Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Thành Tựu

26/04/201317:20(Xem: 4377)
12. Thành Tựu

ĐƯA VÀO MẬT TÔNG

Nguyên tác:Introduction to Tantra

Tác giả:Lama Thubten Yeshe - Biên tập: Jonathan Landaw

Chuyển ngữ: Thích nữ Trí Hải

---o0o---

12 - THÀNH TỰU

GIAI ĐOẠN THÀNH TỰU : KIỂM SOÁT NĂNG LƯỢNG VÀ NỘI HỎA

Pháp tập luyện giai đoạn Sinh khởi ba thân kỳ thực chỉ để chuẩn bị cho việc tu tập nâng cấp gọi là giai đoạn Thành tựu, để thực sự biến cải thân tâm phàm tình của chúng ta thành thân tâm của một thực thể toàn giác. Nhưng sự chuẩn bị của giai đoạn sinh khởi là điều tối cần : chính nhờ nới lỏng những khái niệm cụ thể mà ta có về bản thân mình, bằng cách phát sinh hình ảnh vị thần từ chân không, và đào luyện niềm tự hào thiên thần rằng chính mình là vị thần ấy, chính nhờ làm vậy mà ta tạo được không gian thuần khiết cho sự chuyển hóa phát sinh.

Khi đã đủ thiện xảo để tu tập giai đoạn thành tựu như làm phát sinh Nội hỏa (Tạng ngữ là Tum mo) tại luân xa ở rốn, ta có thể đưa tất cả luồng khí lực đi vào huyệt đạo trung ương, khiến chúng hoàn toàn tan vào đấy như khi ta chết. Kết quả là ánh sáng tuệ của bản tâm sẽ ló dạng, và cuối cùng ta có thể biểu hiện thân huyễn như cầu vồng. Thân huyễn này có thể tự do giã từ thân xác rồi trở lại. Điều này thực sự xảy đến chứ không chỉ là quán tưởng như khi còn trong giai đoạn sinh khởi trước kia. Năng lượng kundalini ngủ yên trong ta bây giờ được đánh thức, ta đạt đến trí tuệ và đại lạc đồng thời; và vượt qua được mọi giới hạn của thân vật lý.

Khi đã đạt đến sự làm chủ luồng nội khí để có thể đưa nó vào bất cứ huyệt đạo nào ta muốn, thì ta còn có thể kiểm soát năng lực ngoại giới. Có nhiều chuyện kể về ảnh hưởng lớn lao mà những thiền giả mật tông đã chứng đắc có thể tác động trên vũ trụ bên ngoài. Ví dụ trong một buổi lễ lớn mà đức Tsongkhapa tổ chức tại thủ đô Tây Tạng ngày xưa, người ta thắp hàng ngàn ngọn đèn bơ để cúng dường tượng Phật Thích Ca. Bỗng một ngọn lửa bừng lên làm mọi người kinh hãi đến báo cho Tsongkhapa biết những đèn cúng dường sắp đốt cháy chùa. Khi ấy Tsongkhapa ngồi xuống nhập định, và tất cả đèn vụt tắt. Người ta có thể xem đây là một phép lạ, song kỳ thực không có gì huyền bí khó giải thích về điều ấy. Bởi vì người nào có thể làm chủ được nội khí như Tsongkhapa cũng chắc chắn có thể điều khiển được khí bên ngoài.

Tôi nghĩ thiền định về nội hỏa rất phù hợp với tâm thức người ngày nay, vì họ mê say nguyên liệu vật chất. Người ta thích làm việc với vật chất, chơi với vật chất, điều khiển và chuyển hóa vật chất. Và do điều khiển vật chất, họ còn muốn điều khiển cả tâm con người. Thiền quán Nội hỏa cố làm được điều ấy: do điều động năng lượng bên trong cơ thể vật lý, ta có thể nới rộng phạm vi tâm thức và kinh nghiệm những mức độ cao hơn về lạc tuệ.

Tôi cũng nghĩ rằng nhiều người ngày nay hết sức nóng nảy; họ muốn những hiệu quả tức thì. Họ mua cà phê tức thì, mì ăn liền, điểm tâm có liền, liền liền đủ thứ. Và khi đi vào lĩnh vực tu hành họ cũng muốn được thỏa mãn liền, có kinh nghiệm chứng ngộ liền. Với pháp tu nội hỏa, đây là điều ta có thể thực hiện. Dựa theo một số phương pháp thực tiễn được đặt ra một cách khoa học và khúc chiết minh bạch, ta sẽ có được kết quả là một tâm thức hoàn toàn biến đổi. Ta không cần phải chấp nhận một tín ngưỡng bất thường nào, chỉ cần tuân theo chỉ dẫn, thì những kinh nghiệm tự động xảy đến. Nhờ tập trung vào các nguồn năng lượng có sẵn trong thân tâm ta, mà cái thực tại ta kinh nghiệm có một biến chuyển sâu xa. Điều ấy thực đơn giản và trực chỉ.

Thề kỷ 20 này có tốc độ kinh khủng, đầy năng lượng. Cùng với sự bùng nổ năng lượng ghê gớm này, nhiều chuyện tốt lành đang xảy ra, và cũng nhiều tai họa khủng khiếp nữa. Sự thể là như thế. Bởi vậy nếu muốn làm một điều gì tích cực với cuộc đời mình, ta cần một phương pháp ít nhất cũng mãnh liệt bằng những năng lượng vật chất rối ren trong đó ta đang mắc vướng. Những lý thuyết triết học dù vĩ đại đến đâu cũng không đủ giúp ta ra khỏi những khủng hoảng hiện thời. Tư tưởng triết học tự chúng chỉ như những đám mây không thực chất; mới đầu có vẻ đẹp đẽ nhưng sau đó mau chóng tan đi, để lại mình ta với tình trạng vô vọng như trước. Chúng ta cần một cái gì năng động, mãnh liệt, trực tiếp. Ta cần một cái gì mình có thể làm ngay, đạt hiệu quả ngay. CÁI GÌ ấy chính là mật tông, nhất là giai đoạn "thành tựu" của du già nội hỏa.

Câu chuyện về hiệu quả tức thì và sự phát sinh đại lạc như thế nghe ra thật hấp dẫn, nhưng đừng quên hai điểm hết sức quan trọng. Trước hết mặc dù pháp hành nội hỏa đương nhiên dẫn khởi kinh nghiệm đại lạc, song mục đích chính của nó là giúp ta đi vào trạng thái tuệ với ánh sáng trong suốt. Chính tuệ này, một cái thấy trực tiếp chiếu vào thực chất mọi sự, sẽ giải thoát ta khỏi dây trói của vọng tưởng vô minh. Hỷ lạc tự nó không làm được việc này. Bởi vậy, bằng pháp thiền quán nội hỏa, ta cần phải phát triển một sự liễu tri mạnh mẽ về chân không, bất nhị, phi tự tính, của chính kinh nghiệm hỷ lạc ấy. Nếu ta cứ theo thói cũ mà xem cảm giác hỷ lạc là thực hữu tự tồn, thì sự phát sinh năng lượng ham muốn mạnh mẽ do thiền quán nội hỏa chỉ đưa đến những hậu quả khốc hại.

Hơn nữa, không bao giờ nên bị lôi cuốn bởi kinh nghiệm hỉ lạc đến nỗi quên mất động lực chính của mật tông. Mục đích cuối cùng của Phật giáo, theo kinh thừa cũng như mật thừa, là để đem lại tối đa lợi ích cho người khác. Nếu ta quá chú trọng nỗ lực được hỉ lạc mà quên sự lợi tha, thì tuyệt đối không cách gì ta có thể thành công trên đường tu tập. Chúng ta chỉ có tạo thêm nhân tố cho bất hạnh và đau khổ.

SỰ TỈNH THỨC ĐẦY HỶ LẠC

Khi dần dần quen thuộc với kinh nghiệm ánh sáng đầy hỉ lạc ở huyệt đạo trung ương, ta sẽ phát triển một phương pháp hiệu lực để vượt qua những kinh nghiệm phàm tình, hạn cuộc về thế giới giác quan này. Ta có thể, trong đời sống hàng ngày, hội nhập bất cứ gì xảy đến với kinh nghiệm nội tâm về sự tỉnh thức đầy hỉ lạc ấy. Khi ấy không còn lo gì những lạc thú thường tình mà ta hưởng thụ có thể khuấy động sự an tịnh của tâm ta. Ngược lại, bất cứ khoái lạc giác quan nào ta có do tiếp xúc những đối tượng khả ý cũng sẽ tan hòa vào tuệ giác hỷ lạc một cách dễ dàng, và nhờ thế tăng thêm sự an tĩnh nội tâm ta.

Mỗi khi một giác quan tiếp xúc với một đối tượng gây lạc thú, thì thay vì sa vào thói vồ vập, bám víu để đưa đến chán chường và thất vọng như thường tình, ta có thể đưa cái năng lượng mà đối tượng ấy gợi lên, cho nó đi vào huyệt đạo trung ương để lan khắp toàn thể hệ thần kinh trong ta. Và đồng thời ta có thể để cho ý thức hỷ lạc này thể nhập vào không gian trong sáng của bất nhị. Thế là tất cả những vấn đề liên hệ đến dục vọng đã được giải quyết: thay vì đưa đến bất mãn, năng lượng dục vọng bây giờ được làm nhiên liệu cho sự chứng nghiệm cái TOÀN VẸN.

Nhờ phát triển nguồn hỷ lạc nội tâm, ta đâm ra ít đòi hỏi gì ở hoàn cảnh. Sự sáng suốt nội tâm ta dần dần giải thoát ta khỏi lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Khi mọi sự trong sinh hoạt hàng ngày không được trôi chảy, ta không còn xem đó là một vấn đề. Ta cũng không còn lo lắng về tương lai. Lo gì ngày mai ta sẽ mất đi một lạc thú phù vân nào đó, trong khi hiện tại ta có đầy đủ hỷ lạc nội tâm ? Và cũng đừng tưởng rằng cảm nghiệm hỷ lạc nội tâm này có hơi ích kỷ. Ta càng hài lòng trong nội tâm thì càng dễ đem niềm vui đến cho người khác.

Dĩ nhiên, việc tu tâm để đạt được trình độ ấy cần rất nhiều thực tập. Hiện tại ta không dễ gì duy trì cảm giác nội lạc và quân bình ấy. Nhưng nếu nhớ lại ta cũng đã có đôi lần cảm nghiệm được điều ấy phần nào, thì ta có thể tin tưởng mình có khả năng cảm thọ sự bình an nội tâm trở lại như thế. Nhất là khi ta đã được giới thiệu những kỷ thuật mật tông để làm phát sinh đại lạc và tâm sáng suốt, thì ta có lý do để cảm thấy hứng khởi. Càng tập luyện những kỷ thuật này, ta càng nhận thức được chắc chắn mình có thể làm cho đời mình thực sự xứng đáng, lợi ích cho bản thân và cho mọi người.

NAM THẦN VÀ NỮ THẦN

Khi ta đã làm chủ được những pháp hành mật tông ở giai đoạn thành tựu, đã kềm chế đưọc những luồng khí lực vi tế.v.v. sẽ đến một lúc xuất hiện những nam thần nữ thần. Những nam nữ thần ấy là gì? Nói đơn giản, ấy là những người nam người nữ có được kinh nghiệm chuyển hóa của mật tông, và bởi thế có khả năng làm tăng trưởng lạc tuệ nơi một hành giả cao cấp. Ở giai đoạn "thành tựu" sẽ có một thời điểm mà sự ôm một con người như vậy là cần thiết để đưa tất cả luồng khí lực vào huyệt đạo trung ương, một điều kiện để triển khai toàn vẹn luân xa tim, ngõ hầu đạt đến tầng sâu nhất của Ánh sáng trong suốt.

Nhiều người vì thấy những tượng tranh Tây tạng trình bày những vị thần ôm nhau, đã có quan niệm lầm lẫn rằng Phật giáo Tây Tạng toàn chú trọng đến quan hệ nam nữ. Như đã nói, nghệ thuật này chỉ muốn trình bày kinh nghiệm về cái Toàn thể bất khả phân : phương pháp và trí tuệ, hỷ lạc và chân không -những đặc tính của toàn giác. Bây giờ nói đến pháp hành trong giai đoạn "thành tựu", người ta lại có thêm cơ hội để hiểu lầm hơn nữa. Bởi thế, cần nhấn mạnh rằng, khi chưa đạt đến sự làm chủ những luồng khí vi tế trong thân, chưa "ôm trọn" năng lượng kundalini đầy phúc lạc trong mình, thì ta chưa đủ tư cách để ôm một người nào bên ngoài hết trọi.

Sự ôm trong mật tông và cái ôm sinh lý thông thường khác nhau trời vực. Điều này sẽ rõ khi ta nhớ rằng, trong giai đoạn "thành tựu", hành giả đã hòa tan tất cả các luồng khí lực vào huyệt đạo trung ương, kinh nghiệm cái trạng thái thân và tâm xảy ra lúc chết. Khi chưa đi vào được kinh nghiệm này với tất cả tỉnh giác và chủ động, thì nói đến việc ôm trong mật tông chỉ là chuyện đùa. Hơn nữa, trong cái ôm chân thực của mật tông, thì chính năng lượng nữ đi vào nam, chứ không phải ngược lại như cái ôm thông thường.

KẾT QUẢ CỦA PHÁP HÀNH MẬT TÔNG

Có nhiều mức độ thành công khi tu các pháp mật tông về chuyển hóa. Sự thành tựu cao nhất dĩ nhiên là đạt đến ba thân Phật, nghĩa là đạt toàn giác ngay trong đời này, trước khi chết. Điều này quyết định có thể xảy ra, nhiều hành giả thành công đã đạt toàn giác theo cách đó. Tuy nhiên nếu không thể khám phá ngay tính toàn vẹn của bản thể, ta vẫn có thể khám phá được nó vào lúc chết, hoặc lúc ở trong trạng thái trung ấm. Cho dù việc tu tập không đưa ta đến giác ngộ, nó cũng có thể giải thoát ta khỏi nỗi sợ chết, và giúp ta phần nào trong việc kiểm soát tái sinh. Chính điều này cũng là một thành tựu lớn lao, vì nó giúp ta tiếp tục tu hành trong tương lai không gián đoạn.

Khi tu một pháp quán mật tông, dù lúc đầu có vẻ khó đến đâu, bạn cũng nên bạo dạn nghĩ "dù có đạt thành chính quả hay không, ít ra ta cũng sẽ cố gắng có được vài kinh nghiệm." Đừng nghĩ: "Tôi làm sao mà thiền quán được? Điều này hoàn toàn mới lạ đối với tôi. Hơn nữa, đời tôi đã tạo quá nhiều nghiệp ác, tôi là kẻ đầy tội lỗi. Làm sao một người như tôi có thể hy vọng thực chứng được cái gì?" Lối suy nghĩ ấy hoàn toàn sai lạc. Trước hết, bạn không bao giờ tự biết được trình độ của mình, khi chưa tu tập. Nếu nỗ lực, bạn sẽ ngạc nhiên về tiềm năng của chính mình. Thứ nữa, thật điên rồ khi nghĩ mình quá tội lỗi, khó thành công trong thiền quán. Hãy nhìn cuộc đời Milarepa. Ngài đã tạo bao nhiêu nghiệp ác, giết bao nhiêu người, thế nhưng Ngài vẫn có được năng lực thực chứng sự từ bỏ, tâm bồ đề và chân không, và cuối cùng giác ngộ nhờ thực hành mật tông. Chính Ngài đã công nhận rằng trước kia Ngài đã từng là một tội nhân đại hình, nhưng nhờ sự hướng dẫn của bậc thầy Marpa và chí cương quyết của mình, Ngài đã chuyển hướng năng lượng trong mình để thành một thiền giả vĩ đại. Nếu Milarepa có thể thắng lướt dĩ vãng đầy tội lỗi của mình, thì tại sao bạn lại nghĩ bạn không làm được, trong khi bạn còn hiền hơn Ngài nhiều?

Tôi cũng chú ý rằng những người đã từng gây nhiều ác nghiệp trong đời, khi quay lại tu tập thường dễ thành công hơn người khác. Trong khi đó, những người đặt ít năng lượng vào sinh tử thì cũng thường có rất ít năng lượng cho việc thực chứng niết bàn. Những người ấy quá trơ lì không được một việc gì cả, dù thiện hay ác.

Điều tôi muốn nói ở đây là, đã làm được con người, thì ta không bao giờ nên đặt giới hạn mình có thể thành tựu được bao nhiêu, dù hiện tại đời ta có ra sao đi nữa. Có thể bao nhiêu lần nỗ lực thiền quán bạn vẫn bị tán tâm, nhưng bỗng chốc có một tiềm năng nào đó trở nên thuần thục, đem lại cho bạn khả năng lạ lùng để tập trung không gián đoạn trong những thời gian dài. Những điều này thực sự đã xảy đến, bởi vậy bạn hãy can đảm lên, và tiếp tục cố gắng. Ít nhất bạn nên quyết định mạnh mẽ như sau: "Tôi sẽ đạt được sự làm chủ tâm mình để nếu có tai họa xảy đến, hoặc lúc chết, tôi sẽ đủ định lực và sự sáng suốt bình tĩnh nhận ra cái gì sắp xảy ra." Bạn chỉ cần giữ một loại động lực tu hành như thế cũng đủ. Nó sẽ làm cho bạn có khả năng thể hiện viên mãn tiềm năng nội tâm của mình còn nhiều hơn bạn tưởng.

NHỮNG ĐỨC TÍNH ĐƯA ĐẾN THÀNH CÔNG

Nhưng muốn đạt đến bất cứ trình độ thực chứng nào nhờ tu mật tông, ta cần phải có 4 đức tính. Trước hết là niềm tin bất hoại. Điều này có nghĩa phải thấy rõ con đường ta đang theo, từ lúc quy y cho đến giai đoạn cuối của sự tu tập, là một con đường bảo đảm đáng tin cậy. Khi đã thấy được bằng kinh nghiệm bản thân, rằng con đường này có thể đưa ta về hướng ta muốn đến, thì lòng tin của ta không ai lay chuyển nổi.

Nói cách khác ta cần có sự tự tín. Điều này khá dễ khi ta có những bạn đạo hay ở gần bậc thầy. Trong một môi trường được che chở như vậy, sự tu hành giống như cùng san sẻ một nền văn hóa, ta không cảm thấy lạc lỏng. Nhưng khi từ giã tình huống được cách ly một cách giả tạo này để trở về đời sống thường nhật, ta có thể mất đi niềm tự tín đối với việc tu hành. Ta bị áp lực của những mong đợi và sự đánh giá của mọi người, kiểu như "Thiền quán để làm gì? tại sao phải ngồi ngắm lỗ rốn của bạn, trong khi có bao nhiêu điều hấp dẫn khác để làm với cuộc đời của bạn?" Thế là ta dễ dàng sa vào ảnh hưởng của họ. Thế là một lần nữa, ta lại chìm vào trong đống rác của đời sống thường ngày, không phương cách nào chuyển nó thành một cái gì đáng kể. Nhưng nếu ta được lòng tin bất động, thì sự tu tập của ta không ai lay chuyển nổi. Chẳng những không bị ngoại cảnh cuốn phăng đi, mà ta còn có thể chuyển hóa nghịch cảnh thành đường lối tu hành.

Đức tính thứ hai là giải thoát khỏi hoài nghi, do tâm không sáng suốt. Khi ta đã có tuệ giác sáng suốt, hiểu rõ những yếu tố khác nhau của pháp tu, như trình tự, mục đích của chúng v.v. thì tất cả những hoài nghi chướng ngại cho tu tập tự nhiên sẽ tan biến.

Điều quan trọng đối với chúng ta là phải biết rõ cơ cấu liên kết các pháp tu. Có nhiều người đã đi nghe giảng giáo lý khá nhiều năm, nhưng đôi khi tôi nghe họ phàn nàn: "Tôi hoàn toàn mù tịt không biết phải khởi sự từ đâu. Tôi đã thọ giáo với nhiều thầy, nên bây giờ tôi không biết ai là vị thầy chính của tôi. Tôi lại còn không biết phải tu pháp thiền quán nào trước hết." Nếu chúng ta đã học nhiều dề tài khác nhau, đã thọ nhiều pháp quán đảnh, đã được nhập môn nhiều pháp thiền quán, mà vẫn không biết làm sao để tu tập, thì điều ấy chứng tỏ chúng ta mất căn bản. Một điều đẹp đẽ trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng là nó có một cấu trúc hết sức rõ ràng từ đầu chí cuối. Có thể nói có một bản đồ rõ ràng về những trình tự tu chứng. Theo tôi điều này thật tuyệt. Bởi vậy nếu bạn cảm thấy hoang mang thì hãy theo một bậc thầy có kinh nghiệm, để tự mình kiểm chứng xem cấu trúc đó ra sao, rồi tu theo một cách tuần tự.

Điều thứ ba là cần phải phát triển sự tập trung toàn triệt, nhất tâm. Không thể nào đi sâu vào pháp tu và nếm được hương vị của nó nếu ta thiếu sự tập trung bền vững. Ví dụ, nếu muốn kiểm soát những luồng năng lượng khác nhau trong hệ thần kinh vi tế của ta, ta không thể có ý niệm mơ hồ về những luồng khí lực, chẳng hạn không biết chúng ở đâu, vận hành như thế nào. Ngược lại, ta phải có một hiểu biết thật chính xác, và điều này chỉ xảy đến nếu tâm ta hoàn toàn tập trung. Về điểm này, tu mật tông không khác gì làm các công việc khác. Những người thành công trong việc làm của họ, dù đó là việc học, hay chơi thể thao, hay bất cứ việc gì - tất cả đều có chung một điều là, tập trung cao độ. Nếu không có nó, người ta không thể tiến xa.

Hãy xét trường hợp sau đây. Người ta thường nói nhờ tu mật tông, mọi hoạt động được thúc đẩy bởi lòng ham muốn - như muốn uống một cốc sô cô la - đều có thể chuyển thành kinh nghiệm lạc tuệ lớn lao. Nếu đã tu tập khá, năng lực tập trung đủ mạnh, ta có thể theo dõi một cách chính xác những gì xảy đến khi ta thưởng thức cốc sô cô la ấy. Ta có thể lèo lái tất cả năng lượng đã được đánh thức đi theo một hướng nhất định, để làm tăng luồng nội hỏa ở đan điền. Hơi nóng này đưa nhiều năng lượng lạc thọ vào hệ thần kinh, và toàn thể kinh nghiệm này trở nên đầy hương vị nhờ tuệ giác khoáng đạt về tính "không hai". Đối với con người rõ biết những gì mình đang làm, thì việc uống một cốc sô cô la đơn giản cũng trở thành một phương pháp đầy năng lực để động đến thực tại về lạc tuệ. Điều ấy không phải chỉ mong muốn hay giả vờ, mà thực sự xảy ra.

Nhưng thông thường, chúng ta mất liên lạc với thực tại nội tâm. Chẳng hạn khi uống một cái gì, ta không có sự rõ biết trực tiếp về những gì xảy ra ở lưỡi, bao tử, hệ thần kinh hay thân tâm ta nói chung. Khác với một hành giả biết rõ điều gì đang xảy ra và có thể điều khiển năng lượng theo cách này cách khác khi cần, chúng ta không biết được. Thay vì kinh nghiệm lạc tuệ, có lẽ ta chỉ có kinh nghiệm đau bụng đi chảy.

Cuối cùng, muốn chứng đắc cao nhất, ta phải giữ bí mật sự tu tập của mình. Điều này nghe lạ lùng, song kỳ thực là một điểm rất quan trọng. Danh từ Mantra có nghĩa là che chở tâm, và chữ "mật" trong mật tông là để nhắc nhở cho ta nhớ rằng những phương pháp này cần được giữ riêng cho mình như một kho tàng quý báu. Ngày nay sự thực hành mật tông đã khá suy đồi; nhiều người tu mật tông lại đi khoe "tôi đang hành mật tông, hãy xem tôi có thể làm thế này, thế nọ." Một thái độ kiêu căng công khai như vậy là thiếu trí, nó chỉ làm chướng ngại cho việc tu tập. Chẳng thà giữ một bề ngoài khiêm cung trong khi bên trong là một hành giả cỡ lớn, còn hơn bên ngoài có vẻ lớn lối mà bên trong không có gì.

Những thiền giả vĩ đại trong quá khứ đã nói rằng nếu chúng ta đào luyện được bốn điểm trên đây - lòng tin bất hoại, chấm dứt hoài nghi, tập trung cao độ, và giữ bí mật - và thực hành một cách kiên trì và chính xác, thì những thực chứng chắc chắn ở trong tầm tay ta. Theo kinh nghiệm của nhiều hành giả, ta có thể đạt đến một điểm ở đó một sự bùng vỡ lớn về trí tuệ và thực chứng xảy ra. Nó như là phút trước ta vẫn còn là một phàm phu ngu tối mà phút sau đã biến thành một hành giả thực chứng cao siêu. Đây không phải là điều bịa đặt, nó đã thực sự xảy ra. Con người thuờng tình chúng ta bị gói kín trong những tấm màn mê tín. Nếu có thể nới lỏng bớt những khái niệm ngột ngạt này, ta có thể đoạn tuyệt để xuyên thấu chiều sâu của thực tại. Trong khi ta không chờ đợi cái gì đặc biệt xảy đến, thì bỗng dưng bùng nổ một thực chứng lớn lao, không cần dụng công nỗ lực. Nhưng không ích gì chỉ đọc kinh nghiệm của người khác. Muốn được những lợi lạc của sự chuyển hóa trong mật tông, chính ta phải đào luyện những kinh nghiệm ấy.

LỜI BẠT

Mặc dù bệnh suy tim của Ngài đã đến tình trạng nguy hiểm, thầy Yeshe cho đến cuối đời, vẫn tỏ bày sự quan tâm đến mọi người hơn là đến chính mình. Trong thời gian phải được săn sóc đặc biệt tại bệnh viện, ngài vẫn còn hỏi thăm sức khỏe và sự an bình của những người khác, vẫn thường phá lên cười, và nói đùa với các cô y tá. Thầy Zopa kể lại: "Không lâu trước khi viên tịch, lúc người ta định làm phẫu thuật tim ngài, ngài đã bảo tôi: Dù phẫu thuật có thành công hay không, cũng không sao cả, vì tôi đã đem hết thân tâm phục vụ người khác. Tôi hoàn toàn thỏa mãn với những gì đã làm, nên cái chết không làm tôi dao động." Cuối cùng, vào đầu năm âm lịch, thầy Yeshe qua đời. Ngài trút hơi thở cuối cùng vào lúc bình minh, giờ mà nhiều hành giả vĩ đại đã viên tịch.

Những từ ngữ như "qua đời", "viên tịch", thường được xử dụng một cách văn vẻ để làm dịu bớt tính chất tuyệt vọng đáng buồn của cái chết. Nhưng ở đây những từ ấy có một ý nghĩa đặc biệt, vì theo giáo lý mật tông, cái chết không phải là sự hủy diệt hoàn toàn như người ta thường lo sợ. Đấy là một giai đoạn trong tiến trình tuần tự thăng hoa của tâm thức vẫn tiếp diễn cho đến khi đạt đến tầng vi tế nhất, sau đó tâm mới lìa khỏi xác. Trong khi xác thân khởi sự tan rã, thì tâm thức vẫn tiếp tục để cuối cùng gặp đủ điều kiện thích hợp cho sự nhập xác mới, gọi là tái sinh.

Như thầy Yeshe đã giải thích, một người nếu chưa chuẩn bị đầy đủ, thì sự di chuyển từ đời này sang đời khác xảy ra ngoài tầm kiểm soát hoặc lựa chọn của họ. Họ chết và tái sinh mà vẫn giữ nguyên tình trạng sân si chấp thủ như trước. Nhưng đối với một bồ tát thì trái lại. Với một tâm sáng suốt, tỉnh giác, người có nguyện lợi tha như thế thường tận dụng sự tỉnh giác sáng suốt đầy hỷ lạc vào lúc chết, để chọn một tái sinh thích hợp giúp họ có thể tiếp tục phục vụ tha nhân.

Đây là trường hợp cái chết của thầy Yeshe. Không những ngài đã giữ được tư thái an bình vui vẻ trong cơn trọng bệnh, mà ngài còn có thể duy trì sự tỉnh giác và hoàn toàn kiểm soát được toàn thể tiến trình chết và sau đó nữa.

Khoảng một giờ trước khi chết vào ngày 3 tháng 3 năm 1984, thầy Yeshe đã yêu cầu thầy Zopa thị giả thường trực của Ngài, cùng Ngài thực hành pháp quán thần Heruka. Rồi trước lúc bình minh, tim Ngài ngưng đập, và Ngài được xem như đã chết trên phương diện lâm sàng. Nhưng tâm của ngài vẫn chưa rời thân xác, ngài vẫn tiếp tục thiền quán không tán loạn, trong lúc bác sĩ phụ trách nỗ lực suốt hai tiếng đồng hồ để phục hồi tim ngài.

Cuối cùng ngài được chuyển đến một phòng khác trong bệnh viện, ở đó ngài vẫn tiếp tục trạng thái thiền định vi tế nhất suốt ngày hôm đó, cùng với nhiều đệ tử hiện diện. Vào khoảng 5 giờ chiều, một người bỗng để ý cái đầu của ngài hơi di động, nhưng cứ tưởng mình bị ảo giác. Nhưng ngay khi đó, thầy Zopa quay lại bảo : "Bây giờ, ngài đã chấm dứt thời thiền quán." Lúc ấy tâm của thầy Yeshe cuối cùng đã lìa khỏi thân xác.

Vào ngày 12 tháng 2 năm 1985, một bé trai được sinh vào một gia đình người Tây Ban Nha. Lúc sinh tiền thầy Yeshe đã từng nói Ngài có nhiều nhân duyên với gia đình này; đôi vợ chồng trẻ sống và làm việc tại trung tâm nhập thất Osel Ling, do ngài thành lập ở Tây Ban Nha, gần Granada. Hài nhi ấy tên là Osel có nghĩa "Ánh Sáng Trong Suốt." Khi được 14 tháng tuổi, em bé đã được thầy Zopa đệ tử thầy Yeshe công nhận là tái sinh của thầy mình, và sự công nhận ấy đã được đức Dalai lama xác chứng. Trong buổi lễ chính thức công nhận, đức Dalai lama tuyên bố khi bé Osel nói sõi, em sẽ cho biết chắc chắn mình là tái sinh của thầy Yeshe. Kể từ đấy, nhiều người từ khắp thế giới đã có dịp đến thăm hài nhi tu sĩ Osel. Mặc dù còn bé, em đã cho thấy những dấu hiệu lạ lùng, ngay cả đối với những người hết sức hoài nghi về tái sinh. Chẳng hạn chú bé có thể nhận ra những người và nơi chốn trong đời trước của mình. Thầy Osel được đăng vị tại Dharamsala, Ấn độ, vào ngày 17 tháng 3 năm 1987, có nhiều đại diện các đài truyền hình, truyền thanh tham dự.

Khi nhanh chóng trở lại đời này để đáp ứng yêu cầu tha thiết của các đệ tử, thầy Yeshe đã giữ trọn lời hứa tiếp tục hạnh lợi tha. Không những thế, cái cách ngài chết và tái sinh đã chứng minh một cách hùng hồn, giá trị và năng lực của những giáo lý được trình bày trong cuốn sách dẫn nhập này. Cầu mong cho những người hữu duyên sẽ tìm được lợi ích và niềm vui trong giáo lý về sự chuyển hóa của mật tông. Cầu mong thầy Osel sẽ có một đời sống phong phú trường thọ để có thể lợi lạc nhiều người, đem lại nguồn cảm hứng cho đa số. Cầu mong cho tất cả hữu tình được hạnh phúc.

---o0o---

Nguồn: www.thuvienhoasen.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/11/2014(Xem: 17596)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
10/11/2014(Xem: 5738)
Diễm, từ Việt Nam gửi một tin nhắn cho tôi qua Yahoo Messenger để hỏi về Mật Tông. Cô bảo sáng nay vào paltalk nghe thiên hạ nói về hai chữ đó mà phút cuối vẫn mù mờ. Tôi hỏi sao cô không hỏi trực tiếp trong Room, cô nói giọng Huế của mình trọ trẹ khó nghe, nói ra lỡ người ta không hiểu thì dị òm (mắc cỡ chết). Tôi cứ băn khoăn không biết phải nói sao về một chuyện không phải sở trường của mình. Không nói thì kẹt cho cả đôi bên: Diễm tiếp tục mù tịt về một chuyện kể cũng nên biết và tôi mang tiếng ăn quẩn cối xay. Dù thiệt ra thiên hạ có nghĩ sao thì trái đất vẫn quay mà.
31/05/2014(Xem: 9079)
Để giải thích về giá trị của Kalachakra - Thời Luân, Đức Dalai Lama đã nhấn mạnh tiềm năng vĩ đại về lợi ích Kalachakra đem lại như sau: “Quán đảnh Thời Luân là một trong những điểm đạo quan trọng nhất … vì chúng ta sẽ vận dụng được tất cả các yếu tố như thân và tâm của con người bên trong, cùng với toàn thể môi trường bên ngoài gồm có vũ trụ và thiên văn. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng đại lễ Thời Luân có năng lực giúp giảm thiểu các xung đột và chúng ta cũng tin tưởng rằng Thời Luân còn có khả năng kiến tạo niềm an lạc tinh thần, và qua đó, mang lại hòa bình cho thế giới.” - His Holiness the Dalai Lama in C. Levenson’s “The Dalai Lama, A Biography”
14/06/2013(Xem: 4934)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni. Điều nầy được nói đến đầu tiên trong chương “Mạng sống của Như lai (Tathāgata)” trong kinh Liên Hoa (Lotus Sūtra), một tác phẩm được hoàn thành cuối cùng vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Ở đây, Đức Phật giải t
06/06/2013(Xem: 9282)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
04/06/2013(Xem: 22501)
Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
28/04/2013(Xem: 31608)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
18/04/2013(Xem: 7856)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
18/04/2013(Xem: 7324)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
18/04/2013(Xem: 7068)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệ và từ bi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com