Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuệ Nhãn Vô Niệm Của Sự Sống Vĩnh Hằng

22/01/201212:15(Xem: 4366)
Tuệ Nhãn Vô Niệm Của Sự Sống Vĩnh Hằng

* Vũtrụ là biểu hiện của TÂM. (Vật lí hiện đại đã hiểu được điều này). Tâm là Đấng Tối Thượng của sự hướng thiện - hướng thượng tâm linh.

* CHÂN TÂM là trạng thái BIẾT-VÔ NIỆM hiện tiền với ánh sáng thanh tịnh, an lạc, giải thoát.

Chân Tâm là thể, vọng tâm là dụng; thể-dụng nhất như là VIÊN GIÁC.

* Chú tâm thụ động NGHE trạng thái BIẾT-VÔ NIỆM, đó là công phu vô tác để “trưởng dưỡng” Chân Tâm (tức là Tâm Bất Sinh Bất Diệt). (Còn gọi là “phản văn văn tự tánh”).

* Để chứng ngộ Chân Tâm, cần có khát vọngchân-thiện-mĩ vì ĐẠO, vì mình, vì chúng sinh; cần thấy- nghe tỏ rõ vọngtưởng (tức là những nghĩ tưởng, nhận thức, kiến chấp, tâm ngôn, tâm hành…- biểu hiện của cái “tôi” huyễn ảo vô minh); cần hiểu được rằng “tựtri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩacuộc sống, là Thiền, là định hướng của mọi phương tiện tu tập tự lợi-lợi tha.

* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linhchung của tất cả. (Đường Về Minh Triết).

-21/8/2011-


PHỤ LỤC:

1) Phần A:

* Trường ý thứclà cơ sở của mọi hiện tượng trong Tự nhiên, bởi vì khe hở tồn tại giữa mọielectron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sựtĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện. (…) Chúng ta cầnnhớ nguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta hạnchế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. (Deepak Chopra - tiếnsĩ y khoa).

* Những cấu trúcmà nhà khoa học quan sát được trong thiên nhiên liên hệ rất chặt chẽ với cấutrúc tâm ý của họ (…). (Fritjof Capra - giáo sư tiến sĩ vật lí).

* Các nghiên cứuđang được tiến hành, về cách thức suy nghĩ của chúng ta ảnh hưởng trực tiếp tớithế giới xung quanh hay tới một nơi xa xôi nào đó, có thể khẳng định rằng suynghĩ của chúng ta không chỉ thể hiện mà còn tạo ra được thực tế vật chất.(Karen Shanor - nhà sinh học).

* Một người,thông qua những suy nghĩ của họ, có thể thay đổi một phần nào đó của chức năngsinh lí - như nhịp tim, huyết áp hay sự dẫn điện trên da - của một người ở mộtvị trí khác. (Marilyn Schlitz - tiến sĩ sinh học).

* Ở cấp thấpnhất của tư duy và vật chất, mỗi người trong chúng ta đang sáng tạo thế giới(chỉ bằng sự chú ý của mình). (Lynne Mc Taggart - nhà vật lí).

* Tôi cho rằngchỉ có ý thức là tồn tại, không-thời gian, vật chất hay năng lượng chưa bao giờlà cơ sở của vũ trụ. (Donald Hoffman - nhà nghiên cứu ý thức).

* Hạt quark -từng được coi là viên gạch cơ bản của vật chất - chỉ là cấu trúc tâm thức.(Trịnh Xuân Thuận - nhà vật lí thiên văn).

* Vật chất (sắc)là do tâm (tạo) chứ không phải do thành tố tạo. (Kinh Lăng Già). (Theo kinh,duy tâm là chân lí tự chứng, không thuộc lí thuyết, suy luận).

* Trường Akasha(Trường Điểm Không - trường của trường) được mỗi nền văn hoá lí giải theo cáchcó ý nghĩa với nền văn hoá đó. Tự thân, trường miền này là tiềm năng thuần tuý.Nhưng các hướng dẫn tâm linh vĩ đại trước đây muốn khẳng định một lần nữa chocác tín đồ của mình rằng không gian không phải là hư vô. Chúng ta biết thế bởivì sự tĩnh mịch nội tại của chúng ta không phải là hư vô. (…) Chúng ta đi theohành trình của linh hồn tới giai đoạn cao nhất nó có thể đạt được là chínhAkasha, nguồn gốc của mọi sáng tạo. (D. Chopra).

*Vào thời điểmđó (cận tử, não không hoạt động), những người này không chỉ có ý thức; ý thứccủa họ thậm chí bao quát hơn lúc nào hết. Họ có thể tư duy hết sức sáng suốt,có trí nhớ về tuổi thơ xa nhất và thể nghiệm sự liên kết chặt chẻ với mọingười, mọi vật xung quanh. Và bộ não hoàn toàn không có một chút biểu hiện hoạtđộng nào”. (Van Lommel - giáo sư tiến sĩ y khoa).

* Nếu tư duy cótrước bộ não, nếu tư duy thuộc về tất cả chúng ta thì sao? Tôi có thể nói “bộnão của tôi”, nhưng tôi không thể nói “trường lượng tử của tôi”. Có bằng chứngngày càng rõ là thực ra chúng ta chia sẻ một trường tư duy như nhau. Điều nàysẽ ủng hộ nhiều về sự tồn tại của các thiên đường và địa ngục, Bardo và kí ứcAkasha (Trường Điểm Không - trường của trường), mở rộng ra cả ngoài bộ não. Đểbắt đầu, chúng ta cần kiểm tra các kiểu ý tưởng mà mọi người chia sẻ trong cùngmột nhóm. Bộ não thuộc về “tôi” nhưng nếu các ý tưởng thuộc về “chúng ta” thìchúng ta tập hợp cùng nhau trong một trường, đôi khi theo một cách hoàn toànthần bí. (D. Chopra).

* Đồng hoá vớitâm trí mình, bạn sẽ bị nhốt vào chiếc cũi thời gian, nghĩa là bị cưỡng báchphải sống chỉ bằng kí ức và dự tưởng. (…) Hiện tại vĩnh hằng là không gian đểtoàn bộ cuộc sống của bạn mở ra, là yếu tố duy nhất luôn thường hằng. Cuộc sốnglà ngay bây giờ. (…) Nó là điểm duy nhất để bạn bước vào lãnh địa phi thời gianvà vô tướng của Bản thể hiện tiền. (Eckhart Tolle - nhà đạo học).

* Sáng tạo nhảyvọt từ trống rỗng lên đầy tràn, cũng như vĩnh cửu nhảy vọt từ phi thời giansang đầy tràn thời gian. Nếu vĩnh hằng đang cùng với ta bây giờ, làm cơ sở chotoàn bộ tồn tại vật chất, nó phải làm cơ sở cho tôi và bạn. Ảo tưởng thời giannói rằng bạn và tôi bị phóng theo đường thẳng từ Sinh đến Diệt, trong khi thựcra chúng ta ở trong cái bong bóng bị vĩnh hằng buông xuôi. (D. Chopra).

* Bất kể chuyệngì xảy ra lúc chết, tôi tin rằng nó xứng đáng được gọi là phép mầu, mà phépmầu, trớ trêu thay, chính là ở chỗ chúng ta không chết. Sự dừng lại của cơ thểlà ảo ảnh, và giống như nhà ảo thuật vén lên một bức màn, linh hồn khám phá rađiều gì nằm ở bên kia. (D. Chopra).

* Nếu ngài thấyrằng ý thức của mình được chia sẻ bởi tất cả con người khác sống trên trái đấtnày, lúc đó toàn bộ cách sống của ngài sẽ đổi khác. (Jiddu Krishnamurti - danhnhân giác ngộ).

* Muốn chuyểnhoá thế giới, chuyển hoá sự khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sựphân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải chuyển hoáchính bản thân mình. Cuộc cách mạng phải bắt đầu được nhóm dậy trong chính tâmtư mình, chứ không phải lệ thuộc vào bất cứ tín ngưỡng hay ý thức hệ nào (…).(J.Krishnamurti).

* Gọi là ThượngĐế hay chân lí đều như nhau. Chân lí là giải thoát tâm trí khỏi mọi gánh nặngcủa trí nhớ (tâm lí). (J.Krishnamurti).

* Nếu giác ngộđã làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển sáu cách khác nhau như kinh chép, thì vôminh khi chưa bị hàng phục ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì bản chất vàhiệu lực, thần lực ấy diễn ngược lại hẳn với giác ngộ. (Daisetz Teitaro Suzuki- thiền sư học giả).

2) Phần B:

* Dĩ nhiên chúngta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều gì đó được truyền đạt từ người nàysang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ suông chứ không phải làchính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để đi vàotrong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng. Nhưngquả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi sự.(D.T.Suzuki).

* Trong sự giaotiếp hằng ngày ta mang nợ ngôn từ biết bao nhiêu. Và tuy thế, do từ ngôn từ,không những về luận lí mà cả về mặt tâm linh, ta phải chịu những hậu quả trầmtrọng biết bao nhiêu! Ánh sáng của Tâm bị che phủ hết trong ngôn từ và với ngôntừ. Quả thực, tâm tạo ra ngôn từ, và bây giờ tưởng ngôn từ là những thực tínhđộc lập với cái tạo ra nó, tâm trở thành vướng víu trong ngôn từ, và như kinhbảo, bị nuốt chửng trong những cơn sóng của luân hồi. (D.T.Suzuki).

* Toàn bộ giáolí Phật giáo, hay cả toàn thể đạo học Đông phương, nói về tri kiến tuyệt đối,tri kiến chỉ đạt được trong thế giới vô niệm, trong đó sự thống nhất toàn thểmọi nhị nguyên đối lập là sự chứng thực sinh động. (F.Capra).

* Một câu nóicủa thiền sư (đã chứng ngộ), nếu hành giả lĩnh hội được, là đủ để tu hành đếngiải thoát. (…) Bao nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu, đức Phật đều dạy xoayquanh cái trục: chận đứng tâm suy nghĩ lăng xăng. (Thích Thanh Từ - thiền sư).

* Tất cả mọicông án là phát ngôn của ngộ (sambodhi), không qua trung gian tri thức; đó làcái đặc tính kì lạ và khó hiểu của chúng. (D.T.Suzuki).

* Tối kị nhằmtrong ngôn cú tạo kế sống. Vì sao? Vì bánh in đâu có nước. Người ta phần nhiềurơi vào ý thức. Cần phải nhắm về trước khi ngữ cú chưa sinh để hội lấy, mớiđược đại dụng hiện tiền tự nhiên thấy được. (Bích Nham Lục).

* Nên nhớ rằngchúng ta đã đi sang bờ bên kia của tri thức, và rằng những gì được nói ra đềuđược nói sau bước nhảy. (D.T.Suzuki).

* Cái tối củahang động trở thành ánh giác khi bừng lên ngọn đuốc chiếu diệu tâm linh. (…)Trí thức thông thường không đưa chúng ta đến đó được, vì chúng ta không sốngtrong trí thức, mà sống trong ý chí. Đúng như lời huynh Lawrence (nhà thần học) luận về chân lí: “Taphải phân biệt kĩ hành động của trí thức và hành động của ý chí; loại đầu tươngđối có một giá trị mỏng manh, loại sau mới là tất cả”. (D.T.Suzuki).

*Không (trongBát-nhã) là thành quả của trực giác tâm linh, chứ không phải là hậu quả của suyluận. (D.T.Suzuki).

* Người họckinh, xem giáo lí, mỗi câu mỗi câu đều phải uyển chuyển xoay về nơi mình để làmsáng tỏ tánh giác. (Bá Trượng - thiền sư).

3) Phần C:

* Ngộ là ngộbằng trí tuệ, và trí tuệ phát ra từ ý chí – ý chí muốn tự tri tự giác, và tựthực hiện trong chính nó. (…) Ta nên ghi nhận, cái bị hủy diệt ở đây là cái giàvà cái chết, chứ không phải cái sống; ví chính xuyên qua giác ngộ cái sống ấy,lần đầu tiên, khôi phục lại tinh thần tự do và tinh lực sáng tạo nguyênthuỷ. (D.T.Suzuki).

* Nhìn vào bêntrong, chúng ta biết có cái tâm chân thật ở trong. Tâm này thấy sự rong ruổicủa ý thức, thấy được vọng niệm (về đạo về đời) khi dấy khi lặng. Nếu không cótâm ấy, chúng ta làm sao biết được khi có vọng khi không vọng, lúc có ý thứclúc không ý thức. Cái biết được vọng, quyết định cái đó không phải vọng. Vọngthì khi sinh khi diệt, cái thấy rõ sự sinh diệt của vọng quả là không phải sinhdiệt. Vọng dấy lên do vin theo bóng dáng trần cảnh nên có tướng mạo, thuộc vềnhân duyên. Cái biết vọng, chưa từng dấy lên, chưa từng theo trần cảnh, nênkhông liên hệ đến nhân duyên. (…) Nhận ra cái đó là thấy tâm chân thật ở trong.(Thích Thanh Từ).

* Chỗ ông dừngmột niệm là cây Bồ-đề (tánh giác); ông một niệm không thể dừng được là cây vôminh. (Lâm Tế - thiền sư).

* Bản ngã - mộtảo tưởng - là kết quả của bộ não bị quy định, bị chương trình hoá. (David Bohm- giáo sư tiến sĩ vật lí).

* Tri kiến lậptri tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến tự tức Niết bàn. (Kinh Lăng Nghiêm).

* Nếu được bạnlành vạch bày liền đốn ngộ cái “biết” không-lặng. Cái “biết” không có niệm,không hình tướng thì đâu có gì là ngã tướng nhân tướng. (Tông Mật - thiền sư).

* Nếu nhân “mộtniệm dấy lên”, vô minh đi vào đời ta, thì sự thức tỉnh của một niệm (hoặc tưtưởng) khác phải chấm một dấu chấm hết cho vô minh, và quyết định cơ giác ngộ.Và trong trạng thái ấy không còn một tư tưởng nào là đối tượng của bất cứ ýthức luận lí hoặc suy luận kinh nghiệm nào; vì trong giác ngộ, người nghĩ, sựnghĩ và ý nghĩ đều hoà tan trong một hành vi duy nhất là kiến chiếu trong thựcthể của chính mình. (D.T.Suzuki).

* Chỉ cần dứtvọng niệm (về đạo về đời), bặt tư lự thì Phật (tánh giác) tự hiện tiền. (HoàngBá - thiền sư).

* Tự tri là thấymình, nhìn thấy tâm trí mình từ giây phút này đến giây phút khác trong lăng kính của tương giao tương hệcủa mình đối với tài sản, đối với những sự việc, đối với con người, đối vớinhững ý tưởng… (…) Đây là việc chính yếu: khi mà tôi chưa hiểu được mình, tôikhông thể có được căn bản để suy tư, và tất cả sự tìm kiếm của tôi chỉ là vôvọng hão huyền. (…) Chính sự kiện ý thức trực tiếp về hiện thể (cái đang là) làchân lí rồi. (…) Đừng phân tích tâm thức để tâm trí tĩnh lặng. (J.Krishnamurti).

* Đoạn trừ thờigian không phải là một tiến trình; mọi phương pháp, mọi phương thức đều kéo dàithời gian. Thời gian dừng bặt chính là sự dừng bặt của mọi tư tưởng, mọi cảmthức. (…) Quán chiếu không xuất phát từ kinh nghiệm mà từ cái Không.(J.Krishnamurti).

* Này thiện trithức, nếu trong các ông hàng hữu học, mỗi lần niệm khởi trong tâm, hãy hồiquang phản chiếu (tận nguồn tâm). Khi niệm diệt trong tâm, sự phản quán tâmcũng tự diệt, đó là vô niệm. Vô niệm hoàn toàn thoát ngoài các duyên ngoạicảnh, bởi vì nếu còn có cảnh duyên nào thì không thể là vô niệm được. (…) Nếukhởi chánh chân Bát nhã quán chiếu thì trong khoảng một sát na vọng niệm đềudiệt. Nếu biết tự tánh, một phen ngộ tức đến quả vị Phật. (Huệ Năng - Lục Tổ Thiềntông).

* Nếu để cho tâmchẳng nghĩ gì hết, đó là diệt niệm, tức bị pháp trói buộc, gọi là thấy một bên.(Huệ Năng).

* Vô niệm củaLục Tổ Huệ Năng khác hẳn với vô thức của các nhà tâm lí học từ căn để. Vô niệmcó ý nghĩa về siêu hình. (D.T.Suzuki).

* Thiền có nghĩalà tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suynghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn, chỉ quan sát vàbiết. Thiền là biết rõ sự điều kiện hoá của chính mình (…). Thiền như thế đemlại một đặc tính hoàn toàn im lặng của tâm. Một người có thể thuyết giảng vềđặc tính này, nhưng chỉ là vô nghĩa nếu đặc tính đó không tồn tại.(J.Krishnamurti).

* Mục tiêu củaviệc tu thiền là nhận ra tự tánh (tức Phật tánh) và giải thoát khỏi mê lầmphiền não. Làm thế nào để nhận ra được? Có thể được, vì tự tánh là tự tri.(D.T.Suzuki).

* Tự tánh chínhlà Phật, và Phật là tự tánh. Vì thế thấy tánh là thành Phật. (Vân Cư Tích -thiền sư).

* Không thể đặttên, nên nói vô niệm vượt ngoài ngôn ngữ. (…) Giống như tấm gương sáng, nếu cóvật thì hiện hình, nếu không vật thì không bóng. Khi tôi nói về vật ở trướcgương và cái chiếu soi của gương, thì thực tế cái chiếu soi đó là một cái gìbất biến thường hằng thuộc vào bản chất của gương, và không can dự vào sự kiệnvật có hiện hữu hay không hiện hữu trước gương. (…) Kiến chiếu cái Không chínhlà cái thấy chân thực và là cái thấy thường hằng. (Thần Hội - thiền sư).

* Ví dụ khi bạnnhìn mặt trời lặn và tư tưởng xen vào, thì hãy rõ biết điều này. Hãy rõ biết vềcảnh mặt trời lặn và tư tưởng xen vào. Đừng xua đuổi tư tưởng. Hãy rõ biết màkhông phân biệt lựa chọn toàn bộ sự việc: mặt trời lặn và tư tưởng xen vào. Lúcđó bạn sẽ khám phá được, nếu bạn thực sự rõ biết, không một ý muốn nào để loạitrừ tư tưởng, để chống trả với sự xen vào can dự của tư tưởng. Nếu bạn khônglàm bất cứ điều gì đã kể trên thì tư tưởng sẽ im bặt. (J.Krishnamurti).

* Bảo rằng quátrình giác ngộ là đốn nghĩa là có một cú nhảy vọt (…). Cú nhảy vọt về mặt luậnlí là tiến trình lí luận thông thường khựng lại một cách đột ngột (…). Tiếntrình này gián đoạn đột ngột, và đồng thời bất khả tư nghì; đó là kiến tánh.(D.T.Suzuki).

* Nhược ngộ tịchvi lạc / Thử sinh nhàn hữu dư. (Nếu ngộ tịch là lạc / Đời này nhàn có dư).(Vương Duy - thiền thi sĩ).

* Vì là vô tâmvô niệm nên cái thấy mới thực là thấy. (…) Lí vô ngã không đúc kết từ suy luậnduy lí mà là một sự kiện thực tế. (…) Các lí luận gia cần nhớ rằng tôn giáo làsự kiện thực nghiệm (…). (D.T.Suzuki).

* Khi tỉnh giácmà có nỗ lực thì hết tỉnh giác. (…) Để nhận thức một cái gì đẹp đẽ sâu xa,không phải chỉ có tâm lặng im, mà còn có khoảng không bao la trong tâm.(J.Krishnamurti).

* Những hànhđộng vô tác (không có sự cố gắng nào) là do từ cái Không. (Kinh Lăng Già).

* Mười phươngthế giới thu vào một điểm hiện tiền; quá khứ, hiện tại, vị lai tụ trong mộtniệm đương thời. Dù ở giữa hàng chư thiên cũng không có niềm vui nào so đượcvới đây; ở loài người lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời sống tâmlinh có thể thâu đạt được chỉ trong vài bữa, nếu hành giả dốc lòng tu tập.(Bạch Ẩn - thiền sư).

* Thấy được tấtcả các sự vật đúng như thật các sự vật nghĩa là thể nghiệm rằng không có gìđược trông thấy ngoài chính cái Tâm. (Kinh Lăng Già).

* Người trí xemnăm uẩn là những cấu trúc của tưởng. (…) Ba cõi không gì khác hơn là sự phânbiệt. (…) Khi một sự chuyển hoá (chuyển y) xảy ra thì có một trạng thái vôtưởng vốn là cảnh giới của người trí. (…) Khi người ta nhận biết rằng không cógì ngoài những thứ được thấy từ chính cái Tâm thì sự phân biệt về hữu và phihữu đứt đoạn. (Kinh Lăng Già).

* Vô tướng nghĩalà sự biến mất của phân biệt. (Kinh Lăng Già).

* Được gia trợbởi năng lực của chư Phật, chư Bồ-tát Ma-ha-tát đang ở cấp độ thứ nhất của mình(sơ địa) sẽ đạt đến Bồ-tát Tam-ma-địa gọi là Ánh sáng đại thừa (phát quangđịa), thuộc về chư Bồ-tát Ma-ha-tát. (Kinh Lăng Già).

* Thể chứng duytâm là mục đích của Lăng Già, và điều này được thực hiện khi phân biệt bị loạitrừ, tức là, khi người ta đạt được một trạng thái vô phân biệt trong đời sốngtâm linh của mình. (…) Duy tâm là duy a-lại-da, là “chỉ có tâm”. (D.T.Suzuki).

* Khi bộ não yênlặng thì sự nhận thức (tức cái nhìn sâu sắc trực tiếp vào vấn đề, và không cósự can thiệp của vận hành tư tưởng) bắt nguồn từ tinh thần của vũ trụ. Lúc đócó tình thương và lòng nhân từ độ lượng. Phát sinh sự chuyển hoá trong tế bàonão, loại bỏ đau khổ. Tinh thần đó ảnh hưởng trực tiếp đến nhân loại.(J.Krishnamurti).

* Thoại (lờinói) từ tâm khởi, tâm là đầu (ở trước) của thoại. Niệm từ tâm khởi, tâm là đầucủa niệm. Vạn duyên đều từ tâm khởi, tâm là đầu của vạn duyên. Sự thật, “thoạiđầu” tức là “niệm đầu”; trước niệm chính là tâm. Nói thẳng, trước khi một niệmchưa sinh là thoại đầu, Do đây, chúng ta biết khán thoại đầu tức là quán tâm.Khán “trước khi cha mẹ chưa sinh, mặt thật xưa nay là gì?” là quán tâm. (Hư Vân- thiền sư).

* Người học đạohay quán một câu thoại đầu như gieo hòn gạch xuống hồ sâu muôn trượng, rơithẳng tận đáy; được vậy trong bảy ngày, nếu không khai ngộ, lão tăng xin dângthủ cấp. (Cao Phong - thiền sư).

* Chứng ngộ làcái nhìn soi thẳng vào vô thức. (D.T.Suzuki).

* Hãy cứ thựctình nhắm đến biển tánh của mình mà tu tập, không cần tam minh lục thông. Cớsao không? Vì đó như là mép rìa của thực tại. (Ngưỡng Sơn - thiền sư).

* Nếu người thậtngộ được bản tâm thì họ tự biết; tu cùng không tu là lời nói hai đầu. (Quy Sơn- thiền sư).

* Chứng ngộ làtri kiến về một sự vật cá biệt, và đồng thời về thực tại đằng sau sự vật đó,nếu có thể nói là “đằng sau”. (…) Như thế ngộ là một hình thái của tri giác,một thứ tri giác nội tại, phát hiện trong phần sâu thẳm nhất của ý thức. Đó làý nghĩa của đặc tính tự tri; tức là sự thực tối hậu. (D.T.Suzuki).

* Bất cứ chân línào mà triết lí rao giảng đều vô hiệu, chẳng thể mở ra cho người đọc một cáinhìn mới mẻ. Nhưng khi người ta nghiên cứu kinh Phật, chúng chứa đựng những lờilẽ của những tâm hồn sâu sắc nhất của tôn giáo, người ta được lôi cuốn hướngvào trong những tàng ẩn sâu của tâm thức; cuối cùng họ mới tin chắc rằng nhữnglời lẽ ấy quả thực giao tiếp với căn cơ của thực tại. (…) Nhưng nếu mới làmquen với các kinh này thì cần phải thấy con đường được chỉ điểm, và phải biếttìm kiếm bản thân sự vật ở nơi nào. Không có chỉ điểm này hẳn là chúng ta khôngthể biết tập trung những nỗ lực của mình như thế nào và ở đâu. Vì vậy kinh nói:“Ta vừa là đạo sư vừa là chân lí”. (D.T.Suzuki).

* Chẳng nghĩthiện chẳng nghĩ ác, chính khi ấy là làm gì? (Ngưỡng Sơn).

* Khuyên cácông, không gì hơn là thôi hết đi, vô sự đi. Tâm vừa khởi một niệm tức là quyếnthuộc nhà ma, là kẻ tục phá giới. (Đức Sơn - thiền sư).

* Đạt vọng, vốnchân; biết chân, tưởng diệt. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn).

* Hỏi: Huyễn vốnnào chân? Đáp: Huyễn vốn nguyên chân. Hỏi: Chính khi huyễn làm sao hiển bày?Đáp: Tức huyễn liền hiển. Hỏi: Thế ấy thì trước sau chẳng lìa huyễn? Đáp: Tìmhuyễn tướng không thể được. (Tào Sơn - thiền sư).

* Chân lí ởtrong cái đang là, và đó chính là vẻ đẹp của chân lí. (…) Nhân đức là việc đốimặt với hiện thể; và đối diện với sự kiện là một trạng thái hạnh phúc tuyệttrần. (J.Krishnamurti).

* Phàm phu tứcPhật, phiền não tức Bồ-đề. (Huệ Năng).

* Ngoài chúngsinh, tìm đâu ra Phật? (…) Nắm cái vô niệm trong cái niệm. (Bạch Ẩn - thiềnsư).

* Tri huyễn tứcli, li huyễn tức giác. (Kinh Viên Giác).

* Biết rõ đườnglối tu hành, hạ thủ công phu tu tập, phát trí tuệ là Trí Vô Sư. Trí này tươngtự với “huệ” trong ba môn “giới, định, huệ”. (Thích Thanh Từ).

* Con đườngtrước tiếng, nghìn thánh chẳng truyền; học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng. (ĐạiHuệ - thiền sư).

* Vân Nham dựngcây phất tử hỏi một ông sư: Nghe chăng? (Thiền Sư Trung Hoa).

* Ngài Văn Thùnói với Văn Hỉ: Người nếu không chấp tâm đâu cần thọ giới. (Thiền Sư TrungHoa).

* Bạn vẫn thiềnđược khi làm việc, khi ngồi trong xe buýt, khi lắng nghe tiếng hót chim muông,khi nhìn khuôn mặt vợ mình con mình… (J.Krishnamurti).

* Khi các ngàiđược dạy cho đặt nghi tình vào cái nghĩa của niệm Phật, hãy cứ tự nhiên mà chútâm ngay trên chỗ “ai” niệm Phật. (Bản Thiện - thiền sư).

* Nói theo thuậtngữ Phật giáo, khách trần phân biệt bao phủ mặt gương bản lai trong sáng củađài gương giác ngộ ở nội tâm. (D.T.Suzuki).

* Trong đời sốngtôn giáo của chúng ta, tính thụ động xuất hiện như là cao điểm của tính chủđộng tích cực (…). (D.T.Suzuki).

* Là một cáiriêng sáng hiện bày rõ ràng ở trước mắt ông, nó biết thuyết pháp, nghe pháp.Nếu thấy được như thế đã cùng Phật, Tổ không khác. Chỉ trong tất cả thời đừngcho gián đoạn, chạm mắt đều phải. (…) Chỉ vì tình sanh trí cách, vọng dấy thểsai. (Lâm Tế).

* Ba gian nhà cỏtừ xưa ở / Một vạch thần quang muôn cảnh nhàn / Chớ đem phải quấy đến ta biện /Sống tạm, bàn quanh chẳng dính gì. (Pháp Nhãn - thiền sư).

* Tột trước cùngsau trở về niệm hiện tiền. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn).

* Pháp môn vôniệm thuộc về hàng thánh nhân, nhưng nếu phàm phu tự tu tập theo đó, họ khôngcòn là phàm phu nữa. (…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy tức thì tăng trưởng phước đứcnhiều như cát sông Hằng. (…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy ôm trọn vạn vật trong lòngmình. (…) “Vô” có nghĩa là vô nhị tướng, “niệm” là niệm Chân như. (Thần Hội).

* Kì cùng, chủđề của các kinh Bát-nhã ba-la-mật là Bồ-tát hạnh, tức thực hành Bát-nhãba-la-mật để nhờ đó chứng đắc vô thượng chính giác. (D.T.Suzuki).

* Theo Lục tổ,Bát-nhã là tên đặt cho Tự tánh hoặc Vô niệm, khi Tự tánh tự nhận biết mình,hoặc đúng hơn là hành vi tự nhận biết chính mình. (D.T.Suzuki).

* Bây giờ nếucác ngài khảo sát mối bận tâm lo lắng của các ngài thì các ngài sẽ thấy rằng sựbận bịu ấy đã được hình thành trên sự đố kị, thèm muốn; nó không phải chỉ làmột phương tiện để mưu sinh mà thôi. (…) Thế giới chỉ là sự phóng rọi ra bênngoài những gì thầm kín bên trong tâm hồn chúng ta; do đó muốn tìm hiểu thếgiới, chúng ta phải tìm hiểu chính chúng ta (…). (J.Krishnamurti).

*(Đã đăng ở các website: Hoa Vô Ưu, BốnPhương Ebook, Đạo Phật Ngày Nay).

***************************************************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/09/2010(Xem: 7298)
Thiền có thể nào là một hệ thống giáo nghĩa? Hay một cách trực diệnhơn, Thiền có thể nào bị đóng khung trong một hệ thống học lý? Cái gìbị đóng khung hay bị hệ thống hóa đều không còn giữ được bản sắc sinhphong và hoạt dụng của chân thân. Thiền từ tôn chỉ đến phương tiện hànhđạo đều cốt ở chỗ dĩ tâm truyền tâm, đối vật chỉ vật, ứng biến vô ngần,chuyển hóa diệu dụng, không trụ trước, chẳng nệ không... Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
17/09/2010(Xem: 6490)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567