Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Tam tạng kinh điển

02/02/201111:04(Xem: 11035)
03. Tam tạng kinh điển

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Tamtạng kinh điển

BìnhAnson

Trong45năm truyền giảng con đường giải thoát, Đức Phật thunhận rất nhiều đệ tử, có người xuất gia theo Ngài vàlập thành Tăng đoàn (Sangha), có người cũng còn tạigia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của ngài là vùngĐông Bắc Ấn Độ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo cácnhánh sông thượng nguồn sông Gange (Hằng hà).

Ngàicó rất nhiều đệ tử từ các quốc gia trong vùng, gồm đủmọi thành phần trong xã hội, lứa tuổi, nam nữ, và từ nhiềunguồn gốc tín ngưỡng khác nhau. Đức Phật đã để lạimột kho tàng quí giá gồm nhiều bài thuyết giảng (Sutta,Kinh)trong nhiều dịp giảng dạy cho hàng đệ tử, bậcthánh thanh văn, hàng vua quan, cư sĩ, v.v. Với sự phát triểnvà mở rộng của Tăng đoàn, Ngài đặt ra nhiều giới luậtđể tạo điều kiện thuận lợi trong công việc tu tập (Vinaya,Luật). Ngoài ra còn nhiều bài giảng đặc biệt khác màvề sau nầy được đúc kết lại trong tạng A Tỳ Đàm(Abhidhamma, Luận).

KếtTập Đầu Tiên

Batháng sau khi Đức Phật tịch diệt, một đại hội các vịtu sĩ (Tỳ khưu, Bhikkhu)được tổ chức, ngày nay đượcgọi là Đại Hội Tăng Già I, tại vùng đồi núi ngoại thànhRajagaha(Vương Xá). Mục đích là để kết tập các bài kinh giảngvà các điều luật thành một hệ thống chặt chẽ hơn. Chủtrì Đại hội là Tỳ khưu Maha Kassapa(Đại Ca Diếp).Tuyên đọc phần Luật là Tỳ khưu Upali(Ưu Ba Ly). Tuyênđọc phần Kinh là Tỳ khưu Ananda(A Nan Đà), là ngườicận sự với Đức Phật và vì thế có nhiều dịp nhất đểnghe và ghi nhớ các bài giảng của Ngài. Đại hội gồm khoảng500 vị thánh tăng duyệt lại các giới luật và các bài thuyếtgiảng, sắp xếp thành hai nhóm chính: Luật Tạng và Kinh Tạng.Qua những thu thập lúc đó, Kinh Tạng được phân chia làm4 Bộ chính: Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, và TăngChi bộ.

KếtTập Lần Thứ 2

Trong45 năm hoằng dương đạo pháp, Đức Phật đã đi nhiều nơi,giảng đạo cho nhiều người và kết nạp nhiều đệ tử.Các đệ tử của Ngài ở rải rác khắp nơi, không thể nàocùng về tham dự Đại hội đầu tiên. Do đó có thể có mộtsố bài thuyết giảng và giới luật phụ do Đức Phật đặtra đã không được kết tập trong kỳ Đại hội đó.Vì vậymà khoảng 100 năm sau, năm 383 trước Tây Lịch (TL), đại hộikết tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức, theo yêucầu của tăng chúng thành Vesali và Vajji. Sau lần kết tậpnầy, Luật Tạng được mở rộng với các giới luật màcác đại biểu cho rằng đã không được kết tập trong kỳĐại Hội I, và một số các bài kinh giảng khác chưa kếttập, tạo thành một bộ kinh thứ 5 của Kinh Tạng (Tiểu Bộ).

Saulần kết tập nầy, Luật Tạng và Kinh Tạng xem như đã thànhhình, và các bài giảng có lẽ cũng giống như bài giảng màchúng ta có được trong bộ Đại Tạng hiện nay.

KếtTập Lần Thứ 3

Mộttrăm ba mươi năm sau đó, năm 253 trước TL, vua Asoka(ADục) cho triệu tập Đại hội lần thứ III. Tiểu Bộ củaKinh Tạng lại được mở rộng và kết tập thêm nhiều bàikinh giảng khác. Quan trọng hơn hết là việc Đại hội đãđúc kết các bài giảng về tâm lý, thể tính và sự tướngcủa vạn pháp, tạo thành Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma, ATỳ Đàm, Vi Diệu Pháp, Luận Tạng).

KếtTập Lần Thứ 4

Khoảngnăm 20 trước TL, 500 năm sau ngày Phật nhập Đại Niết Bàn,vua Vattagamanicủa Tích Lan (Sri Lanka) triệu tập ĐạiHội Tăng Già IV tại Aluhivihara- gần thành phố Kandyngày nay, kết tập lại các phần Kinh, Luật, và đúc kếtphần Thắng Pháp Tạng. Để gìn giữ các bài giảng của ĐứcPhật dù đã kết tập nhưng chỉ truyền khẩu trong 500 nămqua, ba tạng kinh điển được cho viết lại trên một loạigiấy bằng lá bối-đa khô. Từ đó, Tam Tạng Pali được thànhhình, và không còn thay đổi nào khác.

KếtTập Lần Thứ 5 và 6

Trongthời kỳ gần đây, Miến Điện có tổ chức hai kỳ kếttập khác: kết tập lần thứ V, năm 1870, và lần thứ VI,năm 1954. Tuy nhiên các kỳ kết tập nầy chỉ để làm sángtỏ các điểm chính trong kinh, nhưng không thay đổi gì trongbộ Tam Tạng.

TamTạng Kinh Điển

"Tạng"hay "Tàng" là giỏ chứa, chỗ chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka.Ngày xưa tại các chùa lớn thường có một thư viện gọilà "Tàng Kinh Các" để lưu trữ các bộ kinh quí. Tam Tạngtheo tiếng Pali gọi là Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The ThreeBaskets), gồm có: Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng(SuttaPitaka), và Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka, còn gọilà Vi Diệu Pháp, hay Luận Tạng).

Sauđây là sơ lược về các tạng nầy:

1.Luật Tạng (Vinaya Pitaka)

Tạngnầy bao gồm các giới luật và nghi lễ cho nam tu sĩ (Bhikkhu,Tỳ khưu)và nữ tu sĩ (Bhikkhuni, Tỳ khưu Ni), cáchthức gia nhập tăng đoàn, truyền giới luật, sinh hoạt tăngchúng, cách hành xử trong các trường hợp vi phạm giới luật,vv. Tạng nầy thường được chia làm 5 bộ:

1.Ba-la-di (Parajika),
2.Ba-dật-đề(Pacittiya),
3.ĐạiPhẩm (Mahavagga),
4.TiểuPhẩm (Cullavagga), và
5.ToátYếu (Parivara).
2.KinhTạng (Sutta Pitaka)

Gồm5bộ chính (Nikaya): Trường Bộ (Digha Nikaya), TrungBộ (Majjhima Nikaya), Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya),Tăng Chi Bộ(Anguttara Nikaya), và Tiểu Bộ (KhuddakaNikaya).

Tronghệ Sanskrit (Bắc Phạn), 5 bộ nầy được gọi là các bộA Hàm (Agamas). Tuy nhiên, các bộ A Hàm nguyên thủy đãbị thất lạc và chỉ còn tìm thấy các bản kinh tiếng Sanskritrời rạc, mà hiện nay chỉ còn các bộ Hán văn, dịch từnhiều nguồn gốc bộ phái và qua nhiều đời khác nhau.

TrườngBộ là tập hợp các bài kinh dài, gồm 34 bài kinh, đã đượcdịch sang Việt ngữ. Ngoài các bài thuyết giảng của ĐứcPhật, Bộ nầy cũng có các bài giảng của Đại Đức Sariputta(Xá Lợi Phất), vị đệ tử hàng đầu có tài thuyết giảnghùng biện nhất thời đó, và các vị đệ tử nổi tiếngkhác.

TrungBộ gồm có 152 bài kinh sắp xếp trong 15 phẩm, theo từng chủđề. Bộ kinh nầy rất phổ thông trong giới Phật tử sửdụng Anh ngữ và cũng đã được dịch sang Việt ngữ. Bảndịch Anh ngữ được hiệu chỉnh nhiều lần, và bản dịchmới nhất đã được hội Buddhist Publication Society, Tích Lan,xuất bản năm 1995. Các bài kinh quan trọng thường có liênquan đến phép hành thiền quán niệm (Satipattana Sutta),chánh kiến (Sammaditthi), cách tịnh tâm (Kakacupama),cuộc đời Đức Phật (Ariyaparyesana), Tứ diệu đế(Mahahatthipadopama),Không tính (Cula-sunnata), quán niệm hơi thở (Anapanasati),v.v. Có thể nói đây là một bộ kinh quan trọng nhất, baogồm các bài giảng thiết yếu trên đường tu tập, thựchành lời Phật dạy.

TươngƯng Bộ gồm 2,889 bài kinh ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm.Đây là tập hợp các bài kinh có chủ đề giống nhau vềmột điểm thảo luận, hoặc về một nhân vật nào đó trongthời Đức Phật. Có những bài giảng quan trọng về 12 nhânduyên và về 37 phẩm trợ đạo.

TăngChi Bộ là bộ kinh dựa theo cách sắp xếp số học (pháp số),từ các chủ đề có liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố,dần dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay yếu tố.Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11 chương, gồm 2,308 bài kinh.

TiểuBộ thật ra không phải là bộ sách nhỏ, mà là tập hợp15 bộ sách nhỏ: Tiểu Tụng (Khuddaka Patha), Pháp Cú (Dhammapada),Phật Tự Thuyết (Udana), Như Thị Ngữ (Itivuttaka),Kinh Tập (Sutta Nipata), Thiên Cung Sự (Vimana Vatthu),Ngạ Quỷ Sự (Peta Vatthu), Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragatha),Trưởng Lão Ni Kệ (Therigatha), Bổn Sanh (Jataka),Nghĩa Thích (Niddesa), Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhida),Thí Dụ (Apadana), Phật Sử (Buddhavamsa), Sở HạnhTạng (Cariya Pitaka).

3.Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka)

Còngọi là Vi Diệu Pháp hay Luận Tạng, đây là tập hợp cácbài giảng của Đức Phật về thể tính và sự tướng củavạn pháp, phân giải triết học và tâm lý học. Thắng PhápTạng gồm có 7 quyển: Pháp tụ (Dhammasangani), Phân tích(Vibhanga),Chất ngữ (Dhatukatha), Nhân chế định(Puggala Pannatti),Ngữ tông (Kathavatthu), Song đối(Yamaka), Vị trí(Patthana).

4.Các thánh điển trọng yếu khác

NgoàiTam Tạng Kinh Điển còn có các bộ Chú Giải và Phụ Chú GiảiKinh Điển, và một số các tác phẩm Pali quan trọng khác cũngđược học tập và lưu truyền cho đến ngày nay: Đảo sử(Dipavamsa),Đại sử (Mahavamsa), Tiểu sử (Culavamsa), Mi LanĐa vấn đạo (Milindapanha), Thanh tịnh đạo(VisuddhiMagga), Thắng Pháp tập yếu (Abhidhammattha Sangaha).

ĐạiTạng Việt Ngữ

Mặcdù Phật Giáo là một tôn giáo lớn ở Việt Nam và đã cómặt lâu đời tại đất nước ta trên 18 thế kỷ, cho đếnnay chúng ta vẫn chưa có một bộ Tam Tạng đầy đủ bằngchữ Việt. Điều nầy đã được ghi nhận từ đầu thậpniên 1950, mà đã 50 năm qua, công tác dịch thuật vẫn chưahoàn tất.

Mộtchương trình phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh ViệtNam đã được tiến hành trở lại từ năm 1989, dựa trêncác bộ chữ Pali và chữ Hán. Đến nay (1998), Viện NghiênCứu Phật Học Việt Nam đã phát hành Trường Bộ (và TrườngA Hàm), Trung Bộ (và Trung A Hàm), Tương Ưng Bộ (và Tạp AHàm), Tăng Chi Bộ (và Tăng Nhất A Hàm) bằng Việt ngữ, cùngvới các quyển trong Tiểu Bộ: Kinh Tập, Pháp Cú, Như ThịNgữ, Phật Tự Thuyết, Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng LãoNi Kệ, Bổn Sanh.

Thêmvào đó, hệ phái Nam Tông Việt Nam đã ấn hành các bộ ViDiệu Pháp do Hòa thượng Tịnh Sự dịch. Bộ Luật cơ bảnđã được dịch từ các bản chữ Hán (Luật Tứ Phần GiớiBổn Như Thích, Hòa thượng Hành Trụ dịch).

Cácquyển Thanh Tịnh Đạo (Ni sư Trí Hải dịch), Thắng Pháp TậpYếu (Hòa thượng Minh Châu dịch) và Mi Lan Đa Vấn Đạo (Hòathượng Giới Nghiêm dịch) cũng đã được xuất bản trongnhững năm gần đây.

Perth,Tây Úc,
tháng4-1998
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2011(Xem: 3195)
Thở vào, tâm tĩnh lặng Thở ra, miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giờ phút đẹp tuyệt vời (An lạc từng bước chân- Thích Nhất Hạnh)
30/06/2011(Xem: 5099)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
30/06/2011(Xem: 7196)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
31/05/2011(Xem: 3066)
Khoa học nhìn về thiền Phật Giáo như thế nào? Dưới đây là một cuộc nghiên cứu khoa học tại Đạị Học New York University, do phóng viên Matt Danzico tường thuật, đăng trên BBC News ngày 24-4-2011. Bản dịch Việt ngữ toàn văn như sau. Não bộ của các vị sư Phật Giáo được chụp lại bởi máy scan (máy quét) trong cuộc nghiên cứu về thiền.
14/05/2011(Xem: 6560)
Nói về Thiền Vipassana thì có rất nhiều vị tăng nổi tiếng ở Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan đã giảng dạy, nhưng đặc biệt là pháp Thiền được phổ biến ở Âu châu, Mỹ châu lại là pháp Thiền của U Ba Khin, một vị cư sĩ người Miến điện. Nhiều Trung tâm Thiền quốc tế (International Meditation Centers) đã được thành lập tại nhiều nước để truyền bá pháp Thiền của U Ba Khin. Pháp Thiền của U Ba Khin thuộc môn Thiền Vipassana (tiếng Phạn, có nghĩa là Quán, Insight meditation). Thiền Vipassana thuộc hệ thống Nam Tông (Tiểu thừa), căn cứ theo những pháp dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Sutta). Kinh này chỉ pháp tu một cách tổng quát với những nguyên tắc rộng lớn mà không đi sâu vào chi tiết thực hành như pháp Niệm hơi thở (Anapanasati) cho nên khi thực hành có nhiều phương pháp khác nhau, tùy theo sự chứng đắc của mỗi thầy, vì vậy không có được một pháp Thiền Vipassana thống nhất. Tuy vậy dù phương pháp khác nhau nhưng tất cả các Thiền Vipassana đều căn cứ vào kinh Tứ Niệm Xứ.
14/05/2011(Xem: 7877)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ. Ngay đối với số đông các Phật tử Việt Nam, Thiền tông cũng là một tông phái được ít người hiểu đến vì tính cách kỳ đặc của pháp tu này, vì vậy nên có những xét đoán, phê bình không đúng. Chúng ta nên tránh việc phê bình, chỉ trích các tông phái khác tông phái mình đang tu, vì tông phái nào cũng đòi hỏi một sự học hỏi sâu xa, nên thường khi chỉ trích các tông phái khác thì chỉ căn cứ theo một số hiểu biết hời hợt về tông phái đó, vì vậy những lời chỉ trích thường không đúng được, và chỉ gây thêm những tranh luận vô ích, mất thì giờ. Chúng ta nên tìm học kỹ để phân biệt rõ ràng và thực hành đúng lời Phật dạy, chứ không phải để tranh luận, chỉ trích.
09/05/2011(Xem: 5094)
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh vút cao của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này, Thiền cũng là Đạo, là Phật, là Tâm...
30/04/2011(Xem: 8382)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa và Thiền Tông.
25/04/2011(Xem: 7440)
Con đường thiền tập là chánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
24/04/2011(Xem: 6232)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]