Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời khai đạo giới

04/04/201317:38(Xem: 3633)
Lời khai đạo giới

LỜI KHAI ĐẠO GIỚI CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN LUẬT SƯ THƯỢNG THIỆN HẠ SIÊU


Vào ngày 11-3 Qúy Dậu


NAM MÔ BỒN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Các giới tử thân mến,

Các vị có nghĩ rằng, hiện chúng ta đang ở đây không? Các vị có nghĩ rằng, ta đang sắp sửa làm gì không? Đây không phải là một đại trai đàn làm chay, đây không phải là nơi hội hợp thường lệ, mà đây là Đại Giới Đàn Thiện Hòa và các vị đến đây để chuẩn bị lãnh thọ giới pháp của Phật. Đó là một điều hết sức quan trọng với Phật Pháp, là một người xuất gia như các vị đã biết, không phải chỉ ra khỏi nhà thế gian đến ở chùa là đủ, nếu ra khỏi nhà thế gian đến ở Chùa là đủ, nếu ra khỏi nhàthế gian đến Chùa ở thì chỉ là mới xuất được thế tục gia. Còn hai điều quan trọng khác là xuất phiền não gia và xuất tam giới gia chưa thành tựu được, mà chưa thành tựu hai điều sau thì điều xuất gia trước không có công đức bao nhiêu, không có giá trị bao nhiêu. Bởi vì có bao nhiêu người, dẫu người ta không phải đầu tròn áo vuông nhưng họ có thể bỏ nhà đến ở Chùa công quả được, nếu như theo hình thức các vị đó, cũng có thể gọi là xuất gia được. Nhưng mà đó chỉ là xuất thế tục gia mà thôi. Cho nên muốn xuất phiền não gia, xuất tam giới gia thì phải bước thêm một bước nữa, đó là phải thọ giới Pháp của Phật.

Là một người Phật tử, dù tại gia hay xuất gia có hai điều cơ bản, thành tựu được hai điều cơ bản này thì mới thành tựu được một người Phật tử tại gia hay xuất gia, đó là chánh kiến và tịnh giới. Người tại gia thọ trì tam quy, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng một cách đúng đắn sâu sắc, bền vững, kiên cố đó là thành tựu Chánh kiến. Một người Phật tử tại gia sau khi đã quy y Tam Bảo và thọ trì Ngũ giới, giữ gìn theo năm điều luật giới tại gia của Phật chế, đó là thành tựu được Tịnh giới. Một người Phật tử tại gia thành tựu được Chánh kiến, thành tựu được tịnh giới thì mới gọi là đệ tử của Phật, nếu không thành tựu được hai điều đó, dẫu xưng là Phật tử cũng chưa phải là Phật tử đúng đắn, đúng danh nghĩa. Tại gia đã vậy, thì xuất gia cũng vậy, cũng có hai điều căn bản đó là thành tựu được Chánh kiến và thành tựu được Tịnh giới. Thành tựu Chánh kiến thì người xuất gia, tại gia điều y như nhau, cũng lấy Tam Bảo làm Thầy, tôn thờ Phật, tôn thờ Pháp, tôn thờ Tăng là lý tưởng cao cả của đời mình. Nhắm vào đó, hướng vào đó làm mục đích để bước tới, đó là thành tựu Chánh kiến. Nhưng mà còn phải thành tựu được Tịnh giới nữa, nếu không thành tựu được Tịnh giới thì người xuất gia cũng không làm tròn được bổn phận của người xuất gia. Giới tại gia chỉ có 5 giới, giới xuất gia Sa Di 10 giới, Tỳ Kheo 250 giới, Tỳ Kheo Di 350 giới, đó là những giới Pháp mà Phật đã quy định cho người đệ tử của Phật, khi muốn bước chân vào làm đệ tử của Phật trong hàng xuất gia. Cho nên thành tựu giới Pháp Tịnh giới thì thành tựu được điều kiện quan trọng thứ 2 để thành tựu được một người xuất gia. Ngay hôm nay, các vị ở Chùa nhiều ngày, nhiều năm, nhiều tháng tức các vị đã thành tựu được cái xuất thế tục gia. Nhưng hôm nay các vị bước lên một bước nữa để thọ trì giới Pháp của Phật, mong thành tựu được xuất phiền não gia và Tam giới gia, bấy giờ mới trọn vẹn được chí nguyện xuất gia của mình. Cho nên giờ phút này, giờ phút sắp đến đây là giờ phút hết xuất quan trọng đối với đời xuất gia của các vị, cũng như hết sức quan trọng đối với Phật Pháp. Nếu các vị không thọ giới tức các vị không hoàn thành được một vị Sa Di, không hoàn thành được một vị Tỳ Kheo, tự mình không hoàn thành Sa Di không hoàn thành Tỳ Kheo thì không thể gọi là xuất gia, mà đã là không hoàn thành được người xuất gia thì không thể nào đảm đương Phật Pháp thì bấy giờ Phật Pháp cũng không thể tồn tại được, cho nên sự thọ giới này chẳng những quan trọng đối với Phật Pháp. Như trong giới, trong luật Đức Phật đã dạy: khi nào ở đâu mà có 10 Thầy truyền thọ giới Pháp, có người thọ giới Pháp, hoặc có 5 Thầy cùng nhau truyền thọ giới Pháp, có người thọ giới Pháp và giữ gìn giới Pháp thì bấy giờ Phật Pháp được tồn tại (Tỳ Ni Pháp trụ, Phật Pháp Diệt Trụ). Hễ mà Tỳ Ni Tạng còn đương trụ nghĩa là còn có người thọ giới, truyền giới và còn có người giữ giới, tức nhiên giới luật còn, mà giới luật còn tức nhiên Phật Pháp còn, cho nên việc thọ giới là một việc hết sức quan trọng, quan trọng cho mình, quan trọng cho Phật Pháp. Vì vậy, trong giờ phút này các vị nên xét lại tâm nguyện của mình, phát một lòng chí thành chí kính hết sức, xả hơi tất cả, bỏ hết tất cả, quên hết tất cả những gì vướng bận đến việc xuất gia và hành đạo giải thoát. Các vị hãy đem một lòng hết sức thanh tịnh, trang nghiêm và cung kính để rồi đây các vị lãnh thọ giới Pháp. Tâm của các vị được như vậy, thì giới Pháp, giới thể mới thành tựu trọn vẹn viên mãn ở nơi các vị. Ngược lại tâm các vị không được như thế, không được chí thành, và không được thấy đây là một điều quan trọng cho cá nhân xuất gia của mình, một điều quan trọng đối với Phật Pháp, thì bấy giờ dẫu có ở trước Thập Sư, dạ, thưa cũng không làm sao trọn được giới thể vào nơi các vị.

Cho nên trước khi các vị đăng đàn lãnh thọ giới pháp, các vị hãy gạn lọc tâm tư, xét lại lòng mình, phát một lòng hết sức dõng mãnh, hết sức tinh tấn và quí báu đối với giới pháp thì lúc bấy giờ giới thể của các vị mới lãnh thọ được viên mãn. Vì sao phải lãnh thọ giới pháp? Đức Phật dạy: Giới luật của Phật có những công đức hết sức lớn lao, trong luật Đức Phật đã nêu lên 10 điều lợi ích của một giới Phật. Khi Phật chế mỗi giới nào thì Ngài đều nêu lên 10 điều ích lợi đó, để cho các đệ tử thấy rằng, giới của Phật chế không phải là chế suông, là không có ý nghĩa, nhưng mỗi giới Phật chế rất có ý nghĩa, rất có lợi ích cho người nào phát tâm muốn thọ trì.

Mười điều đó là gì? Theo trong luật gọi là 10 cú nghĩa. Mỗi cú nghĩa tức là 10 điều ích lợi của mỗi giới luật. Khi Phật chế mỗi giới luật Ngài điều nêu lên 10 điều đó, để cho các người thọ giới biết rõ giới luật của mình thọ có sự quý báu lợi lạc như vậy. Chứ không phải một điều vui, một điều hời hợt nói suông.

Điều lợi ích thứ nhất:

"Nhiếp thụ ư Tăng" (ghép vào hàng Tăng). Có thọ trì giới Phật thì mới được nhiếp thụ vào nơi Tăng đoàn của Phật, có thọ trì giới luật thì mới được Tăng Đoàn của Phật nhiếp trì cho, cho nên điều lợi ích thứ nhất là "Nhiếp thụ ư Tăng". Nếu người ở Chùa 10 năm, 20 năm mà không thọ giới thì vẫn là một người cư sĩ, hoặc thọ giới Sa Di, chứ không thể gọi là Tỳ Kheo được. Khi nào có thọ giới Tỳ Kheo thì mới được nhiếp thuộc vào Tăng Đoàn của Phật, mới nhập vào Tăng số để trở thành một trong ba ngôi Tăng Bảo, trở thành một vị trong chúng Trung Tôn. Cho nên giới Pháp chính là dắt dẫn ta đi vào Tăng Đoàn, đi vào ngôi vị chúng Trung Tôn, nếu không thọ giới Pháp thì mặc dù có cạo đầu, mặc áo đi chăng nữa, cũng không đi vào Tăng Đoàn, không thuộc vào chúng Trung Tâm được. Cho nên điều ích lợi thứ nhất của giới Pháp làm cho người xuất gia thọ giới được nhiếp thụ ư Tăng. Đó là điều lợi ích thứ nhất.

Điều lợi ích thứ hai:

"Linh Tăng hoan hỷ" (làm cho chúng Tăng hoan hỷ). Nghĩa là mỗi điều giới luật của Phật chế ra, khiến cho người thọ trì được hoan hỷ. Khi một người thọ giới, người khác thọ giới, tuy đã thọ giới Tỳ Kheo của Phật rồi, dẫu là người thọ giới 1 năm, 2 năm, 3 năm, cho đến thọ giới 80 năm đi nữa, thì người thọ giới 80 năm cũng như thọ giới lần đầu, đều có một tâm thể giống như nhau. Cho nên mỗi lần Bồ Tát giữa chúng Tăng gọi là Đại Đức Tăng, Đại Đức Tăng không phân biệt là ông Tăng 70 hạ, 60 hạ, 50 hạ, 40 hạ… hay là ông Tăng mới thọ giới cũng nằm ở trong Đại Đức Tăng, không phân biệt gì hết. Bởi vì, giới thể là một, 250 giới là một đối với Tăng, 350 giới là một đối với Ni, thì người mới thọ giới cũng thọ 250 giới. Vậy mới thọ cũng chừng ấy, thọ 30 năm cũng chừng ấy, cho nên Tăng thể ấy, nó giống như nhau. Một người đã thọ giới giống như vậy rồi, giữ giới giống như vậy rồi thì thấy người khác thọ giới đều vui mừng hoan hỷ. Cho nên một người đi tu mà thấy người khác đi tu, một người thọ giới mà cũng thấy người khác thọ giới cũng thọ giới như mình, thì lấy làm hoan hỷ. Khi đã thọ giới rồi, nếu cố gắng giữ giới, người này thấy người kia gắng giữ giới được thanh tịnh, thấy họ như vậy, mình rất hoan hỷ, người kia thấy mình thọ giới mà giữ giới được thanh tịnh, người kia cũng hoan hỷ lắm. Đó là một sự hoan hỷ với nhau, thấy được sự tiến bộ và sự tu hành của nhau, chứ không phải là một sự hoan hỷ vì thấy nhau làm những việc sai trái mà ta thường để ý với nhau, các vị nên để ý chỗ này. Cho nên mỗi khi đã thọ giới rồi, phải tôn trọng giới, quí trọng giới, người nào cố giữ chừng nào thì công đức lớn lao chừng đó. Người nào vì nghiệp duyên không giữ được nhiều, thì người đó phạm giới của họ đã thọ. Mặc dù, họ đã phạm giới, nhưng đối với người Phạm giới ta không thể khinh, và ta cũng không hoan hỷ với họ. Nếu khi thấy một người phạm giới mà hoan hỷ theo với họ, tức có nghĩa là mình đã phụ họa theo sự phạm giới của họ. Cho nên sự hoan hỷ này là một sự hoan hỷ đối trước những người cùng chung lãnh thọ giới pháp, thì giới được thanh tịnh như nhau, đó là sự hoan hỷ của Tăng, một sự hoan hỷ đúng nghĩa, là một vị Tăng hoan hỷ trước những sự thọ trì giới được thanh tịnh. Đó là điều ích lợi thứ hai.

Điều ích lợi thứ ba:

"Linh Tăng an lạc" (khiến cho chúng Tăng được an lạc). Giới Pháp nó khiến cho Tăng được an lạc, nếu Tăng không có giới thí làm sao có thể an lạc được. Một người không trì giới thì làm sao có thể an lạc được. Một người không trì giới thì chính người đó tâm đã có tội lỗi, khẩu đã có tội lỗi, thân đã có tội lỗi, mà khi thân khẩu ý đã có tội lỗi thì không thể an lạc cho chính người đó được. Người đó đã không an lạc, thì không thể làm an lạc cho người khác. Cho nên trong một chúng Tăng người này giữ giới thân, khẩu, ý được thanh tịnh, an lạc, tạo thành một chúng hội, một Tăng đoàn mà ai nấy cũng đi trong một giới Pháp thanh tịnh của Phật, đều được an lạc như nhau. Lấy sự thọ trì giữ gìn giới thanh tịnh mà an lạc. Không phải lấy điều hơn thua, không phải lấy vật chất, không phải lấy địa vị… mà an lạc, nhưng ở đây lấy điều giữ giới pháp thanh tịnh của Phật, mà tạo thành một chúng Tăng an lạc với nhau. Ta thử hỏi ở trong đám đông người, từ 4 người trở lên hàng trăm, hàng ngàn người mà nếu như không có giới pháp, không có giới luật, chúng Tăng đó không thể nào an lạc, chúng Tăng đó sẽ vô kỷ luật, chúng Tăng đó sẽ vô hạnh. Khi đã là trong chúng Tăng có người vô kỷ luật, có người vô hạnh thì chúng Tăng đó không thể nào an lạc được, không thể nào an lạc cho cá nhân, cũng không thể nào an lạc cho cả đoàn thể. Cho nên giới của Phật có một sự ích thiết lợi vô cùng, làm cho chúng Tăng được an lạc. Đó là điều ích lợi thứ ba.

Điều ích lợi thứ tư:

Linh vị tính giả tín" (làm cho người chưa được tin sẽ được tin) Chúng ta biết rằng, Tăng là một trong Tam Bảo, Tăng là một hình dung, một hình ảnh của Đức Phật ở tại thế gian. Tăng có trang nghiêm, Tăng có thanh tịnh thì khi bấy giờ Tăng mới trở thành một Tăng Bảo. Khi đã trang nghiêm thanh tịnh trở thành một Tăng Bảo thì mới là chỗ quy ngưỡng cho tín đồ, chỗ phát lòng tin cho tín đồ, không làm khởi lòng tin cho tín đồ được. Cho nên nhờ giới Pháp mà làm cho một ông Tăng được thanh tịnh chính là hình ảnh của Đức Phật hiện ra ở thế gian.

Đức Phật đã diệt đồ rồi, xa rồi, Ngài còn lưu lại cái tượng ở trên Chùa, nhưng cái tượng đó, nó có lợi lạc cho chúng sanh một mặt, còn một mặt khác cần phải có một hình ảnh của Đức Phật sống động ở trong một vị Tăng. Trong một vị Tăng có giới, có kiến, trong một vị Tăng giữ giới thanh tịnh nghiêm trang đó là một hình ảnh Đức Phật sống động trong một vị Tăng. Chính vị Tăng đó là một biểu hiện, dẫu không hoàn toàn như Đức Phật đi nữa, thì cũng một phần biểu hiện Đức Phật, mà khi đã là biểu hiện của một Đức Phật, thì mới là cái nơi phát khởi lòng tin cho những người chưa tin. Vậy thì khi một vị Tăng không tu hành, một vị Tăng không đúng đắn, một vị Tăng không nghiêm trang, một vị Tăng không thanh tịnh, một vị Tăng không có kiến thức đúng đắn, không có lòng chánh tín, chắc chắn vị Tăng đó sẽ phá hoại lòng tin của kẻ khác, chứ không thể làm cho người ta chưa tin sẽ phát lòng tin được. Đối trước một vị Tăng mà không nghiêm túc, không thành một vị Tăng như vậy, thì chẳng những người chưa tin đã không tin mà người đã có tin rồi cũng thối thất. Đó là điều ích lợi thứ tư.

Điều ích lợi thứ năm:

"Tín giả linh Tăng trưởng" (người đã có tin, khiến họ được tăng trưởng). Đối với vị Tăng giữ giới hạnh nghiêm túc, oai nghi đỉnh đạc, ngôn ngữ đàng hoàng, tâm tư rộng rãi, hiểu biết đúng đắn, vị Tăng đó chắc chắn người khác nhìn vào, tín đồ nhìn vào đâu phát khởi lòng tin, vì ai đã tin rồi chắc chắn sẽ được tăng trưởng thêm, kiên cố thêm, chứ không bị thối thát. Chúng ta cũng thấy, nhiều tín đồ lúc đầu đến chùa hăng hái lắm, tin tưởng lắm, nhưng cũng có thời gian bị thối thất. Thối thất vì gặp lẽ chuyện nọ, chuyện kia một phần, nhưng thối thất cũng vì gặp những vị sư không chững chạc, không đứng đắn, không đàng hoàng. Khi một vị sư như vậy, chẳng như không lợi cho mình, cũng không lợi cho tín đồ, mà đã là không lợi cho mình, không lợi cho tín đồ cũng có nghĩa là không lợi cho Phật Pháp.

Vì vậy, mà biết rõ rằng, giữ gìn giới luật nghiêm trang thanh tịnh là một hình ảnh sống động của Đức Phật, dẫu chưa được toàn diện, nhưng hình ảnh ấy cũng đủ làm cái nơi cho những người tin rồi lại (được tăng trưởng) càng tin thêm, càng kiên cố vững chắc hơn, khi một tín đồ đã tin một cách kiên cố vững chắc, thì đó làm một điều tốt lành để cho Phật Pháp được phát huy, được tồn tại. Đó là điều ích lợi thứ năm.

Điều ích lợi thứ sáu:

"Nan điều giả linh điều" (đắc điều) (Người khi điều phục được điều phục). Đối với người Nan điều phục mà đem giới luật ra thì có thể điều phục được họ. Nếu không có giới thì không biết căn cơ vào đâu để nói người này có lỗi, người kia có tội, người nọ không lỗi, người đó thanh tịnh, không căn cứ vào đâu mà nói như vậy được. Nhưng mà khi đã có giới luật rồi, có mực thước rồi thì chính đó là cái thước để đo cái hành vi, ngôn ngữ sự tu hành, thanh tịnh của mỗi người. Đã có giới luật rồi thì biết được người đó phạm tới đâu, phạm giới nào, xử trị như thế nào, rõ ràng phân minh. Khi đã rõ ràng phân minh có điều phục như vậy rồi, thì dẫu có người dẫu ngoan cố đến đâu, ngương ngạch đến đâu, nan điều nan phục đến đâu, cũng phải điều phục và được điều phục. Nếu trường hợp không điều phục được thì theo như trong luật tức là chúng Tăng sẽ cử tội mạt tận, không cho nhập vào trong Tăng đoàn. Như vậy trong Tăng đoàn sẽ có người nhu thuận, Tăng đoàn không có người nan điều, nan phục nữa. Cho nên giới luật có lợi ích làm cho người nan điều, nan phục được điều phục. Đó là điều lợi ích thứ sáu.

Điều lợi ích thứ bảy:

"Tàm quí giả đắc an lạc" (Người tàm quí sẽ được an lạc) Ngược lại, người nan điều nan phục bị điều phục bằng giới luật. Nhưng người nào biết tàm quí, thì biết giữ gìn từng ly từng tí để cho giới luật được trang nghiêm thanh tịnh, giữ gìn từng ly, từng tí, phạm lỗi nhỏ cũng hết sức sợ hãi huống chi phạm lỗi lớn, người đó làn người biết tàm quí. Người biết tàm quí mà giữ gìn giới như vậy, thì chính tự họ tâm được an lạc, mà họ cũng làm niềm an lạc, niềm vui cho cả chúng, và cũng không được an lạc với họ. Cho nên người biết tu, biết thanh tịnh, biết tàm quí là một điều quan trọng. Như trong luận đã có nói. "Cái tự tánh ác là THAM, SÂN, SI là vô tàm vô quí đó- là ba cái ác thuộc về bản tính, tự tánh. THAN, SÂN, SI là ba cái độc mà Phật đã nói khắp trong các kinh, đó là ba cái độc nằm sẵn trong chúng sinh, nó gây cái tai họa cho chúng sinh, cho cá nhân người đó, chứ không phải chúng cho gia đình xã hội. Nhưng mà còn thêm hai thứ khác nữa là VÔ TÀM và VÔ QUÝ, nghĩa là không biết hổ và không biết thẹn, thì chính đó cũng là một cái ác, ác ngay trong bản tính. Người vô tàm, vô quý thì người đã phạm, dẫu có biết phạm đi nữa cũng không lấy làm hổ thẹn thì người đó không làm sao giữ gìn giới luật được thanh tịnh được. Cho nên, người đó tàm quí, tức là thấy mỗi giới nào, dầu nhỏ nhặt tới đâu cũng nghiêm trang để giữ gìn không dám phạm, mà không dám phạm được như vậy, tức nhiên tâm được an lạc, an lạc cho mình và an lạc cho cả chúng Tăng. Một người có tàm quí giữ giới thanh tịnh, an lạc cho mình, an lạc cho chúng Tăng, thế thì ngược lại với một người vô tàm, vô quí, không biết hổ không biết thẹn, phạm giới, phá giới, thì chắc chắn không tạo nên cái an lạc cho mình và an lạc cho chúng Tăng. Cho nên, giới luật là một điều hết sức thiết thực, cần thiết để cho chúng ta tu hành, cho những người biết tàm quí giữ gìn giới luật thì được an lạc, được hạnh phúc. Đó là điều ích lợi thứ bảy.

Điều ích lợi thứ tám:

"Đoạn hữu lậu hiện tại" (đoạn phiền não hiện tại). Có nghĩa là giới luật mà dứt trừ được các hữu lậu (phiền não) trong hiện tại. Vậy hữu lậu là gì? Tại sao gọi là hữu lậu?

Lậu là một tên riêng, một từ riêng của phiền não, mà phiền não nó có tích cách rỉ chảy, nó tươm rỉ ở nơi lục căn của chúng sinh, nó làm cho lục căn của chúng sinh bị ô nhiễm. Cho nên, mắt nhìn là mắt nhìn, nhưng mắt nhìn là khởi tham vào trong đó, thì con mắt kia, cái nhìn kia trở nên ô nhiễm, trở nên xấu, trở nên nhớp nhúa đi. Tai nghe là tai nghe, nhưng nếu như cái nghe đó mà có lòng tham ở nơi cái nghe ấy, thì nó trở thành ô nhiễm, xấu xa đi. Lưỡi nếm là lưỡi nếm, thân cảm xúc là cảm xúc, nếu có lòng tham thì nó phát sinh ra sự cảm xúc nhớp nhúa đi, ô nhiễm đi. Hẳn cũng y như cái mục ghẻ tươm nước ra, phiền não nó tươm nước ra ở sáu căn, thấy, nghe, ngửi, nếm, xác, chạm, ý nghĩa. Nó tươm ra ở nơi lục căn như vậy, cho nên gọi là "LẬU", cũng như nước tươm ra ở nơi cái mục ghẻ vậy. Lại nữa những thứ đó, nó làm cho chúng sinh lọt, lọt não trong tam giới, không thoát ra được, cũng như giọt nước lọt, chảy rớt xuống, cho nên gọi là LẬU. Tóm lại chữ LẬU là một danh từ khác để chỉ cho phiền não. Hai chữ "LẬU" và "HOẶC" thường ở trong Kinh Nyllaya gọi là ‘LẬU HOẶC". Hoặc là sự mê lầm, sự mê lầm đây chỉ cho THAM, SÂN, SI, nên gọi chung là lậu hoặc. Bây giờ gọi hữu lậu là sao?

Hữu lậu tức là có sự lậu hoặc, cho nên cái "Tích thành hữu lậu chi nhân" (chứa thành cái nhân hữu lậu), tức nhiên là cái nhân là phiền não, vì vậy gọi là "Hữu lậu". Con người chúng ta là con người hữu lậu, bởi vì con người chúng ta có cái phiền não ở trong đó, cho nên cái Pháp gì thì ta nhìn thấp cái Pháp đó, tiếng gì thì ta nghe thấy cái tiếng đó, rồi chấp vào cái tiếng đó, nên nó làm cho ta khởi lên phiền não thì cái Pháp đó cũng gọi là Pháp hữu lậu. Cho nên chính tự ta là Pháp hữu lậu, tâm là tâm hữu lậu, cái Pháp hương, vị xác… nó gợi cho ta sinh phiền não, tăng trưởng phiền não thì những Pháp đó gọi là Pháp hữu lậu. Vậy thì cái hữu lậu đó làm sao mà trừ? Lấy chi mà trừ? Không thể lấy tiền, bạc mà trừ được, lấy danh vọng mà trừ được , lấy chức vị trừ được, lấy quyền thế trừ được, muốn trừ được cái lậu đó chỉ có giới Pháp của Đức Phật trừ được mà thôi. Chớ không lấy chi mà trừ được hết cả, không lấy chi mà trừ được cái tham, cái sân, cái si, chấp ngã, vô minh, cố chấp… không lấy chi mà trừ được, tiền bạc, quyền thế, danh vọng… không thể nào trừ được, chỉ có giáo Pháp, chỉ có giới luật của Phật mới trừ được, nhờ giáo Pháp của Phật mới trừ được những cái hữu lậu trong hiện tại đó, gọi là đoạn hữu lậu hiện tại. Đó là cái ích lợi thứ tám của giới luật.

Điều lợi ích thứ chín:

"Đoạn vị lai hữu lậu" (đoạn phiền não trong đời vị lai) Chúng ta thọ trì, giữ giới hôm nay, chẳng những trừ phiền não hôm nay, mà trừ được phiền não tương lai, bởi vì phiền não hôm nay là mầm mống của phiền não ngày sau, mà mình đã trừ được phiền não ngày hôm nay, chín mình đồng thời trừ được phiền não ở ngày sau. Nghiệp cũ không phát, nghiệp cũ bị dứt đi, nghiệp mới không tạo nữa, đó là mục đích của người tu hành, mà cũng là mục đích của người thọ trì giới pháp. Nhờ có thọ trì, giữ gìn giới Pháp mà làm cho ta dứt được phiền não trong tương lai. Đó là điều ích lợi thứ chín.

Điều ích lợi thứ mười:

"Linh Chánh Pháp cửu trụ" (khiến cho Chánh Pháp được tồn tại lâu dài) Nếu như không có giới luật thì Phật Pháp không thể tồn tại lâu dài ở thế gian. Nếu như không có giới luật thì Tăng cũng không thành Tăng, Cư Sĩ cũng không thành Cư Sĩ, mà Tăng không thành Tăng, Cư Sĩ không thành Cư Sĩ nghĩa là Phật giáo không có tín đồ, không có người truyền giới thì làm sao Phật Pháp tồn tại ở thế gian được. Cho nên điều ích lợi cuối cùng là khiến cho Chánh Pháp, được tồn tại, như các vị đã thấy. "Giới luật là thọ mạng của Phật Pháp", khi nào giới luật còn là Phật Pháp còn, khi nào giới luật không còn là Phật Pháp không còn, đúng là câu Giới luật là thọ mạng của Phật Pháp. Đó là điều ích lợi thứ 10, mà một lần nữa Đức Phật chế một giới nào thì Ngài cũng nêu ra 10 điều ấy, đã chỉ rõ cho người thọ giới thấy, biết và kính trọng, quí báo giới của Phật chế là như vậy.

Cho nên, việc thọ giới là một bước quan trọng, một bước vững chắc trên con đường giải thoát. Bao nhiêu Pháp môn của Phật dạy, tóm lại không ngoài ba thứ GIỚI, ĐỊNH, TUỆ mà giới là bước thứ I, bước cơ bản, bước đầu tiên, có Giới mới bước tới Định, có Định mới bước tới Tuệ. Khi Giới Định Tuệ đã thành tựu rồi, thì chính trong giới có Định, trong giới có Tuệ, trong Định có Giới, trong Định có Tuệ, trong Tuệ có Giới, trong Tuệ có Định. Ba thể là một, người có đủ Giới Định Tuệ hoàn toàn như vậy, là một người viên mãn, một người có thể đoạn trừ được lậu hoặc trong hiện tại và tương lai. Một người có thể làm cho Chánh Pháp của Đức Phật thường trú ở trong thế gian. Đức Phật thường dạy rằng: "Các ngươi hãy cố gắng tu hành, đừng làm kẻ tối hậu trong giáo Pháp ta". Đừng làm kẻ hậu trong giáo Pháp ta nghĩa là sao? Nghĩa là đừng cho giáo Pháp Đức Phật chấm dứt ngay nơi mình. Thế nên chúng ta phải truyền bá, mà truyền bá bằng cách giữ gìn giới luật nghiêm trang, tạo thành một hình ảnh Đức Phật ở giữa thế gian, giữ gìn tâm niệm được thanh tịnh, sáng suốt đem Chánh Pháp của Đức Phật truyền bá giữa thế gian. Được như vậy, thì Chánh Pháp sẽ không chấm dứt ngay nơi ta, cho nên Đức Phật dạy, các ngươi đừng làm kẻ tối hậu trong giáo Pháp là như vậy.

Lời căn dặn của Đức Phật thật là thắm thiết. Vì sao Đức Phật lại căn dặn như vậy? Bởi Phật thấy rằng chính giáo Pháp của Phật mới đem lại sự lợi ích chân thật cho chúng sinh. Mà giáo Pháp của Phật là do bao nhiêu công lao nhiều đời nhiều kiếp của Đức Phật tu hành mới phát minh được, mới giác ngộ được, mà dạy bảo lại nên mới có một giáo Pháp quí báu như vậy, mà một người để tử của Phật không biết tôn trọng, không biết giữ gìn để nó mất đi, đó là một điều hết sức uổng, cho nên, Đức Phật lại căn dặn như vậy, lẽ tất nhiên ai có tâm, thành tâm làm đệ tử Phật, thì thấy lời dạy đó là mặn nồng, là thấm thiết và quí báu vô cùng. Vì vậy mới thấy rõ giới luật là một điều quan trọng, một người muốn thọ giới của Phật không phải đem cái tâm niệm tầm thường mà thọ, và không nên coi đó như là một chuyện hời hợt, thì không sao có thành tựu viên mãn được, nhưng ngược lại, phải có một khí tiết trượng phu mới có thể thọ giới của Phật được. Chắc vị nào đã thọ Sa Di rồi thì biết:

Năng liều thế vô thường
Khí tục thú nê hoàn
Công đức nan tư nghì
Vị hình thủ chí tiết
Cát ái tự sở thân
Xuất gia hoằng Phật đạo
Thế độ nhất thiết nhơn.

Khi một vị Bổn Sư mà lấy cái dao cạo chỏm tóc trên đầu mà truyền giới Sa Di cho đệ tử thì đọc lên câu đó, tán thán bằng câu đó. Một người mà có cái chí xuất gia như vậy, thật là một người đại trượng phu mới nhận rõ được cuộc đời là vô thường, nhờ nhận rõ được cuộc đời vô thường, nên không sống với cuộc đời vô thường đó, mà biết tìm con đường giải thoát khổ đau trong cuộc đời vô thường đó. Đó là bậc đại trượng phu. Cho nên người xuất gia, người tu sĩ trong luật cũng gọi là một chiến sĩ. Chiến sĩ đánh với ai? Chiến sĩ đánh với giặc. Giặc phiền não, là phiền não ma, là Thiên ma là giặc Ba tuồng, Ngũ âm ma là giặc ngũ ấm và tử ma là giặc chết, đó là bốn thứ giặc. Người xuất gia giữ gìn giới luật là một chiến sĩ đánh lộn với bốn thứ ma đó, mà nếu như phạm giới tức là thua. Cho nên khi phạm giới chính là một chiến sĩ bại trận, bại trận trước bốn thứ ma đó.

Vì vậy, trong Tứ Ba La Di Giới, có khi gọi là "Tứ Khí" (4 giới) mà phạm vào trong cũng như đồ bỏ. Có khi gọi 4 giới đó là "Đoạn đầu", ai phạm vào 4 giới đó thì cũng như cây Sa La, cây Dừa, cây Cau bị chặt ngang không mọc lên được nữa. Nhưng cũng có chỗ gọi 4 thứ Ba La Di này là "Tha Thắng", cho nên ai phạm một trong bốn giới đó thì gọi là Tha Thắng. Tha Thắng có nghĩa là sao? Đó là 4 thứ ma, mà khi phạm một trong 4 giới đó tức là thua nó, hễ khi người bại trận thua nó, và nó trở nên kẻ thắng, cho nên gọi là Tha Thắng. Do đó một người chiến sĩ phải chăng là một đại trượng phu. Đại trượng phu mới đánh lộn với 4 thứ ma đó. Nhưng mà, có được đại trượng phu chăng, là khi nhận rõ cuộc đời là vô thường, thật sự là nhận rõ cuộc đời là vô thường, có đó, không đó, cuộc đời của chúng ta chỉ trong nháy mắt, trăm năm trong nháy mắt, 80 năm trong nháy mắt, mới lọt lòng ra chết đi cũng trong nháy mắt, quay đi quay lại chỉ trong nháy mắt, nếu người biết rõ tất cả đều trong nháy mắt như vậy, mà với tinh thần giác ngộ rõ ràng thì người đó sẽ tìm cách giải thoát cái vô thường đó. Cho nên có lần Đức Phật nói rằng: Có những người cũng biết cảnh già đau chết, nhưng họ không tìm đường để thoát sanh, già, đau chết. Ta biết sanh, già, đau chết nên ta ra, ta muốn tránh sanh già đau chết đó, cho nên ta xuất gia thành đạo. Ngộ rõ lý vô thường cho nên ta mới xuất gia tầm đạo được, nếu người xuất gia tầm đạo mà không một chút nào nhận thức được lẽ vô thường đó, thì thứ chi cũng cố chấp, thứ chi cũng bám chặt, thứ chi cũng ham muốn chắc chắn không thể làm sao hơn các thứ ma được, không thành đại trượng phu xuất gia tầm đạo được. Cho nên người xuất gia tầm đạo là đại trượng phu hiểu rõ đời vô thường, mới khí tục thú nê hoàn (bỏ tục đến với Niết Bàn), đó là công đức khó nghĩ lường, không có chi mà bằng được. Vị hình thủ chí tiết. Cạo tóc hủy hình, ăn đạm bạc hủy hình, ngủ đạm bạc hủy hình, không trang sức như thế gian. Hủy hình để thủ chí tiết, chí tiết xuất gia tầm đạo, xuất gia để tu hành, để hoằng đạo Phật. Thệ độ nhất thiết nhân (thệ độ tất cả mọi người), đó là chí nguyện lớn lao, chỉ có người có chí tiết, đại trượng phu mới có chí nguyện xuất gia hoằng đạo Phật, thệ độ nhất thiết nhân. Đó là một lời tán thán khi một vị Sư, Bổn Sư cầm dao cạo cái chõm tóc trên đầu để truyền giới Sa Di, đọc lên lời tán thán đó. Trong khi tán thán chí trượng phu của người xuất gia như vậy, vậy chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta có được một trượng phu như vậy không? Việc xuất gia này, ở nơi quí Ngài thường nhắc đi nhắc lại nhiều cách để ca ngợi, để khuyến khích, để nâng đỡ và chỉ ra cho người xuất gia phải biết như thế nào. Quí vị đã học trong các sách, quí vị cũng nhớ, khi nói về xuất gia có câu như thế nầy: "Phù xuất gia giã, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, Thiện Long thánh chủng, chấn nhiếp mà quên, dung báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thứ, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sở, hư triêm tính khí, tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà băng thị?" Phú xuất gia giả (người xuất gia). Người xuất gia là người như thế nào. Người xuất gia là người phát tâm cất bước đi đến phương trời cao rộng để làm gì? Để tu hành giữ giới, truyền bá chánh pháp. Thiện Long thánh chủng, nghĩa là làm cho giống Phật đừng mất đi, và được tồn tại, phát huy tăng trưởng. Chấn nhiếp ma quân là chấn nhiếp 4 thứ ma như nói ở trước (Thiên ma, Phiền não ma, Ngũ ấm ma, tử ma), chấn nhiếp quân ma là đè bẹp 4 thứ ma đó, để vượt lên trên nó, trở thành một người giải thoát, một người đại diện cho Phật hoằng dương chánh Pháp. Có Thiện Long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân như vậy, mới là báo được tứ ân (ân Cha Mẹ, ân Quốc gia, ân Tam Bảo, ân Sư Trưởng), bạt tế tam hữu (cứu giúp ba cõi). Nhược bất như thử, nếu không được như thế, thì lạm xí tăng luân, lạm xen vào hàng tăng. Ngôn hạnh hoang sở nghĩa là ngôn và hành sơ sài, ngôn hành chỉ qua loa, tu cũng tu qua loa, học thì học qua loa, nói cũng nói qua loa… nghĩa là cái chi cũng đơn sơ. Như vậy nó không thiết thực, không thành tựu chỉ là hư triêm tín thí, huống dụng quả tín thí mà thôi. Tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hành xứ là nơi hành động là sự nói năng ngôn ngữ tâm tư suy nghĩ, cái gọi là tư tưởng, việc làm của ngày trước, của ngày xưa khi chưa xuất gia. Lúc chưa xuất gia tu tập như thế nào, thì bây giờ y nguyên như thế đó, hắn không nhúc nhích chút nào, không biến chuyển đi chút nào, nên gọi thốn bộ bất di là một tấc nó cũng thay đổi. Nếu như một người xuất gia ở Chùa như thế, thì hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị nghĩa là chỉ sống trong một đời hoảng hốt. Một cuộc đời hoảng hốt bộc bông, buông lung một đời như vậy, không có chi nắm chắc trong tay cả, thì lấy chi mà để nương nhờ, nương nhờ trong khi sống và nương nhờ trong khi nhắm mắt.

Tương hà bằng thị, mình đã không biết lấy chi là làm bằng thị rồi, thì Phật Pháp dựa vào đâu, bằng thị vào đâu để cứu trụ thế gian, tồn tại ở thế gian lâu dài được. Cho nên nói đến việc xuất gia nó lớn lao lắm, nghĩa nó rất rộng rãi, to tát lắm, cao thượng lắm mà nếu như trong mỗi người Phật tử, trong hàng Tăng Ni của chúng ta mà tâm tâm niệm niệm phát nguyện và tự vấn, cảnh tỉnh với lòng mình để có một chí hướng như vậy, thì chúng ta không hổ để làm một người đệ tử xuất gia của Đức Phật, khi đã thọ trì giới Pháp. Cho nên, tôi mong rằng, các vị coi cái dịp thọ giới hôm nay là một điều quan trọng, một điều quý báu của đời mình. Một điều quan trọng, một điều quý báu để cho mình phụng sự Tam Bảo, để cho mình báo ân Sư Trưởng, báo ân Cha Mẹ, để cho mình báo đền tứ ân, để cho mình bạt tế tam hữu. Chính giờ phút này là giờ phút quyết định, giờ phút quyết định cái ngày hôm mai của chúng ta trở thành một vị Tăng, góp một phần chánh đáng trong việc truyền bá chánh pháp.

Cho nên, giờ phút thọ giới của chư vị, chính là giờ phút quí vị đem hết tâm niệm thanh tịnh, tinh tấn, quí trọng việc thọ giới Pháp chừng nào, thì chính đó là cái mầm mống để tương lai các vị sẽ trở nên một vị Tăng đứng trong hàng Tăng Bảo, góp vào một phần phát hay chánh Pháp, duy trì chánh Pháp cửu trụ thế gian, mà nếu không thì ngược lại. Khi ngược lại lẽ tất nhiên làm một vị Tăng không có ích lợi, nếu tệ hơn nữa mà với tâm niệm hời hợt, không tu hành thì có thể góp được một phần cho Phật Pháp mau suy vong. Cho nên, chúng ta thường nên băn khoăn, hay tự hỏi, không biết Phật Pháp tương lai như thế nào? Lắm khi chúng ta cũng có cái ưu tư như vậy, không biết Phật Pháp tương lai như thế nào, nếu như mà câu hỏi đó, mà để hỏi lại ngay chính chúng ta thì sẽ có một câu trả lời rất thiết thực, Phật Pháp tương lai sẽ như thế nào? Ta cũng nhìn lại ta làm một vị Tăng như thế nào. Nếu một vị Tăng thấy mình như thế nào, một vị Cư Sĩ thấy mình như thế nào, thì Phật Pháp tương lai cũng sẽ như thế đó. Nếu mình là một vị Tăng hư hỏng thì Phật Pháp tương lai cũng là Phật Pháp hư hỏng. Ngược lại nếu như một vị Tăng chính đáng, một vị Ni chính đáng, một Cư Sĩ chính đáng thì Phật Pháp tương lai là Phật Pháp sẽ đàng hoàng, rực rỡ chính đáng. Đó là một điều thiết thực, một điều ta luôn luôn băn khoăn, nghĩ tới với một ưu thế hết sức quý báu, là cứ nghĩ Phật Pháp như thế nào? Tương lai ra làm sao? Chúng ta vẫn biết, mọi việc đều nhờ nhiều duyên mà thành tựu, nhưng mà trong đó có một duyên chính yếu nhất, từ nơi Tăng, từ nơi Ni và cũng từ nơi Cư Sĩ. Đó là câu trả lời và cũng là cái duyên chính đáng nhất.

Cho nên tôi mong rằng, cái giới đàn quí báu như thế này, lập tại nơi cơ sở của một vị Đại Hòa Thượng THIỆN HÒA, một vị Đại Hòa Thượng quý báu như thế này mà các vị có duyên hội ngộ đến đây, trước thập sư lãnh thọ giới pháp, thì mong rằng các vị nên phát một cái tâm hết sức dũng mãnh, hết sức đại trượng phu, hết sức chi tiết xuất gia hoằng Phật đạo, thệ độ nhất thiết nhân, để báo đáp lại công ơn Tam Bảo, báo đáp lại chí nguyện xuất gia của mình, cũng để trọn vẹn cái tâm xuất gia của mình khi đã có duyên lành đến Chùa gặp Phật.

Bấy nhiêu lời mong các vị chuẩn bị tâm tư, thu gọn tâm tư cho thanh tịnh, trang nghiêm kiên cố để ngày mai trước Thập Sư các vị lãnh thọ giới Pháp cao cả của Đức Phật, làm tròn một vị Tăng, một vị Ni, một vị Cư Sĩ xứng đáng là người đệ tử của Phật.

NAM MÔ BỒN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu Tuyên luật sư

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567