Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Bốn mươi lăm năm hoằng pháp của Ðức Phật

07/02/201114:09(Xem: 8419)
2. Bốn mươi lăm năm hoằng pháp của Ðức Phật

LÝ THUYẾTVÀ THỰC TẾ
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2008 - PL. 2551

-2-

Bốnmươi lăm năm hoằng pháp của Ðức Phật

Nămđầu tiên (528 TCN): Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng Vesakha(tức tháng Tư âm lịch), Đức Phật đến ngụ tại khu vườnnai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức Sa-nặc(Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares). Tại đó, Ngàigiảng bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, hóa độ nămanh em đạo sĩ Kiều-trần-như (Kodañña) và cư sĩ Da-xá (Yasa).

Nămthứ 2-4 (527-525 TCN): Ngụ tại thành Vương-xá (Rajagaha), kinhđô của xứ Ma-kiệt-đà (Magadha). Ngài cảm hóa vua Bình-sa(Bimbisara). Vua cúng dường khu rừng Trúc Lâm (Veluvana), ngoàicửa Bắc của thành Vương-xá, làm nơi trú ngụ của ÐứcPhật và chư Tăng. Ngài thường đến núi Linh Thứu (Gijjhakuta)để giảng đạo.Trong thời gian nầy, Ngài hóa độ Xá-lợi-phất,Mục-kiền-liên, y sĩ Kỳ-bạt (Jivaka) và trưởng giả Tu-đạtCấp Cô Độc (Sudatta Anathapindika). Y sĩ Kỳ-bạt cúng dườngkhu vườn xoài làm tinh xá, và trưởng giả Cấp Cô Độc cúngdường tinh xá Kỳ Viên (Jetavana). Ngài trở về thăm phụ vươngTịnh Phạn (Suddhodana), và nhận hoàng tử La-hầu-la (Rahula)vào hàng sa di.

Nămthứ 5 (524 TCN): Ngụ tại Vệ-xá-li (Vesali), thủ đô của xứLicchavi, và tại thành Vương-xá. Tại thành Vệ-xá-li, ĐứcPhật cứu độ dân chúng đang bị nạn hạn hán và bệnh dịchtả hoành hành. Vua Tịnh Phạn qua đời trong năm này. ÐứcPhật thành lập giáo đoàn Tỳ khưu ni theo lời thỉnh cầucủa bà di mẫu Maha Pajapati Gotami (Kiều-đàm-di).

Nămthứ 6 (523 TCN): Ngụ tại đồi Mankula, thành Kiều-thượng-di(Kosambi), xứ Vamsa, Ngài thu phục và giáo hóa các người ngoạiđạo.

Nămthứ 7 (522 TCN): Theo Chú giải bộ Pháp Tụ và Chú giải kinhPháp Cú (kệ 181), trong mùa hạ năm này, Đức Phật trú tạicõi trời Ðao-lợi (Tavatimsa). Ngài dạy Thắng Pháp (Abhidhamma,Vi diệu pháp) cho chư thiên và mẫu hậu Ma-da (Maha Maya). Mỗingày, Ngài trở về cõi người, tại thành Sankassa, tóm tắtlại cho tôn giả Xá-lợi-phất để tôn giả khai triển vàgiảng rộng ra cho hàng đệ tử.

Nămthứ 8 (521 TCN): Ngụ tại rừng Bhesakala, núi Cá Sấu (Sumsumaragiri),xứ Vamsa, Ngài giảng pháp cho bộ tộc Bhagga.

Nămthứ 9 (520 TCN): Ngụ tại thành Kiều-thượng-di. Nhân khi bịbà thứ hậu Magandhiya của vua Udena oán ghét và bêu xấu, ÐứcPhật dạy tôn giả A-nan (Ananda) về hạnh kham nhẫn.

Nămthứ 10 (519 TCN): Ngụ tại rừng Parileyya gần thành Kiều-thượng-di.Không khuyên giải được các xung đột và tranh cãi giữa hainhóm tu sĩ, Ðức Phật bỏ vào rừng sống độc cư trong suốt3 tháng hạ, và hóa độ được một voi chúa và một chú khỉ.Hai con thú nầy đã giúp đỡ Ngài trong các công việc hằngngày.

Nămthứ 11 (518 TCN): Ngụ tại làng Ekanala, phía nam thành Vương-xá,Ngài hóa độ vị điền chủ Kasibharadvaja.

Nămthứ 12 (517 TCN): Ngụ tại Veranja, phía nam thành Xá-vệ, ÐứcPhật dạy tôn giả Xá-lợi-phất rằng Ngài sẽ thiết chếgiới luật vì có hoen ố phát sinh trong hàng Tăng chúng. Nếukhông như thế, Giáo Pháp sẽ không tồn tại lâu dài.

Nămthứ 13 (516 TCN): Ngụ tại núi đá Caliya.

Nămthứ 14 (515 TCN): Ngụ tại tinh xá Kỳ-viên, thành Xá-vệ (Savatthi).Tôn giả La-hầu-la tròn 20 tuổi và thọ Cụ túc giới, trởthành một vị Tỳ khưu. Đức Phật hóa độ bà Tỳ-xá-khư(Visakha), về sau là vị nữ thí chủ bậc nhất trong hàng đệtử cư sĩ.

Nămthứ 15 (514 TCN): Ngụ tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) củabộ tộc Thích-ca. Vua Thiện Giác (Suppabhuddha), cha của côngchúa Da-du-đà-la (Yosodhara), băng hà.

Nămthứ 16 (513 TCN): Ngụ tại vùng Alavi, phía bắc thành Ba-na-lại.Ngài hàng phục quỷ ăn thịt người Alavaka, sau đó, quỷ xinquy y Tam Bảo và nguyện hộ trì Chánh Pháp.

Nămthứ 17 (512 TCN): Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành Vương-xá.

Nămthứ 18 và 19 (511-510 TCN): Ngụ tại núi đá Caliya.

Nămthứ 20 (509 TCN): Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành Vương-xá.Vào một buổi sáng, trên đường đi khất thực, Ngài hóađộ tướng cướp Vô Não (Angulimala). Ðức Phật bị ngoạiđạo vu cáo là đã mưu sát bà Sundari.

Nămthứ 21 (508 TCN): Ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, thành Vương-xá.Tôn giả A-nan (Ananda) chính thức nhận lời làm thị giả hầucận Ðức Phật.

Nămthứ 22-44 (507-485 TCN): Trong thời gian 23 năm này, Đức Phậtthường ngụ tại tinh xá Kỳ-viên. Ngài cũng đến ngụ tạitinh xá Ðông viên (Pubbarama), phía đông thành Xá-vệ, do bàTỳ-xá-khư cúng dường. Hai vị đại trưởng lão Xá-lợi-phấtvà Mục-kiền-liên lần lượt tịch diệt vào năm 485 TCN.

Nămthứ 45 (484 TCN): Ngụ tại làng Beluva, phía nam thành Vệ-xá-li,Ngài trải qua một cơn bệnh rất trầm trọng. Sau khi bìnhphục, vào buổi trưa ngày rằm tháng Magha (tháng Giêng âm lịch),tại điện thờ Capala, Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt sau 3tháng. Đức Phật tiếp tục du hành qua các làng khác và nhậpdiệt tại làng Kusinara của bộ tộc Malla, vào đêm trăng rằmtháng Vesakha (tương đương với tháng Tư âm lịch).

*

Ghichú:

1)TCN: Trước Công Nguyên (Tây Lịch)

2)Tham khảo:

-Ðức Phật và Phật Pháp (The Buddha and his Teachings), Hòa thượngNarada, Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1970.
-Ðức Phật Lịch sử (The Historical Buddha), H.W. Schumann, TrầnPhương Lan dịch Việt, 1997.

-Tuần báo Giác Ngộ, số 67, ngày 12-07-1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2021(Xem: 3777)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
18/06/2021(Xem: 9388)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
11/10/2020(Xem: 11635)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 12003)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 9638)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.”
17/04/2020(Xem: 5185)
Cuộc họp ngắn của nhóm chuyên gia y tế vào ngày 27/3/2020, bắt đầu với một chiếc máy ảnh lung linh và thô sơ. Vào ngày 31/3/2020, Tiến sĩ bác sĩ Phật tử James Maskalyk mở đầu bằng một bản tóm tắt nhanh về tình hình hiện tại của Covid-19: đã lây lan ở khắp mọi nơi trên thế giới.
13/04/2020(Xem: 5321)
Quý bạn cảm thấy mình có lo lắng, thậm chí chán nản hay cô đơn trong mối quan hệ của mình phải không? Tất cả chúng ta đều trải qua những thử thách và xung đột trong cuộc hôn nhân của mình lúc này hay lúc khác. Như Giáo sư Tiến sĩ Phật tử John Gottman giải thích, việc liên tục xử lý các vấn đề đang diễn ra có thể dẫn đến “tình trạng bế tắc” (gridlock) không thoải mái và cảm giác rằng quý bạn đang quay cuồng như bánh xe và không tới đâu. Chìa khóa để cởi mở “tình trạng bế tắc” là hiểu hơn về những gì đối tác của quý bạn và cảm nhận – nhưng làm thế nào?
30/07/2019(Xem: 6782)
* “Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó SỰ GẶP GỠ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại MỘT NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991). -- * - “Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắn liền với sự chuyển hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn ngộ. - Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền, lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lời đó mang “phẩm chất thiền sư” đích thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ để hiểu câu nói này)”. (https://quangduc.com/a34369/thien-ngon).
03/06/2019(Xem: 6374)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
17/12/2018(Xem: 6292)
Một bài nói chuyện của Lama Yeshe tại Bloomington, Indiana, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Được ấn tống trong Mandala magazine, tháng 9, năm 2002.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567