Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Ngôn

22/01/201212:00(Xem: 4927)
Thiền Ngôn

image

1) Kinh luận Đại thừa đốn giáo và công án Thiền là ngọn đèn soi rọi tự tâm. Đọc chỉ để hiểu và thực hành tạo thiện nghiệp là đọc bằng trí hữu sư (trí vọng tưởng). Đọc để thấy biết và tỏ ngộ tự tâm là đọc bằng trí vô sư, bằng năng lực dò tìm tự tâm, bằng khát vọng tiếp xúc chân lí sự sống. Biết đọc bằng trí vô sưlà có tác dụng tự ấn chứng; là đọc để thấy tâm – như soi gương để thấy mặt.

2) Trí hữu sư là tâm ngôn tâm hành; là trí hiểu về, nghĩ về, nhận thức về, diễn đạt về điều gì đó (tức là vọng tưởng). Trí vô sư là năng lực nghe và thấy vọng tưởng về đạo về đời, là tấm gương trí năng. Trí vô sư hiện tiền do có khát vọng giác ngộ tự tâm tự tánh; do có khát vọng giác ngộ sự sống vĩnh hằng.

3) Tánh Không là tâm Không, là trường tiềm năng, là “trường của trường”. Từ tánh Không sinh khởi vọng niệm là tạo tác thế giới (“tam giới duy tâm”). (Theo một số nhà khoa học hiện đại, hạt quark chỉ là cấu trúc tâm thức).

4) Thượng Đế là chân lí tối thượng. Chânlí tối thượng là ánh sáng của tâm vô niệm trùm khắp, là giải thoát tâm trí khỏi những nghĩ tưởng của kiến chấp vô minh.

5) Vọng tưởng vô minh là tâm nói năng tạo tác (tâm ngôn tâm hành) mà không có ánh sáng tự thấy tự biết. “Chứngngộ” là cách nói chỉ sự hiện tiền ánh sáng vô ngôn vô tác ở tự tâm. “Kiến tánh khởi tu” là chú tâm thụ động nghe trạng thái biết-vô niệm (tức là “trưởng dưỡng thánh thai”). Viên giác là ánh sáng thấy biết vô niệm soi sáng niệm khởi tuỳ duyên.

6) Ngã chấp là tâm nói năng tạo tác (tâmngôn tâm hành) trong trạng thái vô minh. Vô ngã là ánh sáng vô ngôn vô tác hiện tiền ở tâm.

7) Sống là niệm (nhớ-nghĩ). Vọng niệm làsống với vọng tưởng luân hồi vô minh. Thấy biết-vô niệm là sống với chân niệm tỏ ngộ “bổn lai diện mục” (sự sống vĩnh hằng). “Thấy biết-vô niệm sáng giữa muôn lời” là sống với Viên Giác bất sinh bất diệt.

8) Chú tâm tỉnh giác vô niệm là thể nhập sự sống vĩnh hằng, là “một nghe nghìn ngộ”.

9) Nghe vọng tưởng (những nói năng về đạo về đời trong tâm) tỏ rõ, vọng tưởng im lặng, thấy-nghe vô niệm hiện tiền. Đó là “kiến tánh khởi tu”, là đốn ngộ Phật tính (tánh giác, tánh Không, tâm phi thời gian, tâm bất sinh bất diệt).

10)Tánh Không là trường tiềm năng; ánh sáng tri giác vô niệm hiện tiền là ngộ nhập tánh Không (tâm Không, “bổnlai vô nhất vật”).

11) Nghe cái thấy một cách thụ động là “quán Không bất chứng”.

12) Thấy rõ vọng tưởng thì tự tâm có sự chuyển y, vọng tưởng im bặt, tánh Không hiện tiền. Đó là “Bồ tát độ tất cả chúng sinh vào vô dư niết bàn mà không có chúng sinh được độ”.

13) Tâm ngôn tâm hành trong trạng thái vôminh là tâm sinh tử luân hồi. Ánh sáng thấy biết vô niệm hiện tiền là tâm phi thời gian, là tâm bất sinh bất diệt, là tuệ giác tối thượng.

14) Quán tâm vô niệm là công đức vô lượng với Đạo, với vũ trụ; là phước đức vô biên, là cực lạc thiên đường.

15) Chú tâm thụ động nghe vọng tưởng là đại từ bi, là tự do tự tại; là hành động mang năng lượng ý giáo cực kì quan trọng đối với thế giới, vũ trụ.

16) Chấp ngã là trạng thái tâm (ý chí, báo thân) tự mê theo vọng tưởng. Tự tri tỉnh thức là vô tưởng, là vô niệm, là vô ngã, là chân ngã, là tâm thấy tâm, là gương sáng thấy gương sáng.

17) “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linhchung của tất cả. (Đường Về Minh Triết; ebookmienphi.com).

18) Thấy biết vô niệm hiện tiền là tâm giải thoát kiến chấp và phiền não, là thiện mĩ hiện tiền, là tâm thái hoà bình hiện tiền.

19) “Tri huyễn tức li” là thấy nghe tỏ rõvọng tưởng thì tướng vọng tưởng tự lìa; “li huyễn tức giác” là tướng vọng tưởng tự lìa thì tánh Viên Giác hiện tiền (tức là thấy biết-vô niệmhiện tiền).

20) Thấy biết vô niệm hiện tiền thì khởi niệm khởi nghĩ tuỳ duyên gọi là chánh trí, chơn thức.

21) Vô niệm hiện tiền với ánh sáng thấy biết (tri giác nội tại) thanh tịnh, đó là tâm phi thời gian, là sự sống bất sinh bất diệt.

22) Tri giác (thấy biết) vô niệm hiện tiền là gương sáng thấy gương sáng, là mở mắt tâm. Vô niệm là thể, vọng niệm là dụng; bản thể chiếu sáng thì có diệu dụng minh triết, có sáng tạo bất khả tư nghì.

23) Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắnliền với sự chuyển hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn ngộ.

24) Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền, lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lờiđó mang “phẩm chất thiền sư” đích thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ để hiểu câu nói này).

25) Ý chí là báo thân, là sinh mệnh cá thể. Ý chí hướng về và đồng hoá với lục trần, là trạng thái ngã chấp vọng tưởng. Ý chí tự tri tự ngộ, thấy nghe-vô niệm hiện tiền, là trạng thái vô ngã (vô ngã là chân ngã).

26) Người “đốn ngộ tiệm tu” (“kiến tánh khởi tu”) là đã hiện tiền Phật tính (tánh giác). Pháp thân Phật là tâm vô niệm hiện tiền với ánh sáng thanh tịnh; hoá thân Phật là khởi niệm tuỳ duyên; báo thân Phật là tuệ nhãn vừa thấy tâm vô niệm, vừa thấy niệmkhởi; đó là “tam thân nhất thể”. Nếu tự tâm không hiện tiền ánh sáng vôniệm thì nhãn quan tinh thần bị che mờ và si mê theo niệm khởi, gọi là chúng sinh vô minh.

27) Cái thấy vô niệm là hiện hữu thường hằng, là chân ngã, là ông chủ minh triết. Cái thấy vô niệm là nhãn quan tinh thần vô trụ vô trước, là nhân cách tự-do-tinh-thần.

28) ”Chiếu kiến ngũ uẩn” là soi thấy năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) như thấy rõ vật trong lòng bàn tay; năm uẩn là cấu trúc của vọng tưởng.

29) ”Chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” là soi thấy ngũ uẩn (giáp mặt ngũ uẩn, “quán tâm nơi tâm”) thì tánh Không hiện tiền - tức là ánh sáng vô niệm vô ngôn hiện tiền.

30) Thấy rõ niệm khởi thì vô niệm hiện tiền, đó là “sắc tức thị Không”; từ ánh sáng vô niệm khởi niệm tuỳ duyên, đó là “Không tức thị sắc”.

31) ”Cái thấy như tưởng” là kiến chấp theo cái khuôn kiến thức-kinh nghiệm, là tâm ngôn tâm hành, là vọng tưởng. “Cái thấy như thực” là thấy biết vô niệm, là tri kiến giải thoát,là Phật tri kiến.

32) Tự tri toàn diện là Phật thấy Phật.

33) Kiến chiếu cái Không là tâm thấy tâm.

34) ”Giữa vầng trăng một niệm vô ngôn” là “tri kiến vô kiến tự tức niết bàn”.

35) Soi thấy ngũ uẩn thì vô niệm hiện tiền với ánh sáng thanh tịnh.

36) Chú tâm thụ động nghe cái thấy biết vô niệm là “trưởng dưỡng thánh thai”.

37) Nghe cái thấy là “phản văn văn tự tánh”.

38) “Con đường trước tiếng nghìn thánh không truyền” là “giữa vầng trăng một niệm vô ngôn”. Đó là tự tri tự ngộvới khát vọng chân lí, với khát vọng giải thoát sinh tử, với trí vô sư.

39) Tâm tu hành là tâm tạo tác điều thiệntương đối để cải thiện nghiệp. Tâm vô tu vô sở đắc là tâm vô niệm vô tác, là tâm đốn ngộ (sơ ngộ).

40) Ánh sáng vô niệm hiện tiền là nhất niệm sinh động, là chân niệm, là “niệm chân như vô nhị tướng”.

41) Tri giác (thấy biết) vô niệm hiện tiền là vô ngã, vô ngôn, vô kiến chấp, vô tác, vô tướng, vô thủ đắc, vô hành, vô thủ, vô chấp, vô trụ, vô tu, vô chứng, vô vi. Thấy biết vô niệmlà tâm Không; là tuệ nhãn của sự sống vĩnh hằng. Mắt tỏ sáng thì tuỳ duyên khởi niệm tạo tác.

42) Thấy nghe vô niệm là tri giác giác ngộ, tỉnh thức; là giải thoát phiền não vô minh.

43) Cái thấy của tâm hiện hữu ở mắt. Mắt thấy vật nhưng không tự thấy mắt; nhưng cái thấy của tâm thì vừa thấy vật (ngoại cảnh và nội tâm), vừa tự thấy chính mình. Cái thấy đó chính là chân ngã.

44) Tâm là ánh sáng tinh thần (năng lượng tinh thần) vô biên và vĩnh hằng. Bản thể của tâm là tánh Không.

45) Nên biết nương theo ngọn đèn ngôn từ giác ngộ để thấy (ngộ) tự tâm tự tánh, chứ đừng đeo bám ngôn từ để suy diễn về tự tâm tự tánh. “Nương theo ngón tay kinh giáo để thấy mặt trăngViên Giác”.

46) Ngã chấp là con dao trong tâm. Thấy nghe tỏ rõ vọng tưởng (tâm ngôn tâm hành) thì vọng tưởng dừng lại-im lặng, vô niệm vô ngã (viên giác) hiện tiền. Đó là “buông dao xuống liền thành Phật”.

47) Muốn ngộ chân tâm phải thấy nghe vọngtâm. Muốn ngộ Phật tâm phải thấy nghe chúng sinh tâm. Muốn ngộ vô niệm (tánh Không) phải thấy nghe vọng niệm. Muốn ngộ tâm vô sở đắc phải thấy nghe tâm thủ đắc. Muốn ngộ tri kiến Phật phải thấy nghe tri kiến chúng sinh. Muốn ngộ “bờ kia” phải thấy nghe “bờ này”. Thấy nghe (tri giác nộitại) là giác. Thấy nghe tỏ rõ tâm phàm phu thì tâm Phật hiện tiền (“phàm phu tức Phật”); thấy nghe tỏ rõ tâm phiền não thì Viên Giác hiện tiền (“phiền não tức bồ đề”). Soi thấy ngũ uẩn thì tánh Không hiện tiền (“chiếu kiến ngũ uẩn giai Không”)… Nói tóm lại, biết thấy nghe mọi nói năng trong tâm (tâm ngôn) thì ánh sáng vô ngôn vô niệm hiện tiền (Viên Giác hiện tiền).

48) Giác ngộ không khó; điều rất khó là thật sự có khát vọng giác ngộ, thật sự thao thức tìm kiếm Ông Chủ minh triết (vô lượng diệu dụng từ bi) của sự sống vĩnh hằng.

49) Muốn ngộ nhập Viên Giác (tâm phi thờigian, tâm bất sinh bất diệt, tâm linh vĩnh hằng) phải có khát vọng giácngộ vì mình, vì Đại Đạo, vì thiện ích cho tất cả chúng sinh; phải thao thức dò tìm tìm kiếm ở chính mình. Khi nội tâm có chút tỉnh sáng thì phải biết thấy-nghe tâm niệm dò tìm tìm kiếm. Giây phút thấy-nghe tỏ rõ tâm niệm kiếm tìm thì tâm linh có sự đột chuyển, vọng niệm dừng lại, Viên Giác hiện tiền; đó là sơ ngộ… Không nhiệt tình tìm kiếm thì không bao giờ giác ngộ đích thực; nhưng còn tìm kiếm, còn tạo tác ở tâm vô minh thì không thể giác ngộ.

50) Mọi phương tiện tu tập thăng hoa trí tuệ tâm linh, nếu muốn giác ngộ đích thực thì phải hướng về mẫu số chung“tự tri-tỉnh thức-vô ngã”. Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.

04-01-2012

*(Đã đăng ở cácwebsite: Hoa Vô Ưu, Bốn Phương Ebook, Đạo Phật Ngày Nay).

****************************************************

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 8247)
Ngày nay người ta đi hàng trăm ngàn dặm để được trông thấy các thiền sư, trực tiếp gặp họ để tham vấn. Nhưng rất ít người có dịp để đặt câu hỏi: tôi phải làm sao với những nỗi giận dữ, ghen tuông, thù ghét, sợ hãi, buồn sầu, tham vọng, si mê trong tôi - tất cả những rắc rối thường xâm chiếm tâm tư con người? Tôi phải cư xử với công việc, cha mẹ, con cái, vợ hoặc chồng, tôi tớ, xếp của tôi như thế nào, tất cả những tương giao làm nên đời sống ấy? Thiền có cách nào giúp tôi không?
08/10/2010(Xem: 12477)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
30/09/2010(Xem: 4203)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), PTVN đã gặp sư Phước Nhân, một hành giả giỏi pháp hành của thiền viện Phước Sơn để xin sư nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
29/09/2010(Xem: 6833)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp môn có mục đích và phương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
28/09/2010(Xem: 5183)
Theo Thiền sư Tôn Mật, đời Đường, thì có thể phân chia Thiền làm 5 loại, trong đó có 3 loại thực sự theo đúng đường lối tu hành của đạo Phật là : Thiền Nguyên thủy (Tiểu thừa ), Thiền Đại thừa, và Thiền Như Lai tối thượng. Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí" (trích: Đại thừa Phật giáo Tư tưởng luận).
28/09/2010(Xem: 6857)
Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay "Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền. Ở đây chúng tôi hạn chế trong Kinh Tạng Pàli mà không đề cập đến A-tỳ-đàm - Tạng Pàli, với chủ đích muốn giới thiệu cho các Phật tử hiểu rõ Thiền nguyên thủy là gì, trước hết là ngang qua kinh nghiệm bản thân của đức Phật khi ngài chưa thành Đạo, khi Ngài thành Đạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp và cuối cùng khi Ngài nhập Niết-bàn.
23/09/2010(Xem: 13933)
Thực hành Phật giáo là tiến hành một cuộc chiến đấu giữa những thế lực tiêu cực và tích cực trong tâm bạn. Thiền giả nỗ lực làm tiêu mòn điều tiêu cực và phát triển, tăng trưởng điều tích cực. Những giáo lý trong quyển sách này là để chuyển hóa tâm thức; chỉ đọc hay nghe mỗi một đoạn thôi cũng có thể đem lại lợi lạc to lớn.
22/09/2010(Xem: 8273)
Tổ Hoàng Bá giữ một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Thiền Tông vì đệ tử của tổ là tổ Lâm Tế, người đã sánglập ra tông Lâm Tế. Muốn hiểu rõ về tông Lâm Tế thì cần biết rõ về tổ Hoàng Bá là người đã đào tạo tổ LâmTế. Tại Trung Hoa, sau thời Lục Tổ thì Thiền Tông chia làm5 tông: Lâm Tế, Tào Động, Quy Nhưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn. Phần lớn các chùa tại Việt Nam trước đây đều thuộc tông Lâm Tế. Tại Nhật Bản thì hiện nay Zen (Thiền Tông)chỉ có hai tông được phát triển mạnh nhất là Lâm Tế (Nhật: Rinzai) và Tào Động (Nh: Soto)...
22/09/2010(Xem: 6423)
Chưabao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lạiđược các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đềcập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter cácbáo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả nhữngkhám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởngtừ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều màtrước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là nhữngcảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567