Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh “người Biết Sống Một Mình"

19/11/202122:41(Xem: 6880)
Kinh “người Biết Sống Một Mình"

Kinh người Biết Sống Một Mình

KINH “NGƯỜI BIẾT SỐNG MỘT MÌNH"
(Bhaddekaratta Sutta)
     ------------------------------  
  THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

                                


I. DẪN NHẬP

Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.

 Đọc tựa đề “Người Biết Sống Một Mình chúng ta thường nghĩ ngay đến một người không thích sống ở nơi phố chợ ồn ào, không thích sống chung trong đoàn thể đông người, mà chỉ thích sống độc cư ở nơi vắng vẻ. Điều này đúng hay sai? Chúng ta cùng nhau đọc kinh sẽ hiểu.


 II. VĂN KINH NGƯỜI BIẾT SỐNG MỘT MÌNH

(Trung Bộ Nikãya số 131)

Sau đây là những điều tôi đã được nghe lúc đức Thế Tôn còn lưu trú ở tịnh xá Kỳ Viên trong Vườn Kỳ Đà tại thành Xá Vệ; Ngài gọi các vị khất sĩ và bảo:
- Này quý thầy.

 

Các vị khất sĩ đáp:
- Có chúng tôi đây.

 

Thế Tôn dạy:

- Tôi sẽ nói cho quý thầy nghe thế nào là người biết sống một mình. Trước hết tôi nói đại cương, sau đó tôi sẽ giải thích. Quý thầy hãy lắng nghe:

- Thưa Thế Tôn, chúng tôi đang lắng nghe đây.

Đức Thế Tôn dạy:
Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tấn hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả.
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là:
Người Biết Sống Một Mình.

Này quý thầy, sao gọi là tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tri giác ta từng như thế, tâm tư ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì khi ấy người đó đang tìm về quá khứ.

“Này quý thầy, sao gọi là không tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tri giác ta từng như thế, tâm tư ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế mà không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì khi ấy người đó đang không tìm về quá khứ.

“Này quý thầy, sao gọi là tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ như thế kia, cảm thọ ta sẽ như thế kia, tri giác ta sẽ như thế kia, tâm tư ta sẽ như thế kia, nhận thức ta sẽ như thế kia. Nghĩ như thế mà khởi tâm ràng buộc, lo lắng hay mơ tưởng về những gì thuộc về tương lai ấy, thì khi ấy người đó đang tưởng tới tương lai.

“Này quý thầy, sao gọi là không tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: trong tương lai hình thể ta sẽ như thế kia, cảm thọ ta sẽ như thế kia, tri giác ta sẽ như thế kia, tâm tư ta sẽ như thế kia, nhận thức ta sẽ như thế kia. Nghĩ như thế mà không khởi tâm ràng buộc, lo lắng hay mơ tưởng về những gì thuộc về tương lai, thì người đó đang không tưởng tới tương lai.

“Này quý thầy thế nào là bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người không học, không biết gì về Bụt, Pháp, Tăng, không biết gì về các bậc hiền nhân và giáo pháp của các bậc này, không tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tri giác này là mình, mình là tri giác này, tâm tư này là mình, mình là tâm tư này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này… thì người đó đang bị lôi cuốn theo hiện tại.

“Này quý thầy, thế nào là không bị lôi cuốn theo hiện tại. Khi một người có học, có biết về Phật, Pháp, Tăng, có biết về các bậc hiền nhân và giáo pháp của họ, có tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, không cho rằng hình thể này là mình, mình là tri giác này, tâm tư này là mình, mình là tâm tư này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này… thì khi ấy người đó đang không bị lôi cuốn theo hiện tại.

“Đó, tôi đã chỉ cho quý thầy biết đại cương và giải thích cho quý thầy nghe về thế nào là người biết sống một mình”. 

Phật nói xong, các vị khất sĩ đồng hoan hỷ phụng hành.”


III. Tìm hiểu kinh  “NGƯỜI BIẾT SỐNG MỘT MÌNH”

Thời Đức Phật, có một vị Tỳ-Kheo tên là Thượng Tọa (Thera mãna) thường ca ngợi hạnh sống một mình. Thực hành lối sống độc cư này, hằng ngày thầy ấy rời trú xứ đi khất thực một mình, thọ trai một mình, thiền hành một mình, tọa thiền một mình v.v… Thầy sống một mình như vậy, không  thích liên hệ với mọi người. 

Các vị đồng tu thấy hạnh tu của thầy Thượng Tọa có cái gì hơi khác lạ, nên một ngày kia, tại tịnh xá Kỳ Viên các thầy thỉnh ý đức Thế Tôn về lối sống độc cư của Tỳ-kheo Thượng Tọa để xem đức Thế Tôn dạy như thế nào!

Đức Phật cho gọi thầy Thượng Tọa tới. Thầy Thượng Tọa trình lên Phật là thầy chỉ sống một mình, ở riêng một nơi, một mình đi khất thực, một mình ra khỏi xóm làng, một mình ngồi thiền v.v…  Tóm lại thầy ca ngợi hạnh sống một mình!

Do duyên này, mà đức Phật giảng kinh “Người Biết Sống Một Mình” (*)


- Trong Trung Bộ kinh số 131
kể lại khi đức Phật lưu trú ở tịnh xá Kỳ Viên trong vườn Kỳ Đà tại thành Xá Vệ, Ngài gọi các vị khất sĩ đến và dạy thế nào là “Người Biết Sống Một Mình” qua bài kệ:

Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tấn hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là:
Người Biết Sống Một Mình.
 

Bài kinh này, đức Phật dặn dò các vị Tỳ-kheo chớ tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi. Gợi nhớ và sống lại với quá khứ không có lợi gì hết. Không tưởng tới tương lai vì tương lai chưa tới, đồng thời cũng không để bị lôi cuốn vào những hoàn cảnh trong hiện tại. 

- Trong kinh đức Phật dạy “đừng tìm về quá khứ”. Ngài giải thích  người tìm về quá khứ là khi người ấy ngồi nơi đây mà nhớ về quá khứ. Nhớ rằng lúc còn trẻ mươi, mười lăm, hai chục năm về trước dáng vóc ta thon gọn, đẹp đẽ như thế này, làn da tươi sáng như thế kia. Tâm trạng ta vui vẻ sung sướng như thế nọ, đầu óc ta thường suy nghĩ mộng mơ như thế nào và nhận thức của ta ra làm sao v.v…  Người đó nhớ lại toàn bộ “danh sắc” (ngũ uẩn) của mình như vậy, rồi khởi tâm tiếc nuối, quyến luyến thì ngay khi ấy, người đó đang tìm về quá khứ. 

Nếu người đó có nhớ lại quá khứ (như trên) nhưng không ôm ấp, không quyến luyến, không mong muốn được sống lại những ngày trong quá khứ thì người đó không tìm về quá khứ”.

- Phật dạy tiếp  đừng tưởng tới tương lai. Ngài giải thích người tưởng nghĩ tới tương lai” là người đang sống trong hiện tại mà tưởng đến một ngày nào đó, trong tương lai thân thể mình sẽ như thế này, cảm thọ mình sẽ như thế kia, tâm tư mình sẽ như thế nọ, tri giác mình sẽ như thế ấy, nhận thức mình sẽ như thế này… rồi khởi tâm ràng buộc, lo lắng, hay mơ tưởng những gì thuộc về tương lai (không thật có trong hiện tại) thì người ấy đang mơ tưởng tới tương lai. 

Nếu người đó nghĩ đến tương lai, thí dụ như một ngày nào đó hình thể như thế này, cảm thọ như thế kia, tri giác như thế nọ, tâm tư như thế kia và nhận thức như thế này. Nghĩ như thế mà không khởi tâm dính mắc, lo lắng, hay mơ tưởng thì người đó không tưởng đến tương lai.

Phật dạy tiếp “Hãy quán chiếu sự sống/Trong giờ phút hiện tại/Kẻ thức giả an trú/Vững chãi và thảnh thơi”. Đối với hiện tại đức Phật cũng dặn dò các Tỳ-kheo không để bị ngũ dục lôi cuốn theo hoàn cảnh trong hiện tại, chỉ nên an trú trong tâm thảnh thơi vững chãi. Ngài giải thích người không bị lôi cuốn trong hiện tạilà người có học và tu tập theo lời Phật dạy. Nhờ có học nên hiểu rõ tấm thân này không thực chất tính. Nó có được là do năm nhóm kết hợp mà thành. Một trong các nhóm này hư hoại thì tấm thân này cũng hư hoại theo. Nhờ thông hiểu nên người này không cho thân thể này là mình, mình là thân thể này; không cho tri giác này là mình, mình là tri giác này; không cho tâm tư này là mình, mình là tâm tư này; cũng không cho nhận thức này là mình… Khi nghĩ đến toàn bộ danh sắc (thân tâm) không cho danh sắc này là mình, mình chính là danh sắc này, thì người đó không bị hiện tại lôi cuốn.

“Người bị hiện tại lôi cuốn” là người không biết đến Phật, Pháp, Tăng, không được học và tu tập theo các pháp của các vị Chân nhân. Người này nghĩ rằng tấm thân này, tâm tư này, tri giác này, nhận thức này là mình, của mình, thì người ấy đang bị lôi cuốn theo hiện tại. 

Đó là đức Phật dạy các Tỳ-kheo không nên dính mắc với quá khứ, tương lai và hiện tại, thuật ngữ gọi là “tâm ba thời, mà chỉ nên sống với giờ phút bây giờ và ở đây. Sống ngay trong giây phút hiện tại bây giờ và ở đây là sống trong chánh niệm. Sống trong chánh niệm là sống với cái biết khách quan, biết rõ ràng pháp đang xảy ra ngay trong bây giờ và ở đây. Nhờ sống trong chánh niệm tâm chúng ta không phóng dật, lang thang, vọng tưởng … nên được định tĩnh sáng suốt. Nói theo kinh là tâm được vững chãi và thảnh thơi.

Phải tinh tấn hôm nay/Kẻo ngày mai không kịp/ Cái chết đến bất ngờ/Không thể nào mặc cả/Người nào biết an trú/ Đêm ngày trong chánh niệm/Thì Mâu Ni gọi là:/Người Biết Sống Một Mình”. Đức Phật nhắc nhở chúng Tỳ-kheo phải chuyên cần tu tập, vì không ai biết được cái chết đến lúc nào. Như vậy, đại ý bài kinh “Người Biết Sống Một Mình” là bất luận người ấy sống ở đâu cũng tu tập “an trú trong chánh niệm” chứ không phải sống riêng rẻ một mình mà không biết pháp tu. Sống trong chánh niệm là sống trong Chân tâm, trong Tánh Giác. Khi giác quan tiếp xúc đối tượng, biết không lời về đối tượng, nghĩa là biết cái đang là, cái thật tướng của đối tượng ngay trong giờ phút bây giờ và ở đây. Đó là sống có chánh niệm.


IV. CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ BÀI KINH

“NGƯỜI BIẾT SỐNG MỘT MÌNH”

Biết sống một mình, theo như nội dung bài kinh ở đây, không có nghĩa là sống cô độc lẻ loi, sống xa cách với mọi người.  Biết sống một mình ở đây là sống tự chủ, có tự do không bị quá khứ giam hảm, không bị tương lai hù dọa, cũng không bị lôi cuốn theo hoàn cảnh hiện tại bởi: tài , sắc, danh, thực, thùy. Cho nên dù người đó, sống bất cứ nơi đâu, nơi đông người, ở thành thị, thôn quê hay những nơi xa xôi hẻo lánh, thì người đó vẫn an nhiên tự tại, vì được giải thoát khỏi tâm ba thời, thoát mọi đau khổ phiền não, nhờ sống có chánh niệm. Muốn thành tựu chánh niệm tỉnh giác, trước hết chúng ta cần ghi nhớ cái gì đã qua thì đoạn tận. Cái gì chưa đến thì khước từ không ôm ấp mơ tưởng. Trong cuộc sống hiện tại những lợi dưỡng cho bản thân thì phải khéo chế ngự tham dục.

Tóm lại, Kinh “Người Biết Sống Một Mình” dạy chúng ta nghệ thuật sống an lạc hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, bằng cách luôn phản tỉnh lại chính tâm của mình, luôn quan sát các hành động của thân, khẩu, ý. Làm điều gì, nói năng điều gì, suy nghĩ điều gì, mình phải tự quán xét, xem nó có ẩn chứa tham sân si, gây phiền não cho chính mình và người khác hay không? Thường xuyên sống trong chánh niệm, tâm được yên lặng, định tĩnh và sáng suốt. Có định và tuệ thì chúng ta nhận ra chân lý của sự sống. Phàm con người sống ở đời có khổ có vui, có thành có bại, có sống có chết. Tu tập an trú trong chánh niệm tỉnh thức, chúng ta sớm trở thành nhân chứng” đối với cuộc đời, không bị đời sống thế gian cuốn hút.

Bài kinh “Người Biết Sống Một Mình, đức Phật đã chỉ bày cho chúng sanh về nghệ thuật sống để được an lạc hạnh phúc một cách sâu sắc ngay trong từng sát-na hiện tại.  Chúng ta đừng quên trong kinh từng nhắc nhở được sanh làm người rất khó. Phải có nhiều phước báu lắm chúng ta mới được sanh làm người. Được làm người, chúng ta cũng đừng quên rằng đời người rất ngắn, mà thời gian trôi qua thì rất nhanh. Và cái chết đến bất cứ lúc nào, không ai có thể mặc cả. Cho nên mình phải biết trân quý sự sống. Sống sao cho xứng đáng một kiếp người. Đó là sống có trí tuệ. Muốn thế chúng ta phải tu tập ngay bây giờ, để mau trở thành người tự chủ, tự do, giải thoát khỏi mọi chấp trước, không bị ràng buộc bởi bất cứ ái nhiễm và niệm bất thiện nào, để khi thần chết bất ngờ đến, mình chấp nhận nhẹ nhàng ra đi mang theo hành trang công đức tu tập và trí tuệ tâm linh của riêng mình sang thế giới khác.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

CHÂN TÂM thiền thất ;  17/11/ 2021


Tài liệu: 

(*) Kinh Tạp A-Hàm số 1071: “Kinh Người Biết Sống Một Mình”. Hòa Thượng Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch sang Việt văn.

Kinh Trung Bộ số 131 “Bhaddekaratta Sutta”. Bản tiếng Việt của Cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu “Nhất Dạ Hiền Giả”. Bản tiếng Việt của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh “Người Biết Sống Một Mình”.

(**) E-book “Ứng Dụng Lời Phật Dạy”, chương “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả” (www.thuvienhoasen.org), tác giả Thích Nữ Hằng Như, Ananda Việt Foundation xuất bản 2021.



facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 8156)
Ngày nay người ta đi hàng trăm ngàn dặm để được trông thấy các thiền sư, trực tiếp gặp họ để tham vấn. Nhưng rất ít người có dịp để đặt câu hỏi: tôi phải làm sao với những nỗi giận dữ, ghen tuông, thù ghét, sợ hãi, buồn sầu, tham vọng, si mê trong tôi - tất cả những rắc rối thường xâm chiếm tâm tư con người? Tôi phải cư xử với công việc, cha mẹ, con cái, vợ hoặc chồng, tôi tớ, xếp của tôi như thế nào, tất cả những tương giao làm nên đời sống ấy? Thiền có cách nào giúp tôi không?
08/10/2010(Xem: 12275)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
30/09/2010(Xem: 4182)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), PTVN đã gặp sư Phước Nhân, một hành giả giỏi pháp hành của thiền viện Phước Sơn để xin sư nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
29/09/2010(Xem: 6790)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp môn có mục đích và phương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
28/09/2010(Xem: 5161)
Theo Thiền sư Tôn Mật, đời Đường, thì có thể phân chia Thiền làm 5 loại, trong đó có 3 loại thực sự theo đúng đường lối tu hành của đạo Phật là : Thiền Nguyên thủy (Tiểu thừa ), Thiền Đại thừa, và Thiền Như Lai tối thượng. Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí" (trích: Đại thừa Phật giáo Tư tưởng luận).
28/09/2010(Xem: 6785)
Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay "Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền. Ở đây chúng tôi hạn chế trong Kinh Tạng Pàli mà không đề cập đến A-tỳ-đàm - Tạng Pàli, với chủ đích muốn giới thiệu cho các Phật tử hiểu rõ Thiền nguyên thủy là gì, trước hết là ngang qua kinh nghiệm bản thân của đức Phật khi ngài chưa thành Đạo, khi Ngài thành Đạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp và cuối cùng khi Ngài nhập Niết-bàn.
23/09/2010(Xem: 13835)
Thực hành Phật giáo là tiến hành một cuộc chiến đấu giữa những thế lực tiêu cực và tích cực trong tâm bạn. Thiền giả nỗ lực làm tiêu mòn điều tiêu cực và phát triển, tăng trưởng điều tích cực. Những giáo lý trong quyển sách này là để chuyển hóa tâm thức; chỉ đọc hay nghe mỗi một đoạn thôi cũng có thể đem lại lợi lạc to lớn.
22/09/2010(Xem: 8223)
Tổ Hoàng Bá giữ một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tông vì đệ tử của tổ là tổ Lâm Tế, người đã sánglập ra tông Lâm Tế. Muốn hiểu rõ về tông Lâm Tế thì cần biết rõ về tổ Hoàng Bá là người đã đào tạo tổ LâmTế. Tại Trung Hoa, sau thời Lục Tổ thì Thiền Tông chia làm5 tông: Lâm Tế, Tào Động, Quy Nhưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Phần lớn các chùa tại Việt Nam trước đây đều thuộc tông Lâm Tế. Tại Nhật Bản thì hiện nay Zen (Thiền Tông)chỉ có hai tông được phát triển mạnh nhất là Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Động (Nh: Soto)...
22/09/2010(Xem: 6353)
Chưabao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lạiđược các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đềcập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter cácbáo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả nhữngkhám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởngtừ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều màtrước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là nhữngcảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567