Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhận ra tánh của tâm dao động

18/01/201111:43(Xem: 10097)
Nhận ra tánh của tâm dao động

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương III
Thiền Quán

Nhận ra tánh của tâm dao động

Điểm thứ hai của Thiền Quán (tức quán chiếu tâm dao động) có công năng chặt đứt gốc rễ của vô minh. Ở những chương trước đã trình bày hai cách thức: 1) quán chiếu tâm vô niệm hay an tịnh, và 2) quán chiếu tâm dao động hay suy nghĩ.

Về cách thứ nhất, sau khi quán chiếu tâm an tịnh, trong sáng vô niệm, không hôn trầm tán loạn, ta thấu triệt được tánh của nó không sanh, không diệt, nhưng ta không hề khởi nghĩ (khái niệm) rằng: "tánh này không sanh, không diệt, không hình, không sắc". Thực hiện như vậy gọi là quán chiếu thâm sâu tâm vô niệm.

Dính mắc vào trạng thái vô niệm của tâm chính là mắc vào lỗi khái niệm hóa tánh không sinh, vì đã biến nó thành một "vật" (pháp).

Về cách thứ hai, tương tựa như trên, nếu bảo rằng tánh của tất cả ý niệm vọng tưởng là Không, không sinh, không diệt, đó là đã ghép tánh Không vào văn tự và rơi vào chấp đoạn, cho rằng các pháp không có (hiện hữu). Thực tế đó là một sự linh động hằng chuyển, không lưu lại dấu vết; tánh của nó chưa hề sanh, cũng không bao giờ diệt, vượt khỏi mọi định nghiã, khái niệm. Hiểu rõ điều này, đó là đã có được một chút chánh kiến. Sau đó phải tiếp tục quán chiếu để nhận ra điều trên một cách trực tiếp chứ không phải khởi niệm suy nghĩ: "Tánh của nó bất sinh, bất diệt, v.v...". Không nên phân biệt thủ xả giữa hai tánh rỗng lặng và linh động của những ý niệm, phải trực ngộ rằng chúng sinh khởi và tiêu diệt cùng một lúc (giống như vẽ hình trên nước). Thêm nữa, ta phải thấy rõ rằng không có một sự khác biệt nào giữa tánh của tâm và vật, giữa tâm an tịnh và tâm dao động, giữa tâm quá khứ và hiện tại, v.v... Tất cả đồng một tánh sáng suốt, rỗng lặng (rỗng sáng).

Khi ta làm khởi lên một ý niệm (để quán chiếu) hoặc khi nó tan biến, đó không phải là nó được khởi lên rồi lại trở về tánh rỗng sáng mà ngay khi đang khởi, chính nó vẫn là tánh rỗng sáng. Hiểu và đích thân trực nghiệm điều này, gọi là nhận ra tánh (của những ý niệm).

Tâm an tịnh, tâm dao động và ý niệm, cả ba đều sáng suốt, rỗng lặng, linh động như nhau. Nếu bảo là khác biệt thì đó là suy luận của người chưa tập quán chiếu.

Trước kia, chưa nhận ra được thực tánh của ý niệm nên ta rất khó chịu muốn xua đuổi chúng trong lúc thiền tập. Đó là vô minh. Nhưng nay đã nhận được tánh rồi, ta có thể quán chiếu thẳng vào ý niệm (lấy đó làm đối tượng).

Trước kia, những ý niệm vẩn đục che lấp mất tự tánh. Nhưng từ nay chúng trở thành sáng suốt: ta có thể nhìn rõ ràng xuyên qua chúng.

Quán chiếu về ý niệm sinh khởi được xem như cao hơn một bậc đối với sự quán chiếu về trạng thái vô niệm. Bất cứ ý niệm nào khởi lên ta cũng ghi nhận khách quan. Khi không còn vọng niệm, hãy an trụ trong vô niệm không cần cố ý làm nó dấy khởi. Nếu bất chợt nó dấy khởi, ta cũng an trụ trong trạng thái dao động, không cần xua đuổi hay dập tắt nó. Tất cả ý niệm không là gì khác hơn là tâm. Cái tâm vắng lặng tự nhiên này chính là Pháp thân tự tánh sáng suốt rỗng lặng, trong đó không có gì cần phải khởi hay diệt. Đạt đến cái thấy này, cái thấy thâm sâu về thực tánh của ý niệm, đó là nhận ra được Pháp thân.

Ta cần chứng nghiệm rằng tất cả ý niệm đều là tánh rỗng sáng, vừa khởi vừa diệt cùng lúc, giống như in dấu tay trên mặt nước. Từ lúc khởi đến khi diệt không có một sát na tồn tại nào, cũng không có một khoảng cách nào giữa hai ý niệm khác nhau, đây chính là cái gọi là "vắng lặng tự nhiên", còn có nghĩa là "tự tan biến lấy".

Tóm lại, ta phải nhận diện tất cả những ý niệm phát sanh, tập trung tâm ý nhìn thẳng vào tánh của chúng và cứ thế tăng trưởng sức quán chiếu. Đây là điều khai thị thực sự thứ hai (của vị Thầy) về bổn tánh (của tâm). Trực ngộ (nhận ra) được bổn tánh như vậy chưa phải là xong, ta phải tiếp tục tu tập tinh tấn củng cố sự trực ngộ này. Đây là điểm thứ sáu.



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2011(Xem: 9759)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
08/04/2011(Xem: 9875)
Càng sống thiền định để thấu suốt cái vô thường, đau khổ và vô ngã trong đời sống thì ta càng dễ dàng mở rộng trái tim để có thể sống hòa ái và cảm thông cho tha nhân nhiều hơn.
06/04/2011(Xem: 7242)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
02/04/2011(Xem: 8693)
Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt.
01/04/2011(Xem: 9801)
Phương pháp thiền tập được xuất phát từ phương Đông nhiều ngàn năm trước đây, sau khi được truyền sang phương Tây đã trở thành một phương pháp thực tập được nhiều người yêu thích...
22/03/2011(Xem: 15017)
Như tên gọi của tác phẩm, Tuệ Giác Hằng Ngày là một tuyển tập gồm 365 câu và đoạn trích của Đức Dalai Lama trong các tác phẩm và phỏng vấn của Ngài đã được xuất bản trong 50 năm qua. Vì là một tuyển tập từ nhiều nguồn sách báo khác nhau, nội dung của tác phẩm đa dạng và phong phú, được phân bổ theo một cấu trúc nhằm giúp độc giả cảm nhận các minh triết Phật giáo trong đời sống thường nhật... Như những con người, tất cả chúng ta muốn an lạc hạnh phúc và tránh buồn rầu đau khổ. Trong kinh nghiệm hạn hẹp của mình, nếu chúng ta đạt đến điều này, giá trị bao la của nó có thể phát triển...
11/03/2011(Xem: 11738)
Thế sự là phù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
09/03/2011(Xem: 6287)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
21/02/2011(Xem: 5487)
Thiền đã trở thành một trong những tinh hoa của nhân loại. Ngày nay, từ Đông sang Tây người ta không còn xa lạ gì với thiền và những công năng kỳ diệu của nó. Nhiều trung tâm thực hành và hướng dẫn thực hành thiền quán đã được hình thành trên khắp châu Âu. Ở các nước Á Đông, với một truyền thống sâu xa hơn, thiền đã bắt rễ vào từng tự viện lớn cũng như nhỏ, và người ta gần như có thể tìm đến với thiền không mấy khó khăn.
11/02/2011(Xem: 5077)
Ngay sau khi tôi đến Nhật, có một buổi họp mặt với những người cộng sự Nhật ở Đông Kinh. Chúng tôi đang uống trà trong một nhà hàng, trên tầng thứ năm của một khách sạn. Thình lình một tiếng “ầm... ầm...” vang lên, và chúng tôi cảm thấy dưới chân, nền nhà hơi dâng lên. Sự rung chuyển, tiếng kêu răng rắc, tiếng đồ vật đổ vỡ càng lúc càng ồn ào. Hoảng hốt và náo loạn tăng thêm. Những thực khách đông đảo, phần lớn là người Âu châu, ùa ra hành lang để đến cầu thang và thang máy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567