Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Tứ như ý túc

02/04/201101:41(Xem: 6306)
9. Tứ như ý túc

KINH NGHIỆM THIỀN QUÁN
Tác giả: Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. Con đường tu tập

Tứ như ý túc

Đức Phật có dạy về bốn con đường đưa ta đến thành công, đến sự viên mãn. Đức Phật gọi chúng là Tứ như ý túc, những con đường lúc nào cũng đưa ta tiến tới. Chúng là bốn phẩm hạnh đặc thù trong cá tính chúng ta, mà mỗi phẩm hạnh phản ảnh một sức mạnh đặc biệt. Nếu ta biết được phẩm hạnh nào là ưu điểm của mình, từ đó ta có thể dựa trên sức mạnh sẵn có mà phát huy và thực hiện được những gì cần làm.

Đôi khi người ta quan niệm rằng tu hành có nghĩa là sống mà không còn một sự say mê nào nữa, dập tắt hết những ngọn lửa trong tâm - nghĩa là phải có một thái độ lạnh lùng, hoàn toàn thụ động, xa lìa thế sự. Nhưng quan niệm này hết sức sai lầm! Vì mỗi một con đường đi đến giải thoát vừa kể trên đều đòi hỏi một sự đam mê phi thường, một ngọn lửa rực cháy trong tâm. Đối với chúng ta, những người mà niềm đam mê ấy đang khơi động, đạo pháp trở thành một lý tưởng tối thượng của đời mình.

Con đường thứ nhất để đi đến thành công, nuôi dưỡng chí tu hành của ta, là dục như ý túc - dục ở đây là một sự ham muốn thực hành, để thanh tựu một việc gì. Khi có phẩm hạnh này, ta sẽ biết rằng không có bất cứ một điều gì có thể ngăn trở mình được. Chúng ta không bao giờ cảm thấy toại nguyện, trừ khi nào ta đạt đến mục tiêu mình muốn. Đôi lúc, khi nghĩ về phẩm hạnh này, tôi liên tưởng đến lòng nhiệt thành và động lực phi thường của các nhà thể thao Thế vận hội, hay những nhạc sĩ đại tài, hoặc là bất cứ những ai đã thực hiện việc gì đến mức toàn mỹ. Phẩm hạnh của dục và lòng nhiệt thành là động lực chính thúc đẩy họ đi trên con đường đời: “Tôi sẽ làm việc ấy! Tôi sẽ thực hiện được việc ấy!” Và rồi với sức mạnh đó trong tâm, của một nghị lực không thối chuyển, họ sẽ thành công. Vì thế cho nên dục, tức một hoài bão và nhiệt tâm mãnh liệt, là một trong bốn con đường đưa ta đến thành công.

Con đường thứ hai là Tinh tấn như ý túc. Đây là một phẩm hạnh của nghị lực. Một người có đức tính cương quyết này lúc nào cũng cảm thấy bị thách thức bởi ý nghĩ “Công việc này đòi hỏi một nghị lực đáng kể. Và tôi sẽ thực hiện được việc ấy.” Những người như vậy thì chẳng những không sờn lòng trước khó khăn mà còn cam thấy phấn khởi vì sự thách thức. Họ quan niệm rằng: “Những việc gì đòi hỏi sự cố gắng để đạt đến thành công thì tôi sẽ làm được!”

Trước đây tôi có đọc một bài báo viết về cái chết của con ngựa đua nổi danh Secretariat. Bài báo ca tụng trái tim dũng cảm của con ngựa này, và diễn tả lại cái đảm khí của nó được biểu lộ một cách hùng tráng trong những cuộc đua như thế nào. Cũng vậy, khi hành động của ta xuất phát từ nơi ấy trong trai tim, gắng hết sức không chút nghi ngại, nó sẽ phát sinh một sức mạnh và một năng lực vô song!

Dipa Ma, một vị thầy của tôi ở Ấn Độ, là một thí dụ cho phẩm hạnh anh dũng không lùi bước này. Trong thời gian tu tập, có lúc bà bị bệnh và yếu đến nổi phải bò trên những nấc thang để đi lên thiền đường và tiếp tục ngồi thiền. Không gì khuất phục được bà. Lần cuối tôi gặp bà trước khi bà mất, Dipa Ma quay sang bảo tôi: “Chú biết không, chú nên thử gắng ngồi thiền trong hai ngày.” Nhưng bà không nói là một khóa thiền kéo dài hai ngày, ý bà là một lần tọa thiền kéo dài hai ngày liên tục! Chỉ ngồi thôi, hai ngày như vậy! Khi nghe bà nói thế, tôi phá lên cười vì biết rằng điều đó hoàn toàn ngoài khả năng mình. Bà nhìn tôi với một ánh mắt từ bi sâu xa và nói: “Chú đừng có lười biếng đấy nhá!”

Dipa Ma có một nghị lực đáng kính phục, và điều đó đem lại cho bà một kết qua chỉ có thể phát xuất từ tâm kiên cố. Những ai có đức tính này, với sức mạnh này, là những người có một khả năng tinh tấn, sẽ không bao giờ chán nản vì con đường quá dài hoặc quá gian nan. Cho dù hành trình có kéo dai nhiều tháng, hoặc nhiều năm, điều ấy không đáng kể - vì họ là những người có dũng lực.

Đức Phật cũng là một biểu tượng cho phẩm hạnh này. Trước khi thành đạo, khi vẫn còn đi tìm chân lý, ngài đã cương quyết như sau: “Nếu mục tiêu có thể đạt được bằng sự cố gắng của con người, tôi sẽ không bao giờ ngừng nghỉ hoặc thối chuyển cho đến ngày thành đạt. Cho dù chỉ còn lại gân, da bọc xương; cho dù máu thịt tôi khô cạn, tôi nhất định sẽ không thối lui sự tinh tấn của mình, cho đến ngày nào tôi đạt được những gì có thể đạt được bằng khả năng, bằng sự cố gắng và kiên chí của con người.”

Con đường thứ ba để đi đến thành công là tâm nguyện tu tập theo đạo Pháp, hay là Niệm như ý túc. Lòng yêu chân lý này sẽ giữ cho tâm ta lúc nào cũng miệt mài với sự tu tập. Tình yêu đó bao gồm một tâm thức thanh tịnh rất lớn và một nhiệt tâm vô bờ bến. Như lần đầu tiên biết yêu - theo thường tình thế gian - tâm bạn lúc nào cũng chỉ tưởng nhớ đến người mình yêu. Tình yêu đạo pháp cũng có một cường độ tương tự như thế. Tình yêu ấy sẽ biến thành con đường dẫn đến tuệ giác khi nó tràn ngập tâm ta. Chung ta lúc nào cũng tưởng nhớ và thực hành theo đạo pháp, và trên đời này không còn một chuyện gì khác là quan trọng hơn nữa. Tình yêu ấy giữ cho ta vững tiến. Nó chính là một tình yêu cao thượng nhất, quý giá nhất trong ta!

Con đường thứ tư dẫn đến thành công là phẩm hạnh của tư duy, tham cứu đạo lý, tức Tư duy như ý túc. Có những người có sự ham thích mạnh mẽ, muốn thấu hiểu được những khía cạnh sâu xa nhất, uyên thâm nhất của Phật pháp. Họ không bao giờ bằng lòng với sự hiểu biết tầm thường nông cạn. Cái tâm tư duy ấy quán chiếu sự vô tận của vòng sinh tử luân hồi - samsara - sự vô bờ bến của các cõi sinh linh, và qua cái nhìn bao quát ấy, họ thấy được những vướng mắc trong cuộc sống. Một người với nhiệt tâm học hỏi sẽ thấy và hiểu được các nguyên nhân tiềm ẩn của khổ đau và ý thức được khả năng giải thoát của chính mình. Họ sẽ cảm thấy rất vui thú khi tham hiểm vào vùng bí mật thâm sâu nhất của tâm thức.

Bất cứ ai có được một trong bốn đức tính căn bản này, không chóng thì chầy rồi cũng sẽ đi đến giải thoát. Chúng ta có thể giải thoát được nhờ sức mạnh của lòng dục, tức cái tâm tham muốn và động năng thúc đẩy ta trên đường tu tập; ta cũng có thể đi đến giải thoát qua đức tinh tấn, cương quyết, một nghị lực không có gì ngăn trở nổi; ta có thể được giác ngộ nhờ sự say mê và lòng yêu quý đạo pháp; và ta cũng có thể kinh nghiệm được giải thoát bằng năng lực của quán chiếu, một nhu cầu tham cứu và hiểu biết. Một trong bốn đức tính ấy đều có thể là con đường đưa ta đến giải thoát.

Công việc của ta là làm sao nhận diện được đức tính nào là ưu điểm của mình, và dựa trên đó để làm nền tảng tu tập. Ta hãy nuôi dưỡng đức tính đó, phát triển nó và làm sao cho mỗi ngày được vững mạnh hơn. Sự thách thức lớn nhất cua đời ta là thực hiện được sứ mạng giải thoát, và làm sao để mang những đức tính giải thoát ấy hội nhập vào giây phút hiện tại. Con đường tỉnh thức hiện hữu trong mỗi giây, mỗi phút. Nó đang có mặt ngay bây giờ và ở đây. Ta có thể nào vừa giữ được tầm nhìn rộng lớn ấy, và cùng một lúc vừa hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại này không? Trước những gì là chân thật, ta có cảm thấy khích lệ không? Ta nên nhớ rằng sự tu tập nay không phải chỉ cho riêng mình mà thôi, nó còn vì hạnh phúc và lợi ích của mọi loài chúng sinh. Đức Phật đã chỉ cho ta thấy rõ bốn con đường để đi đến giải thoát. Phần còn lại là tùy ở nơi ta!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2012(Xem: 15161)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
17/11/2012(Xem: 4173)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 6311)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 9338)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 16242)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 14673)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8840)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 12574)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 15466)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3451)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]