Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quán chiếu tâm dao động

18/01/201111:43(Xem: 11078)
Quán chiếu tâm dao động

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương III
Thiền Quán

Quán chiếu tâm dao động

Muốn dứt tuyệt gốc rễ của vô minh, ta cần phải quán chiếu tiếp tâm dao động hay giòng ý niệm (tư tưởng) và nhận ra thực tánh của nó. Bắt đầu trong tư thế tĩnh tọa và hướng tầm mắt như ở phần trước. Sau đó điều khiển tâm từ từ đến trạng thái an lạc, sáng suốt, vô niệm. Sau khi hoàn toàn an trụ trong trạng thái này, hãy để cho một ý niệm tự khởi lên, nếu không có thì cố ý khởi lên hoặc suy nghĩ về một vấn đề nào đó.

Khi một ý niệm bắt đầu khởi, hãy quán sát nó, xem nó có hình dáng màu sắc không? Khởi lên từ đâu, tồn tại chỗ nào và tan biến ở đâu? Nó nằm ở trong hay ở ngoài thân? Nếu ở trong thì phải chăng ở tim, gan, phổi hay đầu, óc, v.v...? Dù ở trong hay ở ngoài, hãy quán sát xem nó tồn tại ra sao? Khởi lên thế nào? Cứ thế mà quán chiếu.

Thể tánh của tâm dao động này ra sao? Có nguyên nhân hay không nguyên nhân? Có khởi điểm, chấm dứt, màu sắc hay hình dáng không? Nếu có, nó ra sao? Nếu ta cho rằng nó không thể được định nghĩa hay khái niệm như trên, vậy làm sao hiểu được nó? Phải chăng nó là tri thức hay một tánh biết vô thỉ vô chung? Khi quán chiếu về một ý niệm, ta có thấy rằng tất cả ý niệm đều trống rỗng, không lệ thuộc vào hành uẫn, không đầu, không đuôi?

Sau khi một ý niệm tan biến, nó có để lại dấu vết nào không? Tất cả ý niệm khởi lên, có thể nắm bắt và nhận định được không? Hãy quán chiếu. Nếu bảo rằng không thể nhận định được, vậy khi tâm ý thức được một ý niệm đang khởi, thử hỏi ý niệm đó có (hiện hữu) hay không?

Ta có thể đặt vô số câu hỏi như trên. Thí dụ như: "Tôi gặp một người bạn hôm qua". Ý niệm này từ đâu đến? Đang ở đâu? Cấu tạo ra sao? Ý niệm này có cùng một hình dáng với người bạn không? Hình dáng này có phải chính là bản thân người bạn không? Khi ý niệm này trôi qua, nó có để lại dấu vết nào không, hay giống như một chùm mây tan biến trên bầu trời? Nếu bảo rằng ý niệm (về người bạn) vừa rồi không có thực chất và không thể tìm thấy, vậy cái ý niệm vừa bảo (rằng ý niệm trước không có) đó có hay không có? Nếu một người câm không thể diễn tả được ý nghĩ của họ, phải chăng họ không có ý nghĩ?

Nếu đặt câu hỏi đối với một ý niệm như trên, ta có thể hỏi cho đến chết cũng chưa hết. Khi bị quấy nhiễu bởi những tên ăn trộm, nếu ta bắt được một tên và đem ra trừng phạt trước công chúng nhiều lần, chắc chắn những tên còn lại sẽ không còn dám đến phá phách ta nữa. Đối với ý niệm hay vọng tưởng cũng vậy. Những câu hỏi kiên nhẫn và "hóc búa" [1] sẽ làm chúng giảm sức mạnh, không dám bén mảng thường xuyên. Nếu có trở lại thì cũng yếu dần và không còn làm phiền ta nhiều. Như thế dần dần ta mới có thể nhìn rõ thực tánh của tâm và của các ý niệm.

Khi một ý niệm được khởi lên, tự nhiên hoặc cố ý, hãy quán sát nó một cách khách quan, không ngăn cản cũng không dính mắc. Nếu có những cảm giác khổ vui cùng phát sanh với nó, ta cũng quán sát như trên. Không cần đếm biết có bao nhiêu ý niệm đã khởi, chỉ cần nhìn thẳng và quán sát chúng, không tham dự hay gán thêm cho chúng những ý nghĩ tốt, xấu, v.v...

Khi thấy rằng tánh của những ý niệm là một cái biết trong sáng, lúc đó hãy tìm lại và so sánh nó với cái biết trong sáng đạt được trong lúc tâm an tịnh. Nếu không thấy khác biệt, lúc đó hãy ngưng mọi suy tư và trụ tâm vào trạng thái sáng suốt, rỗng lặng. Ở trạng thái này, nếu bỗng nhiên có một ý niệm khởi lên, hãy nhìn thẳng vào thực tánh của nó để thấy rằng nó không có hiệu lực nào làm dao động cái tánh biết (sáng suốt, rỗng lặng) nguyên thỉ.

Một ngọn sóng trồi lên, sụp xuống có làm rung chuyển đại dương không? Một cụm mây có ngăn ngại được hư không chăng?

Hãy chăm chú quán chiếu để trực nghiệm thấy được những điều trên. Tóm lại, khi vị Thầy và đệ tử cùng nhau đạt đến kết luận rút tỉa từ sự thấu hiểu (sau khi quán chiếu) về các ý niệm hiện khởi nơi đệ tử, tức thì gốc rễ vô minh bị cắt đứt và bổn tánh của tâm hiển lộ. Đây là điểm thứ hai của Thiền Quán.

Chú thích:
[1] Về ý niệm có thể chia làm hai loại:

1/ ngược dòng: đây là những ý niệm phân tách, tìm tòi nguyên nhân của một việc, nó là một phần của trí huệ (thí dụ như những câu hỏi "hóc búa") có công năng kéo tâm trở về gần bổn tánh hay thực tại.

2/ xuôi dòng (đời): đây là những ý niệm suy nghĩ tính toán chuyện thế gian liên quan đến cái Ta (ngã) lôi dẫn hành giả ra khỏi đề mục quán chiếu. Do đó được xem là vọng niệm.

Những ý niệm ngược dòng không hẳn là chánh niệm mà chỉ là phương tiện thiện xảo đối trị vọng niệm, khai mở dần trí huệ, tương tựa như những công án thiền.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2012(Xem: 14931)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
17/11/2012(Xem: 4117)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 6227)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 9222)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 15932)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 14140)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8776)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 12447)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 15134)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3395)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]