy đều vui vẻ làm theo và đồng lễ Phật mà lui ra .
PHẬT TÂM TRUNG TÂM ẤN
Mật Tạng Bộ 2 .
No- 920b( Tr.08- Tr.15 )
Quyển Hạ
Phẩm Trung
Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi phụng chiếu dịch Phạn ra Hán.
SaMôn Thích Quảng Trí dịch Hán ra Việt văn.
Lúc bấy giờ, A Nan đang ngồi trong Đại chúng, bỗng nhiên buồn rầu bức rứt, tất cả kinh Phật tự nhiên quên hết.Tất cả chư Đại Kim Cang, chư Đại Bồ Tát, Linh thần trong thế giới cho đến các Thần, Tiên, Rồng, trăm ngàn vạn ức thế giới Tứ Thiên Vương, Phạm Thiên Đế Thích đều bị mờ mịt, tinh quang mất hết. Chỉ có Chư Phật mới biết rõ nhân duyên tại sao có sự việc này, các Ngài đều an nhiên nơi tòa ngồi, phóng ra hào quang tự hiểu nhau .
Khi đó, Đức Tỳ Lô Giá Na ở nơi thân tỏa ra trăm ngàn ánh sáng hào quang rực rỡ muôn màu, ánh quang chiếu cho đến tất cả chúng sanh dầu có tội không tội, khiến được an ổn hết cả sợ sệt.Lại từ nơi trong hào quang nói ra trăm ngàn âm thanh vi diệu bảo cùng Chư Phật rằng: “Này các vị!Oai quang này khó biết được, khó lường được, chỉ có các vị Sức như Ta, tâm Từ, tâm Bi như Ta, Giải như Ta, Trí như Ta, Biện như Ta, cho đến tất cả trong thế giới những người hiểu biết hết mọi việc cũng chưa biết được hết ánh sáng này, do vì đầy đủ nhân duyên mà được tất cả tri kiến” .
Bấy giờ, A Nan ở trong chỗ mờ mịt có được chút ít suy nghĩ đứng dậy hỏi Đức Tỳ Lô Giá Na rằng: “Bạch Thế Tôn!Vậy ánh quang này chỉ có Chư Phật mới biết được sao?” .
Phật bảo: “Thiện nam tử!Chỉ có Chư Phật là biết được, vì các Bồ tát chưa thấy được như Phật.” .
Tức thời, A Nan lễ lạy chân Phật năm vóc sát đất, mắt nhìn xuống, dùng kệ hỏi Phật :
Khi đó, trong hào quang Đức Tỳ Lô Giá Na phát ra tiếng lớn bảo A Nan rằng: “Lành thay Phật tử! Các Bồ Tát vì có từ bi mà không đổi nên không biết được, chỉ vì nhẫn nhục mà không biến nên không biết được, vì thần thông không biến nên không biết được; chỉ có thị hiện, thị hiện không biến nên không biết được; chỉ có vô ngại, vô ngại không biến nên không biết được. Như vậy, tất cả các “bất biến” không biến, các Bồ Tát đều có.Nếu như người mà biết biến, tức đều có thể hiểu biết Phật tánh, tức biết được Ta.Tất cả mọi việc, biết được Phật tánh là hiểu biết tất cả, nếu không làm sao biết được Như Lai Vô lượng xứ “.
A
Phật bảo: “Như ông gần gũi Ta- Phật Thích Ca Mâu Ni, nay hỏi được lời này khiến chúng sanh tự nhiên biết rõ, lấy đó mà phụng trì, tất cả chúng sanh tự nhiên được hiểu những lời Ta nói”
A
Bấy giờ, Đức Như Lai bảo A Nan rằng: “Ta nay sẽ thị hiện các thần lực, các ông cần phải bình tĩnh không được sợ sệt.” .
A
A
Bấy giờ, Như Lai nhập Từ Mẫn Định, chỉ niệm Tâm Trung Tâm chú, niệm xong dùng ngón út tay phải chỉ về hướng Nam, bấm ngón chân cái xuống đất tức thời thế giới phi thế giới, tất cả Địa ngục đều vọt lên hư không, thế giới bên trên mưa hoa sen báu phá nát Địa ngục, không còn một ai phải chịu khổ, các uế ác đều tiêu trừ, được Pháp nhãn thấy các Như Lai, sau lại thị hiện các thế giới, các Đại Dạ Xoa, vua La Sát, Phạm Thiên Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các loài Ngạ Quỷ, A Tu La, Vượng thảy đều đắc thần thông, tức là được Từ Mẫn thiện thông, thương xót chúng sanh đồng như Phật vậy. Lại có Đại thần thông ở trong hư không mưa vidiệu mưa, khiến các loài khởi niệm mong cầu đều được đầy đủ, tật bịnh nặng nhẹ nghe được sức này đều tiêu trừ. Kẻ đói được no đủ, kẻ nóng nảy được mát mẻ, lại có thần thông chỉ trong chốc lát, tất cả chúng sanh thảy đều luận thuyết Phật tâm địa.Lại có Đại thần thông khiến các chúng sanh ở trong thai mẹ hay nhớ biết được quá khứ, tâm địa biết được chỗ sanh ra, biết được mọi việc đã qua, lại có thần thông khiến mười thế giới, tất cả tai họa ác độc vĩnh viễn tiêu diệt. Lại có thần thông phóng ra ánh sáng chiếu khắp thế giới trong mười phương, trong mỗi thế giới đó, Chư Phật Bồ Tát cho đến Thanh Văn, bốn quả Sa Môn đều được sáng rõ không có ngăn ngại, một lúc liền thấy mọi việc khắp tam giới, diệt hết mọi khổ, sống lâu như Phật. Lại có thần thông, ánh sáng hiện ra năm màu, trong mỗi màu sắc có trăm ngàn vạn ức na do tha hằng hà sa hóa Phật, đều đem quyến thuộc, các chúng đại Bồ Tát từ không mà đến, các quyến thuộc kia đều hay luận thuyết các Pháp yếu của Phật Tâm Trung Tâm, đều tự hiểu rõ. Lại có Thần thông, ánh sáng chiếu mười phương cõi nước, làm cho đại địa rung động 36 lần, mặt trời, mặt trăng, sao … thảy đều rơi rớt, chiếu khắp tám phương, tất cả ma và ma dân đều bỏ nghiệp ma, mất hết thần lực, được Phật thông, được Phật thông rồi nhớ lại việc làm, tức cầu xin sám hối, cầu được xuất gia, không một ai có tâm thay đổi. Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Ánh sáng của Thần thông này chiếu khắp thế giới, có đại oai đức, đủ tam minh lục thông và bát giải thoát, y pháp mà tu hành, chỉ trong thân này đắc được Phật quả.Vì sao vậy?Vì Chư Phật tâm đồng thời chứng.Vì chư Như Lai đồng ấn khả.Ta, Tỳ Lô Giá Na là Phật Mẫu thường ở nơi đây giữ gìn, có nguyện cầu tự ấn khả, tự mãn nguyện, tự gần gũi, tự vì tất cả làm Thầy quán đảnh. Có người cầu học, tự lại làm chứng, biết được Phật tâm khiến Chư Thiên đều lại cúng dường, khiến các Bồ Tát Kim Cang Tạng Vương Mật Tích vì đoạn tai biến thường che chở vậy. Lại khiến thiên hạ thường lại vi nhiễu, cho đến trong thế giới tất cả các kẻ hóa hình, biến hình, dấu tích, ẩn tàng thường lại ủng hộ; Phạm Thiên Đế Thích, các Thiên chúng thường lại phục tùng, Bạt Đà Quỷ tử mẫu, ác quỷ thần, các loại phi hành thảy đều thuận phục. Cần y như Pháp, y theo Phật tâm để đắc Phật tâm, cần được chứng nghiệm không dùng Pháp khác, tức hay thành tựu Pháp này.”.
Bấy giờ A Nan bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như vậy tâm Pháp này Phật tự giữ, dùng đại thần thông tức được như vậy, cho đến Chư Bồ Tát Kim Cang chưa đạt Phật hạnh, chưa tới chỗ Phật tức cần phải học, bền vững nhất định không lui sụt tức đắc Bồ Đề, còn như các hạ căn muốn cầu làm sao đến được? Phật lực oai đức rộng lớn khó lường, lao tâm khổ nhọc, nhẫn chịu gian khổ mới thành, nay làm sao có thể khiến cho chúng sanh tu học Pháp này, làm sao được như Pháp, làm sao chứng nghiệm, làm sao thấy hiểu? Sự lo lắng của chúng sanh là như vậy, lấy Pháp nào hiểu được Chánh Tà, lấy Pháp gì khiến cho Ma Vương, các đại ác vương biến quái tự điều phục, lại lấy Pháp nào mau chứng Phật tâm? Con nghe trong Khế kinh nói cần lâu khổ nhọc, đầy đủ các độ mới mong chứng được. Con nay không hiểu, mong Phật vì con mà nói tất cả Pháp yếu, chứng nghiệm thành Phật, chothế gian cùng biết.”
Phật khen A Nan: “Lành thay! Lành thay! Nay ông muốn biết, hãy lắng nghe kỹ, nay Ta sẽ nói.A
Nếu muốn biết tâm niệm của kẻ khác, tâm Phật, tâm Bồ Tát, tâm Kim Cang, tâm Chư Thiên, tâm của bốn quả Thánh nhân, tâm Long Vương bốn biển, tâm vua Trời, tâm của Mặt trời, Mặt trăng, sao, Dạ Xoa, La Sát, tâm tất cả các loại quỷ thần, cho đến tâm của tất cả các loại ẩn hình ấu tích và tâm của tất cả chúng sanh trong thế gian này cùng chỗ suy nghĩ của họ, như trong Kinh Pháp Hoa nói, công đức trang nghiêm của sáu căn thảy đều chứng được. Cho nên, Phật tử, phàm phu, Bồ Tát, Kim Cang … cần nên tu Pháp này, ngoài ra không có Pháp khác.”.
A
Phật bảo A Nan: “ Ôngnên biết, hỏi như vậy là đúng thời, nhưng là điên đảo mà hỏi, nếu không sao lại hỏi như vậy. Tâm Phật là tùy sắc mà sanh, không còn các chấp như chấp Tà, tướng, tự ngã v.v... chỉdo tâm Pháp mà được chân thật tế. A
A
Ta đáp rằng: "Các ông cho Ta là ác nhân nên lấy cỏ bện làm hình người ở nơi góc giếng kia dùng đao mà chặt, thì Ta sẽ chết, không thể nói được các việc làm của các ông".
Khi Ta nói rõ như vậy, các Tiên thảy đều tiều tụy, lại đảnh lễ Ta và hỏi rằng: ‘Thánh giả làm sao biết được?’.Ta bảo các Tiên rằng: ‘"Vì các ông là vọng, Ta là chân; các ông là tà, Ta là chánh; các ông thấy có, ta thấy không ; các ông là nhành lá, Ta là gốc rễ; các ông là hư, Ta là thật; các ông dua nịnh, Ta là chân tín; các ông từ nơi Ta mà sanh ra, làm sao con lại hại cha mẹ được, cành lá làm sao hại được gốc rễ, như hư vọng làm sao hại được chân thật, lửa đom đóm làm sao sánh được mặt trời, nắm đất làm sao lấp được biển, độc dược làm sao tiêu được nước cam lồ, La Sát làm sao hại được Phật thân, con kiến làm sao lay được núi Tu Di" .
Bấy giờ, các Tiên nghe Ta nói vậy rất tức giận, dùng tất cả Pháp thuật bao vây Ta để đấu lực.Khi đó, trong phút chốc Ta thầm niệm trong tâm, thổi một hơi lên trời tụng chú 7 biến, mây đen bao phủ cả hư không, mặt trời mặt trăng mất hết ánh sáng, tinh tú biến mất ; ta lại thổi nơi đất, tức thời đất lung lay không vững. Trải qua 7 ngày, Ta lại dùng tâm triệu thỉnh mười phương Phật, tức thời mười phương lại trên đỉnh Ta, thời thân Ta khiến tất cả đều đồng một thể, chỉ có Ta và Chư Phật hiểu thấu được. Sau đó, Ta dùng mắt xem khắp mười phương.Các Tiên lúc đó hết kế, sợ sệt đảnh lễ cầu qui y nơi Ta, sám hối các tội, cầu xin cứu hộ khiến được an ổn.Ta liền dùng Phật tâm mà quán khiến hết sợ sệt, lại trao cho Pháp Phật Tâm Trung Tâm khiến được thần thông. A
Bấy giờ, A Nan lại hỏi Phật rằng: “Như trên có nói Định ấn, vậy Ấn ấy ra sao? Cúi xin Ngài vì con mà nói Pháp ấn!”.
Phật bảo A Nan: “Lành thay!Hãy lắng nghe! Trước hết, ngồi kết già phu đọc Tâm chú 7 biến chú nơi tay, sau mớí kết Định ấn.Tay trái ngửa để nơi rốn, tay phải ngửa đặt lên lòng tay trái, mười ngón ngay ngắn, ngón giữa bên phải nắm ngón cái vằn trên tức thành. Nếu tụng chú 108 biến 3 lần cử thân, thì trên đất, hư không cho đến Ba mươi ba cõi trời sanh lòng lành, tất cả các Đại ác vương hay hại hoặc làm chướng ngại người thảy đều niệm Phật, không lòng phỉ báng. Tất cả chúng sanh được tâm Phật, Bồ Tát nên không còn thối chuyển, nhớ được túc mạng.Như Lai thường dùng Ấn này chiêu người không có duyên, thường dùng Ấn này khiến cho đại địa 36 lần lunglay. Ấn này công lực không thể nói hết, tu tập tự biết lấy.”.
Khi đó, A Nan bạch Phật rằng: “Như Lai sở trì như vậy, còn người chưa được tâm Phật, làm sao trì được? Con thấy các loại thuốc hoặc thơm hoặc thúi, các thứ nước hoặc dơ hoặc sạch, mặt trời mặt trăng hoặc sáng hoặc tối, các người tu hoặc phàm hoặc Thánh, hoặc Phật hoặc Ma, hoặc tưởng hoặc tượng, hoặc có hoặc không, hoặc an hoặc nguy, hoặc đúng hoặc sai, các việc như vậy có đến trăm ngàn loại v.v... làdo định kiến điên đảo huyễn hóa bất nhất. Vì sao Như Lai nói phàm phu đồng Phật trì, nếu được Phật trì nhất nhất đều là việc Phật, nếu không được Phật trì nhất nhất đều là Ma nghiệp. Tại sao Như Lai nói các phàm phu đồng một Phật tâm?”.
Phật bảo A Nan: “Lành thay! Lành thay! Như phàm phu nếu hay trì giới, thì tâm này đồng tâm Ta, lực tức bằng Ta, nếu không được vậy Ta vào sanh tử trong sáu nẻo luân hồi, những chỗ nói ra dạy để người thảy đều là hư vọng dối gạt chúng sanh sao? Vậy, Ta tức là Ma không phải là Như Lai.A
A
Phật bảo A Nan:" Trừ Nghi Kệ này như hoa hư không, dùng thần lực của Phật khiến tại hư không có lọng của Bồ Tát, ở dưới lọng có trăm ức hằng hà sa thế giới bất khả thuyết thế giới vô lượng các Hóa Phật, lại có vô lượng bất khả thuyết vô lượng các Pháp thân Phật, lại có vô lượng bất khả thuyết vô lượng Báo thân Phật, tất cả quyến thuộc đều là các Bồ Tát đứng đầu hoằng truyền đạo Pháp, lại có vô lượng bất khả thuyết các Bồ Tát, mỗi mỗi Bồ Tát có vô lượng quyến thuộc đều là thầy dạy đạo trong nhân gian, đều là Tam địa, Tứ địa, Bát địa vây quanh. Như vậy Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, bốn quả Thánh, tất cả chư Thiên Tiên vô lượng thế giới,TứThiên Vương, Phạm Vương, Đế Thích, A Tu La, các Dạ Xoa, La Sát, Quỉ thần, các vị có đại oai đức đại thần thông, đại hộ niệm, đại từ bi, đại tự tại v.v… đoanh vây nơi lọng, giữ tâm bất thối, thọ Phật Tâm Pháp. Lại có bất khả thuyết các Địa thần cầm các hoa sen ngàn cánh đem dâng chân người trì chú, phóng ánh quang minh nơi thân có màu vàng kim, tất cả chúng sanh thấy quang minh này đều dứt Hữu lậu nhập vào Phật định, thấy tất cả trong Đại thiên thế giới các nhân duyên, các sự nghiệp do đâu mà ra, thảy đều hiểu biết tường tận".
Bấy giờ, A Nan dùng kệ khen Phật:
Lành thay Thầy ta Thích Ca Văn!
Một lời trùm cả Đại thiên giới
Duy chỉ một lời cứu độ khắp
Tất cả chúng sanh không hay biết
Lành thay Như Lai tự tại quang!
Là tốt hay xấu đều chiếu khắp
Từ tâm tuôn chảy nước
Tẩy rửa được sạch không hay biết
Lành thay Vô úy tự tại tâm!
Thường đem vô úy ban cho khắp
Cọp, Voi, Rồng độc đều điều phục
Tự nhiên sanh bi mà không biết
Lành thay Vô Úy Thần Thông vương!
Nói ra Đại thiên đều rung động
Tất cả thảy đều lại qui phục
Qui phục nhưng mà vẫn không hay
Lành thay Vô lượng từ bi tâm!
Thường đem từ bi cứu các loài
Tất cả thảy đều nghe Phật Pháp
Lành thay Vô Lượng Thiện Tạng vương!
Hay dùng Tài pháp cho chúng sanh
Ai được thọ trì thảy thành tựu
Thế mà kẻ kiavẫn không hay
Lành thay Vô Lượng Bảo Tàng Vương!
Hay dùng bảo tàng che thế giới
Làm cho chúng sanh ra khỏi khổ
Tuy được thoát khổ mà không hay
Lành thay Vô lượng Đại Pháp thọ!
Bóng mát che khắp tam thiên giới
Làm cho tất cả đều mát mẻ
Được lìa nóng bức mà không hay
Lành thay Vô lượng đại phát cảnh!
Chiếu soi phá mọi chốn tối tăm
Khiến từ nơi tâm phát trí huệ
Thế nhưng kẻ kiavẫn không hay
Lành thay Như Lai chỉ một lời!
Ai nghe cũng đều được một vị
Nhưng lại thấm nhuần khắp chúng sanh
Cho nên gọi là Đại từ bi
Chúng con hạ tiện trí phàm phu
Muốn dùng tất cả lời xưng tán
Đầy đủ lòng thành xin dâng lên
Xin nguyện Thế Tôn thương xót nhận.
Sau khi, A Nan khen Phật xong, lại bạch rằng: “Con nay xưng tán Như Lai, Thần đức của Thế Tôn con không nghĩ suy được, thần lực như vậy, tự tại như vậy đều quyết định, con chưa từng nghe thấy, vì sao hôm nay, NhưLai lại nói ra? Từ lâu Ngài đã biết chúng sanh căn tánh thấp hèn, khó có thể học được, nhưng sao trước đây Ngài không nói?”.
Phật bảo A Nan: “Tâm Trung Tâm của Ta đây thường ở trước Ta. Khi Ta chưa ra đời, Tâm này đã có.Khi Ta chưa thọ sanh, Tâm này đã thọ sanh.Ta chưa được định tâm, Tâm này đã được Định.Như vậy, Định, Huệ, Lực là trụ xứ của Phật, là chỗ Phật ở, là chỗ Phật làm, chỗ Phật suy nghĩ, chỗ Phật hiểu biết, chỗ Phật làm Đạo, chỗ Phật quyết định. A
A
Phật bảo A Nan: “Nay Ta sẽ đem các tướng loại Nhân duyên Tâm Trung Tâm vì người mà nói, không lìa chúng sanh. Tâm này có 12 loại và như thế nào là Phật Tâm Trung Tâm.
* Một là, tự tâm ở trong Khổ thấy chúng sanh khổ muốn cứu vớt, có Tâm quyết định thương xót chúng sanh, tự thân có Khổ mà không lìa Khổ hoặc tự thân không thấy chúng sanh khổ, nơi các Pháp không đắc được. Hay thấy chúng sanh khổ, cứu vớt họ khiến cho mau được xa lìa khổ là Tâm Phật thứ nhất.
* Hai là,xem các Khổ trước mặt mà không thối chuyển,Tâm không thay đổi bất định, tự thân có Khổ cũng như vào Tam muội, nếu có các loại phiền não nhiễu hại tưởng như ở Định Tứ Thiền, tất cả oan gia đều tưởng như cha mẹ. Muốn cứu các Khổ, phải tưởng các kẻ khổ kianhư con cháu trông cầu cha mẹ, tức là Phật Tâm thứ hai.
* Ba là, tưởng Tâm mình như Tâm người, Tâm người như Tâm mình, cho đến tất cả thân phần, mong muốn của mình cũng như của người, của người cũng như của mình; tất cả các Tà tâm, Chánh tướng, các Pháp bảo cũng như thân mạng, tam quang cũng như mắt mình, cho đến thuốc thang, đồ ăn uống, bệnh khổ … thảy đều tưởng như trên, đây là Tâm thứ ba.
* Bốn là,chỗ Phật niệm tưởng là Phật, Ta thường ở nơi đó không xa lìa như vua Trời Tỳ Sa Môn chắp tay lễ tháp Xá Lợi, như mười Kim Cang Tạng cùng giữ một châu Kim Cang, như mười thế giới Thần Bạt Chiết La cùng giữ một chày Bạt Chiết La, như mười thế giới xem một ánh sáng mặt trời, cũng như mười thế giới chúng sanh cùng một thế giới, tức là Phật Tâm thứ tư.
* Năm là, tất cả lời nói của Phật thuyết Pháp, ấn khế, thần thông, các thứ thần lực lớn nhỏ, cho đến tư tưởng hoặc nhỏ hơn như suy nghĩ, luôn luôn không hề ngủ nghỉ, thân phải như Pháp trọng Đại Thiên thế giới, kẻ tin hay không tin đều không thể làm hại dù trong giấc ngủ, là Phật Tâm thứ năm. Nếu được như vậy tức được Ngũ nhãn Thanh Tịnh, thấy rõ các thế giới.
* Sáu làdùng Lục Độ để nhiếp Tâm, nhập Từ Mẫu Định nhiếp Tỳ Na dạ Ca làm sáu loại Thiện Trí Thức:
- Thứ nhất : Loại Tỳ Na Dạ Ca tên là Vô Hỉ, loại này thường khiến Tâm vui giận không định, ham làm các Pháp sát hại, nên dùng Sằn Đề Ba La Mật khiến vào Từø Mẫu Định, làm Trì Nhẫn Vương
- Thứ hai : Tỳ Na Dạ Ca tên là Huyễn Hoặc, loại này tới thời Tâm phiền không định, không quyết định các Pháp và chúng sanh, khi bị như vậy dùng Thiền Ba La Mật nhập vào Bất Động Trí
- Thứ ba:Tỳ Na Dạ Ca tên là Vọng Thuyết, loại này lại thời khiến hay vui vẻ, ham thích tâng bốc, sanh lòng quyết định những việc kỳ lạ, hay tin tưởng vào lời nói ngông cuồng, chỗ thanh tịnh lại hay sanh Tâm tham dục,Tâm đắm nhiễm khiến cho điên đảo, tức dùng Thi Ba La Mật nhiếp làm Thiện Xảo Phương Tiện.
- Thứ tư:Tỳ Na Dạ Ca tên là Chấp Phược, loại này tới thờng khiến hành giả kính lễ Ma Vương, Tỳ Na Dạ Ca thường cùng hành giả và tất cả Ma Vương làm bạn bè, hiện oai thân to lớn khiến cho quy y, nhiếp cho Tâm tin chắc; biết vậy tức dùng Tỳ Lê Gia Ba La Mật mà nhiếp làm Đại Lực Phương Tiện Vương
- Thứ năm:Tỳ Na Dạ Ca tên là Khổ Ý, thường khiến người sanh tâm hy vọng, tu hành chỉ lo cầu tài vật, trước dùng tài tâm sau đó ban cho tiền bạc cùng với vua Ngạ Quỷ ở nơi đồng trống, người này tâm thường không biết đủ, vì không biết đủ nên tất cả thần lực bị mất, tức dùng Đàn Ba La Mật nhiếp hiệu là Đại thí Chủ Vương, từ khi nhiếp phục, tâm tham tức trừ.
- Thứ sáu: Tỳ Na Dạ Ca tên là Tác Vi, loại này dến thì chỉ nói việc phi pháp, không có Chánh trí, vọng sanh các Pháp tướng, không lợi cầu lợi, ham làm các lý luận kỳ lạ, muốn trở thành Đạo sư. Ở trong Chánh Pháp, sanh tâm chê bai, nên dùng Bát Nhã Ba La Mật mà nhiếp phục làm Trí Huệ Tạng Vương.Lại có Tỳ Na Dạ Ca tên là Đoạn Tu, loại này thường làm tất cả tâm niệm đều tận, lại sanh các bệnh ham ưa ngủ nghỉ, phát động ngoại ma làm nội chướng, khiến người sợ sệt, khởi nhiều vọng kiến, suy nghĩ nhiều Pháp lạ kỳ. Các thứ như vậy, đều dùng Vô Úy mà nhiếp phục, chỉ dùng Đại Bi nguyện làm quyến thuộc, kẻ đó tức tự thần phục, thần phục rồi không nên trách mắng, dùng làm Tâm thứ sáu.
* Bảylà, ở nơi Thất Bồ Đề phần, cần tu học có các công đức thường ban thí hết, để nhiếp khắp tất cả Khổ chúng sanh, thân luôn thọ trì khiến tất cả chúng sanh nghe hiểu biết, để xa lìa ma cảnh.
* Támlà, ở trong Bát Thánh Đạo cần phải tinh tấn tu, thường sanh Thập tín, giữ hạnh Thập Thiện, không nói lỗi người khác, hoặc khen mình chê người, làm ơn không mong báo đáp, thường hay Bố thí, giữ gìn Pháp không mệt mỏi, y theo giáo Pháp không mất bổn tâm.
* Chín là,không nghi Pháp, không ngã mạn, không tăng thượng, không chấp trước, không lừa dối, thường hành chân thật, tất cả các nguyện gì khi tu thảy đều nhớ biết, luôn luôn hộ trì Phật và Tăng bảo, lễ các tôn tượng không được khinh mạn, tất cả đều y như Pháp.
* Mườilà, đầy đủ Thập Tín: một làtin Phật thường ở nơi đời có đại diệu dụng thần thông; hai làtin Pháp sâu mầu có sức đại phương tiện, có quyết định lực; ba làtin Phật thương xót tất cả chúng sanh hay nói các Pháp yếu để trừ diệt khổ; ( Bốn? Trong Kinh không có ghi ); năm làtin Phật ở nơi đời ngũ trược, thường hiện từ quang; sáu là tin Phật trong Lục tặc như cha mẹ; bảy làtin Phật nơi Thất khiếu thường nói Phật âm; tám làtin Phật nơi 62 kiến không có thương ghét; chín làtin Phật nơi đời ngũ trược thường độ chúng sanh, nói tâm vô ngại không có bờ bến; mười làtin Phật, Bồ Tát và các Kim Cang thường hiện thần lực để hóa độ chúng sanh thảy đều thành Phật .
* Mười mộtlàở nơi các Pháp, các lời nói luận nghĩa, biện bác không được khen chê, phải thận trọng, không bỏ giàu nghèo sang hèn, luôn tưởng nghĩ Bồ Tát như trước mặt, tất cả sợ sệt từ từ mà hết, nhờ Chư Phật Bồ Tát tự nhiên tiêu diệt.
* Mười hailà, xem xét tự thân nếu có chút kiêu mạn thời phải biết lấy, nếu có oán ghét thường tự bỏ, thân nhiều mạn thì phải điều phục, nếu nhiều tham cũng như cầm lửa, nếu nhiều dục thì tưởng như thịt thúi, nếu nhiều cấu uế thường tưởng bạo ngục. Nếu thường xem xét như vậy, tức là Pháp quyết định Phật Tâm Trung Tâm, do Phật tâm khiến vô ngại”.
Bấy giờ, A Nan bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như vậy, Phật Tâm Trung Tâm tức là cảnh giới của Phật sao?Cảnh giới chúng sanh sao?Nếu như cảnh giới chúng sanh đồng với 12 Tâm, thì đây không phải chổ tâm chúng sanh.Nếu chúng sanh làm được như trên, thì không có gì phải nghi, nhưng làm sao chúng sanh có thể làm được như vậy?”.
Phật bảo A Nan: “Cứ thọ trì đi, mười phương sẽ làm chứng, ông không thể biết được. Các ông muốn hiểu Phật Tâm Trung Tâm sao?”.
A
Phật bảo: “Ông muốn gì, cứ tùy ý mà hỏi!” .
A
Phật bảo: “Ông muốn biết, hãy lắng nghe đây! Nay Ta vì người nói Tùy Tâm Đà La Ni, tức nói Chú rằng:
- Úm ma niđạt rị hồng phấn tra
(
Nếu người thọ trì không cần chọn ngày giờ, tháng, năm, sao, không cần trai giới, chỉ ở trước Như Lai hoặc trước Tượng, trong Tịnh thất hoặc trước Tháp Xá lợi, tùy ý dùng các loại hương hoa cúng dường. Ngày Rằm, tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới, tùy theosức mà sắm các món cúng dường, vì Hộ Pháp cần ăn ba món bạch thực. Làm một Đàn vuông lớn nhỏ tùy ý, treo đèn phan, tụng Tâm Trung Tâm chú và Tùy Tâm Chú mỗi thứ 1080 biến, ngay nơi chân tượng nằm ngủ sáng chiều; Như Lai liền vì hiện thân, các vị Thánh Kim Cang cũng đều hiện thân, mười phương Bồ Tát Chư Thiên đều lại vi nhiễu, tất cả các nguyện đều được đầy đủ. Nếu trong thân tự biết có xúc phạm hoặc là có trọng tội, tụng đến vạn biến tức được thân quang minh thanh tịnh của Phật, cho đến tất cả các Pháp nếu tụng trăm vạn biến không gì là không biết, không có Pháp trì khác. Nếu có các tượng hay làm người sợ sệt, chỉ dùng ngón giữa tay phải co vào trong lòng bàn tay, lấy ngón cái đè móng ngón giữa, đọc thầm Tùy Tâm Chú không quá 100 biến tự nhiên hàng phục, độc hại hỏa tai dùng hơi thổi tức trừ, lại hay trừ diệt các việc khó trừ khó diệt. Nếu có tất cả các việc chướng ngại, lấy hai tay chắp lại, hai ngón trỏ hai ngón vô danh câu nhau bên trong, các ngón kia dựa nhau trong lòng bàn tay đâu mặt, hướng bốn phương mỗi phương tụng 108 biến, tội cấu tiêu trừ chướng nạn đều diệt. Nếu có Tỳ Na Dạ Ca muốn điều phục tức điều phục, nếu không chịu phục dùng ngón chân phải bấm xuống đất tụng chú 108 biến, Tỳ Na Dạ Ca bảy lỗ ra máu liền hàng phục. Mười phương thế giới các vị Thông linh và các Tiên trì chú, bốn bộ Vệ Đà và tám Tạng ở nơi Long Cung có các Pháp bí mật, các loại hữu tình tùy tâm kêu gọi thảy đều thuần phục, trừ làm Ác Pháp là không được. Nếu muốn cầu các hương Trời để cúng dường, ngửa mặt lên trời tụng 108 biến, hương tức xuống.Muốn đến cảnh giới của Phật Bồ Tát ở quốc độ trong mười phương, dùng ngón giữa chỉ lên trời kêu Ma Hê Thủ La cùng đi theo, các cõi Trời không dám vào; khi lâm chung, mười phương Chư Phật đến trụ trên đầu dẫn đến các thế giới của Chư Phật. Muốn cầu thân này không diệt, tức cảnh giới của Phật, tụng cho đến 10 ức biến, liền được sống lâu cùng trời đất. Trừ không chí tâm, nếu chí tâm mà không được, Ta tức vọng ngôn, tất cả Kinh giáo đều là ma nói không phải Phật nói.
Lại có Pháp muốn cầu tiền tài, lấy đồng tiền đồng để nơi tiết giữa chú thầm 108 biến lấy chỉ vào nơi timngười kia, người đó liền cho, tùy miệng mình xin. Nếu muốn kêu gọi quan, chúa, phi hậu v.v... lấymột cụm hương thơm tốt, viết tên kẻ kia đem để nơi ngón trỏ, chú 1080 biến, kẻ kia tức lại. Nếu cần các thứ lúa gạo … lấy ba thứ để nơi ngón giữa, y Pháp trên tức được tùy ý.Nếu muốn mọi người hoan hỷ, co ngón giữa để vào miệng chú 108 biến lấy ngón đó chỉ, người kiatức vui vẻ thuận phục. Lại có một Pháp muốn kêu các Rồng lấy nước giếng, chú 1000 biến đem rảy nơi nước có Rồng, Rồng kia tức lại cung kính. Lại có Pháp, nếu Trời không mưa, lấy Long não và nước giếng một hộc, chú 1000 biến giữa trưa rồi để ra ngoài nắng, tức có Rồng trắng từ trong nước vọt ra, trời liền mưa; nếu mưa nhiều, dùng đất màu vàng hoặc đỏ, trên giấy vẽ một con rồng, chú 1080 đem quăng xuống giếng, tức có Rồng đỏ vọt lên, trời liền tạnh.
Lại có Pháp dùng bơ 1 cân, chú 1000 biến tùy theohướng gió mà đốt, các loại lúa má ruộng đất được tốt tươi. Lại có Pháp, nếu trong thế gian có các bệnh tật, lấy giấy đỏ vẽ hình sao Chổi chú 1080 biến, bệnh tức trừ, sao này có 6 sao nhỏ hợp thành. Lại có Pháp, nếu trong nước có nạn đao binh nổi lên, bốn phương không yên, lấy một cây đao chú 1000 biến, tùy hướng có giặc mà chỉ tức có thần binh hiện, các nạn ngoại xâm đều được tiêu trừ. Lại có Pháp, nếu muốn tập các thứ nghề nghiệp, văn chương, công xảo, nội kinh, ngoại điển, các thứ huyễn thuật, cảnh giới chỗ làm của Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, thì mỗi sáng chiều chú 1000 biến, qua 100 ngày không gì là không biết. Nếu muốn được báu của Hải Long Vương, Chư Phật, Long Tạng thọ ký, cần thiêu năm loại hương: Đàn Hương, Trầm Hương, Huân Lục Hương, Long Não, Tất Lực Ca … Vào ban đêm thanh tịnh, tụng chú mặt ngó bốn phương, mỗi phương 1080 biến, bấy giờ Long Vương chủ bốn phương đem các vật báu tự đến cho.
Lại có Pháp, cần các báu nơi đất để dùng làm các việc Công đức, chỉ nói rằng: ‘Ta cần báu này để làm các việc Công đức", sau đó lấy chân đạp xuống đất, chú 1080 biến tức thời mười phương Địa thần cầm các báu đem dâng cho, tùy ý sử dụng; nếu vì danh lợi hoặc dùng các việc ác thì không được. Lại có Pháp, nếu có người ghét nhau, dùng năm thứ hoa, chú 108 biến rồi viết chữ Phật vào mỗi loại, tức tự hòa thuận thương yêu. Lại có Pháp, nếu người trước đã trì các chú mà không có hiệu nghiệm, nên lấy áo của người đó chú 1000 biến đem đi để nơi tòa Phật qua 7 ngày, xong lấy mặc vào, sau đó tất cả các Pháp yếu đều được hiệu nghiệm, chư Bồ Tát và Kim Cang Tạng tự nhiên thần phục, sai sử mau chóng, mọi việc đều được.
Lại có Pháp, nếu có tật bịnh kiếp nạn nổi lên, lấy 7 loại độc dược là: Ô Đầu, Phụ Tử, Lang Độc, Bã Đậu, Hổ Phách, Quang Minh Sa Long Não, Hương Nhục, Đậu Khấu chú 1080 biến, dùng nước ngâm, lấy nước đó rảy lên thân người bệnh, không bệnh gì không lành. Nếu chân tay co quắp, chú đao 1000 biến mà chỉ đó, tức cử động được, trọn đời không bị lại nữa.”.
Phật bảo A Nan: “Nếu Ta nói các Pháp yếu ra, thì cùng kiếp cũng không hết được. Nếu có cầu nguyện điều gì y như trên thảy đều thành tựu, tất cả mọi việc làm không luận lớn nhỏ đều được thành tựu không có được nghi ngờ, nếu hay trì tụng sẽ được bất thoái chuyển cho đến thành Phật.Nếu hay mỗi ngày làm Pháp này, trì tâm này thì thường ở nơi thế gian làm Đại Thọ Vương, che khắp chúng sanh khiến lìa các Khổ, khiến đều được Phật tâm, cũng như đều được bất thoái đều do oai lực của người trì tụng.”
Khi Như Lai nói chú pháp và các công năng xong, tất cả Bồ Tát, Kim Cang, Thiên Tiên hào quang nơi thân thảy đều ẩn mất, chỉ có Phật quang chiếu khắp cõi Diêm Phù Đề, tức thời ở trên hư không Chư Thiên đều bị xoay tròn, tất cả Ma Cung đều đổ nhào, phút chốc tiêu tan không còn gì cả, đến cả đại địa sáu lần chấn động. Mười phương thế giới các Bồ Tát đều cầm tràng hoa đến cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ở trong các hoa phát ra âm thanh đều nói sự việc của Phật Tâm, ở trong Phật Tâm lại ứng hiện bàn các chỗ cần dùng không thể nghĩ, chỗ các hoa hương bất khả thuyết âm thanh đều nói các Thần lực bất khả thuyết, các Bồ Tát dùng lực Phật Tâm Trung Tâm biến hiện thần lực bất khả thuyết. Chư Bồ Tát ở mười phương thấy quang minh Phật chiếu khắp cả Diêm Phù Đề, từ trong tâm các vị dùng kệ khen Phật:
Bấy giờ Đại chúng nghe Phật nói xong, thảy đều chắp taytrì Phật Tâm Trung Tâm. Khi đó, Đức Như Lai duỗi cánh taysắc vàng ấn đảnh thọ ký cho. Các Bồ Tát và Đại chúng được Phật thọ ký xong, hoan hỷ phụng hành.
Ngày 10/05/1996