Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Sống tỉnh giác từng ngày

07/02/201114:09(Xem: 9688)
10. Sống tỉnh giác từng ngày

LÝ THUYẾTVÀ THỰC TẾ
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2008 - PL. 2551

-10-

Sốngtỉnh giác từng ngày

1.Sống tỉnh giác từng ngày

"Mùamưa ta ở đây..." (Pháp Cú, 286)

Ðólà lời của Ðức Phật dạy cho ông Ðại Phú (Mahadhana), mộtvị thương gia, khi Ngài ngụ tại tinh xá Kỳ Viên.

Mộtngày nọ, vị thương gia nầy dùng 500 xe bò, chất đầy vảivóc với nhiều màu nhuộm tươi đẹp, lên đường từ thànhBa-na-lại đến các vùng xa để buôn bán. Khi đến thành Xá-vệ,ông ta gặp một sông lớn. Ông suy nghĩ: "Ngày mai ta sẽ quasông", rồi dừng xe lại, cởi ách cho các con bò, và nghỉquađêm tại bờ sông. Trong đêm đó, một trận bão kéo đếnvới mưa tầm tả cả đêm. Qua bảy ngày kế tiếp, nướcsông dâng cao, tạo lụt lớn, và người dân trong vùng đềuphải đình chỉ mọi sự buôn bán, đi lại. Kết quả là vịthương gia đó không thể bán các kiện hàng vải của ông.Vì thế, ông ta nghĩ rằng: "Ta đã trải qua một quảng đườngdài, nếu ta quay về thì lại bị trễ nải. Chi bằng ta cứở đây qua mùa mưa, qua mùa xuân và mùa hạ, tiếp tục cáccông việc giao dịch và cố gắng bán cho hết các loại hàngnầy..."

Khèức Phật đi trì bình khất thực trong thành phố, Ngài biếtđược ý định của vị thương gia đó và Ngài mỉm cười.Thấy thế, Ðại đức A-nan hỏi Phật vì sao Ngài cười. ÐứcThế Tôn đáp: "Này A-nan, thầy có biết ông Ðại Phú đókhông?"

"Dạcó, bạch Thế Tôn."

"Khôngbiết rằng mạng sống của mình đã gần hết, ông ta vừaquyết định sẽ ở lại đây cả năm để bán hết các kiệnhàng của ông ấy."

"Thậtvậy sao, bạch Thế Tôn?"

"Ðúngthế, này A-nan. Ông ta chỉ sống thêm được bảy ngày nữa,và nếu không khéo, ông ta sẽ bị các loài cá ăn thịt." Nóixong, Thế Tôn thốt lên bài kệ:

"Hãytinh tấn thi hành
việccần làm hôm nay.
Cóai biết chắc chắn
cáichết đến lúc nào?
Cóai chống lại được
mệnhlệnh của thần Chết?
Anlạc thay cho người
ngàyvà đêm tinh tấn
sốngtỉnh giác từng ngày!"

"BạchThế Tôn, con sẽ đến nói cho ông ấy biết," ngài A-nan thưavới Phật.

"A-nan,thầy cứ việc đi," Ðức Phật đáp.

Ðạiđức A-nan đi khất thực đến nơi ông Ðại Phú trú ngụvới đoàn xe buôn của ông. Ông ta kính cẩn dâng vật thựcđến ngài. Sau đó, Ðại đức nói với vị thương gia: "Ôngđịnh ngụ lại đây trong bao lâu?"

"BạchÐại đức, con đã trải qua một quảng đường dài, nếucon quay về thì lại bị trễ nải. Cho nên con sẽ ở đâytrọn năm, cho đến khi nào bán hết vải thì con mới ra đi."

"Nàyquý cư sĩ, mặc dù mạng sống đã gần hết mà ít ai lạibiết được! Ông nên tinh tấn!"

"BạchÐại đức, tại sao thế? Có phải đời sống của con đãgần mãn?"

"Ðúngvậy, quý cư sĩ. Mạng sống của ông chỉ kéo dài bảy ngàynữa thôi."

ÔngÐại Phú rất bàng hoàng và xúc động. Sau khi bình tâm trởlại, ông thỉnh mời Ðức Phật và Tăng đoàn đến nơi ôngngụ để thọ trai. Trong bảy ngày kế tiếp, ông cúng dườngvật thực đến chư Tăng, và trong ngày thứ bảy, ông xin phépđược rửa bát của Đức Phật và xin Ngài chúc phúc. Trongkhi chúc phúc, Ðức Thế Tôn giảng thêm:

"Nàyquý vị tu sĩ và cư sĩ, một người hiền trí không bao giờnên nghĩ rằng: ‘Tôi sẽ ở lại đây trong suốt mùa mưa.Tôi sẽ làm việc này, việc kia.’ Trái lại, người ấy lúcnào cũng nên sống tỉnh giác từng giây khắc và luôn luônquán chiếu về cái chết của mình như thể mình chỉ sốngthêm được một đêm nữa thôi." Sau đó, Ngài thốt lên cáccâu kệ dưới đây, về sau được ghi lại trong kinh Pháp Cú(kệ 286-289):

Mùamưa ta ở đây,
đông,hạ cũng ở đây,
ngườingu tâm tưởng vậy,
khôngtự giác hiểm nguy.

Ngườitâm ý đắm say
concái và súc vật,
tửthần bắt người ấy,
nhưlụt trôi hàng ngủ.

Mộtkhi tử thần đến,
khôngcó con che chở,
khôngcha, không bà con,
khôngthân thích che chở.

Biếtrõ ý nghĩa này,
bậctrí lo trì giới,
maulẹ làm thanh tịnh,
conđường đến Niết-Bàn. (Pháp Cú, 286-289)

Saukhi nghe xong bài giảng, vị thương gia tỉnh ngộ, thành tâmxin quy y Tam Bảo và đắc quả Dự lưu, các tu sĩ trong đoàncũng đạt được thắng trí.

Sauđó, ông Ðại Phú đưa tiễn Ðức Phật về tinh xá. Khi quaytrở lại nơi trú ngụ của mình, ông nói: "Tôi cảm thấynhức đầu, thân thể mệt mỏi!", và nằm xuống giường đểnghỉ. Vừa nằm xuống thì ông chết, và được tái sinh vàocõi trời Ðâu-suất.

*

2.Ðoạn diệt để giải thoát

Trong45 năm thuyết pháp độ sinh, Ðức Phật đã giảng dạy vàhóa độ cho rất nhiều người thuộc nhiều thành phần, căncơ và nguồn gốc khác nhau. Tùy cơ duyên mà Ngài sử dụngnhững phương cách giảng trạch khác nhau để khai mở trítuệ cho hàng đệ tử. Có khi Ngài dùng lời dịu dàng đểkhuyên răn những người đang bị hoạn khổ. Có khi Ngài dùngcác lý luận sắc bén để thuyết phục người tài trí. Cũngcó khi Ngài dùng các ẩn dụ mạnh mẻ gây sửng sốt, đểkhích động sự tu tập quán chiếu, khai mở trí tuệ giảithoát tri kiến.

Mộtngày nọ có một nhóm các thầy Tỳ khưu từ phương xa đếnđãnh lễ Phật. Trong dịp đó, Ngài dạy rằng:

"Saukhi giết cha mẹ rồi,
Giếthai vua nọ, hết đời hiếu tranh.
Chémtên quốc khố đại thần,
Diệtluôn lãnh thổ, quan quân tùy tùng.
Ðượcrồi quốc độ mênh mông,
BậcVô Ưu sống thong dong bốn mùa."

và:

"Mẹcha đã giết, đã chôn
Vàhai vua Bà-La-Môn, chém ngành.
Ðoạnviên hổ tướng thứ năm,
BậcVô Ưu sống cõi hằng vô sinh."

Ðólà hai câu kệ số 294 và 295 ghi trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada),do Tỳ khưu Giới Ðức chuyển dịch sang Việt ngữ (Kinh LờiVàng, Nxb Thuận Hóa, 1995). Hòa thượng Minh Châu (Kinh Pháp Cú,Tiểu bộ) dịch bằng hai câu kệ năm chữ như sau:

Hãygiết cha, giết mẹ
Giếthai vua Sát-Lỵ
Giếtvương quốc quần thần
Bà-la-mônnhư vậy,
Vôưu sống thoải mái

Hãygiết cha, giết mẹ
Giếthai vua Bà-Môn
Giếthổ tướng thứ năm
Bà-La-Mônnhư vậy,
Vôưu sống thoải mái.

Hòathượng Thiện Siêu (Kinh Pháp Cú, Thiền viện Vạn Hạnh, 1995)dịch ra văn xuôi từ bản dịch Hán tự:

"Hãydiệt mẹ và cha, diệt hai vua dòng Sát-Ðế-Lợi, diệt vươngquốc luôn cả quần thần, mà hướng về Bà-La-Môn vô ưu."

"Hãydiệt mẹ và cha, diệt hai vua dòng Bà-La-Môn, diệt luôn hổtướng 'nghi' thứ năm, mà hướng về Bà-La-Môn vô ưu."

KinhPháp Cú còn được dịch sang Anh ngữ bởi nhiều tác giảkhác nhau, chẳng hạn như Hòa thượng Narada (The Dhammapada, BuddhaEducational Foundation, Taiwan, 1995) và Tỳ khưu Khantipalo (The Pathof Truth, Mahamakut Press, Bangkok, 1977). Theo bản dịch của ngàiKhantipalo:

"One'smother and father having slain
andthen two warrior kings,
arealm and its treasurer having slain,
onegoes immune, a Brahmana"

"One'smother and father having slain
andthen two learned kings,
thefifth, a tiger having slain,
onegoes immune, a Brahmana"

Thậtkhó mà hiểu rõ được ý nghĩa của các câu kệ nầy nếuchúng ta không đọc bản Chú Giải ghi chép lại trong kinh tạngPali. Theo Tỳ khưu Khantipalo và Hòa thượng Narada, ý nghĩa củacác câu kệ đó như sau:

"...Mẹ là ẩn dụ cho lòng tham ái, và cha là ẩn dụ của ngãmạn. Chính vì tham ái và ngã mạn mà ta phải tái sinh nhiềuđời, nhiều kiếp trong cõi Ta bà luân hồi này. Hai vị vua,luôn luôn thống trị tâm tư duy của chúng ta, chính là haibiên kiến của vô minh: thường kiến và đoạn kiến, thườngtạo ra nhiều tranh cãi hý luận vô ích, cần phải đượcphá bỏ. Vương quốc lãnh thổ kia chính là thân xác nầy,gồm sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) luôn luôn giaotiếp với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Vịquốc khố đại thần là để chỉ lòng tham đắm dục lạcphát sinh và chất chứa từ sáu căn đó. Sau cùng, hổ tướngthứ năm chính là con quỷ thứ năm làm cản trở sự địnhtâm, khai phát tuệ minh. Ðó là sự hoài nghi, là yếu tố thứnăm trong nhóm năm triền cái: tham dục, sân hận, hôn trầm,trạo cử, và hoài nghi. Sau khi đã đoạn diệt tất cả cácchướng ngại nầy thì hành giả mới thong dong, tự tại, điđến giải thoát giác ngộ ..."

Theolời giải thích trong Chú Giải, sau khi lãnh hội và quán triệtđược ý nghĩa thâm sâu của hai câu kệ trên, các vị Tỳkhưu ấy đắc quả A-la-hán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2018(Xem: 6731)
Một bài nói chuyện của Lama Yeshe tại Bloomington, Indiana, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Được ấn tống trong Mandala magazine, tháng 9, năm 2002.
22/10/2016(Xem: 13524)
Thiền định dựa vào hơi thở là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền phát huy một sự chú tâm cao độ mang lại sự tĩnh lặng và thăng bằng cho tâm thức giúp mình trở về với chính mình hầu tìm hiểu tâm thức và con người của chính mình. Kỹ thuật đặc biệt này được áp dụng trong phép thiền định thật căn bản của Phật giáo Theravada là Vipassana.
08/12/2015(Xem: 41574)
Bạn đang cầm trong tay một cuốn cẩm nang hướng dẫn hành Thiền thật hữu ích và tinh tế, do một vị sư đầy kinh nghiệm tu tập uyên thâm trình bày. Ajahn Brahm là một trong những vị sư thuộc thế hệ mới của những tăng sĩ Tây phương đã tu học, thực hành và nắm vững giáo lý quan trọng của Đức Phật, và nay Sư cống hiến kinh nghiệm ấy cho các hành giả thành tâm trên khắp thế giới hiện đại.
31/10/2015(Xem: 13883)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
02/12/2014(Xem: 25598)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
03/10/2013(Xem: 12728)
Qua đề tài: “Sự tương quan giữa các pháp môn hành trì Thiền – Tịnh – Luật của người tu tập” mà chiều hôm nay sau hai tiếng đồng hồ với 11 ý kiến phát biểu, chia sẻ và cùng nhau thảo luận, chúng tôi hết sức hoan hỷ và trân trọng tinh thần tham gia đóng góp ý kiến của Đại chúng. Qua đó chúng tôi xin rút gọn lại và có mấy ý kiến đóng góp them để cùng nhau chia sẻ với Đại chúng như sau:
11/05/2013(Xem: 10000)
“Zen” là lối phát âm của Nhật Bản của danh từ Ch’an của Trung Hoa, mà từ này lại là lối phát âm theo từ Dhyana của Phạn ngữ có nghĩa là “thiền.” Điểm đặc biệt của công phu tu tập đạt đến giác ngộ của Đức Phật là quán chiếu nội tậm. Vì lý do nầy mà nhiều người tin rằng rằng họ thiền quán để thành Phật. Vâng, họ đúng. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ người con Phật nào cũng là thành Phật; tuy nhiên, thiền tự nó không làm cho bất cứ chúng sanh nào thành Phật.
23/04/2013(Xem: 13868)
Trong thời đại của chúng ta hôm nay, thiền không phải chỉ là pháp môn tu tập để kiến tánh thành Phật, vốn được xem như là sắc thái đặc thù của chốn sơn môn, mà đã và đang trở thành những phương thức trị liệu đầy kiến hiệu trong các ngành tâm lý và xã hội. Ở cả Đông và Tây phương, con người càng ngày càng trực nhận ra được khả tính ưu việt và độc đáo của thiền trong việc giải thoát những khổ luỵ, những ưu phiền của đời sống cá nhân và xã hội.
23/04/2013(Xem: 5392)
Sách này được thực hiện để trước là báo tứ trọng ân, sau là giúp người sơ học. Bên cạnh các sách Thiền bằng Việt ngữ do các thiền phái sọan, dịch và xuất bản ở VN tương đối đã nhiều và đầy đủ, tuyển tập này hy vọng sẽ trình bày thêm một số thông tin khác, được nhìn từ nhiều hứơng khác nhau. Ba truyền thống chính trình bày trong sách này chỉ là vì tiện lợi. Mỗi bài đều tự hòan tất, và độc giả có thể đọc thẳng từ bất kỳ bài nào, không cần thứ tự.
23/04/2013(Xem: 9561)
Người ta không thể diễn tả vẻ tráng lệ của hoàng hôn cho một người mù bẩm sinh. Cũng thế, bậc thánh không thể mô tả trí tuệ thân chứng cho phàm phu tục tử. Nếu Ðạo nằm trong giáo lý, thì bất cứ ai cũng thành thánh được, sau khi đọc Chí Tôn Ca hay Ba Tạng Kinh điển. Nhưng sự thực là, người ta có thể suốt đời nghiên cứu kinh điển mà không minh triết hơn chút nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]