Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 1

18/04/201317:26(Xem: 3208)
Phần 1

NHỮNG TRUYỆN DUYÊN KHỞI

TRONG LUẬT BÍ-SÔ-NI

Lược thuật:Giác Tuệ

Hiệu đính:Thích Đỗng Minh

Chú thích:Tâm Nhãn

--- o0o ---

Phần 1

HẠNH BẤT TỊNH

Khi Bồ-tát ở tại Ðổ-sử Thiên-cung1muốn hạ sanh, trước hết quán sát thế gian tìm đủ năm việc: một là dòng tổ xa, hai là thời tiết, ba là đất nước, bốn là dòng họ gần, năm là dòng họ mẹ.

Lúc bấy giờ, trời Lục Dục2đến chỗ bà mẹ, ba phen làm tịnh lòng người. Ma-da phu nhân trong khi ngủ, mộng thấy con voi trắng sáu ngà giáng hạ vào bụng. Cùng lúc, đại địa hiện sáu điệu chấn động và ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trong thế gian này. Những chỗ tối tăm nhất trong thế giới, những nơi không có ánh áng mặt trời, mặt trăng cũng thảy đều sáng rực. Các loài hữu tình ở nơi bóng tối bao phủ, tầm nhìn của họ bị ngăn che từ khi sanh đến khi chết, ngay cả thân phận chính họ cũng không thể thấy được, huống là các loài khác. Khi họ gặp ánh sáng này rồi, khởi ý tưởng kỳ lạ, cùng nhau nói: “Tại sao ở đây bỗng nhiên có chúng sanh?”. Khi Bồ-tát giáng sanh, đại địa cũng chấn động, ánh sáng phóng ra cùng khắp, như trước không khác. Trong cả ba ngàn đại thiên thế giới, các loài có duyên thấy ánh sáng này, vui mừng nhảy nhót, khởi lên ý tưởng hy hữu.

Lúc bấy giờ, có bốn vị đại quốc vương đều sinh thái tử:

- Phạm Thọ đại vương ở thành Thất-la-phạt 3, khi thái tử mới sinh, có đại quang minh chiếu sáng, liền nghĩ: “Do oai lực phước đức của thánh tử ta, nên có ánh sáng lớn chiếu khắp trong thế gian. Vậy con ta nên đặt tên là Thắng Quang”.

- Ðại Liên Hoa Vương ở thành Vương-xá4ù, khi thái tử mới sinh cũng có ánh sáng chiếu, liền nghĩ rằng: “Phước lực của con ta thật là hy hữu. Khi mới sinh, ánh sáng chiếu khắp như vầng mặt trời tỏa rộng. Người mẹ tên là Ảnh, nên đặt tên con là Ảnh Thắng”.

- Bách Quân đại vương ở nước Kiều Thiểm Ty5ø, khi sinh thái tử, cũng thấy ánh sáng, liền nghĩ rằng: “Phước lực của con ta có đại quang minh chiếu sáng, như mặt trời mới mọc chiếu soi trong thế gian, nên đặt tên là Xuất Quang”.

- Ðại Luân Vương ở nước Ốt-thệ-ni6, khi thái tử mới sinh, cũng thấy có ánh sáng, liền nghĩ rằng: “Khi hài nhi của ta sinh, có tia sáng thắng quang, như ánh sáng ngọn đèn có thể phá bóng tối, nên đặt tên con là Ðăng Quang”.

Tuy bốn đại vương đều có ý niệm vui mừng và mỗi người đều nói: “Ðiềm khác lạ thần kỳ này là do con của mình”, chứ đâu có biết đó chính là oai quang phước đức bất khả tư nghì của Bồ-tát, từ căn lực lành, nhờ đã huân tập trong nhiều đời nhiều kiếp, không thể nghĩ bàn.

Cũng hôm ấy, trong dòng họ Thích Ca cũng có năm trăm đồng tử được sinh, trong số đó, Nan-Ðà là người trước nhất. Bên nữ cũng có sáu vạn đồng nữ được sinh, trong số đó, Gia Du Ðà La, Lộc mẫu, Cù Tỳ là ba đồng nữ sinh ra đầu tiên và tiếp theo có sáu vạn đồng nữ cũng chào đời cùng một lúc. Lại có năm trăm nam tử thuộc giới hầu hạ cùng sinh, trong đó Xiển Ðà là người đứng hàng đầu và năm trăm người nữ hầu hạ lại cũng sinh trong ngày hôm ấy. Cũng ngày này, lại có năm trăm con voi mẹ sinh con, mà Kiền Thác là đứng đầu. Và năm trăm con ngựa, mỗi con đều sinh một con ngựa con. Bấy giờ đại địa bỗng nhiên tự hiện năm trăm lần phục tàng (ẩn dấu), ven biên các cõi, nơi không có thần đều lại tân phục.

Lúc ấy, Thích Phạm Ðại-vương7cùng các thiên chúng đi nhiễu trăm ngàn vòng, cung kính tôn trọng, thân sự Bồ-tát. Trong khi đó, tại các kinh đô nhà vua, thành ấp, tụ lạc8, tất cả trưởng giả, Bà-la-môn.v.v... thảy đều vân tập để chiêm ngưỡng, kính lễ, thừa sự Bồ-tát. Cũng trong lúc đó, vua Tịnh Phạn nghĩ rằng: “Do phước đời trước của ta chiêu cảm, nên nay Thánh tử lại sanh nhà ta, và có thể thành tựu tất cả mọi thắng sự. Vậy, con của ta nên đặt tên là Nhất Thiết Sự Thành”.

Lúc bấy giờ, nước Ma-kiệt-đà9có một thành lớn tên là Ny Câu Luật. Ở đó, nhân dân phồn vinh, an ổn. Trong thành này có Bà-la-môn cũng tên là Ny Câu Luật, nhà giàu nhiều của, lắm người tôi tớ, vàng bạc trân bảo, kho lẫm đầy nhóc, có thế lực lớn như vua Tỳ-sa-môn10. Lại có mười tám tụ lạc rộng lớn dùng làm gây dựng tài lộc, mười sáu ấp lớn dùng nuôi tôi tớ và có sáu mươi ức tiền vàng, thật là vi diệu hơn hết.

Ông chủ Ma-kiệt-đà là vua Ðại Liên Hoa có một ngàn lưỡi cày và số lượng lưỡi cày của gia đình Bà-la-môn cũng bằng như vậy. Vì sợ đem lại điều không hay cho nên con số ngàn chỉ giảm một. Song, nhân phước thiện đời trước, cảm quả thành thục nên trồng hạt lúa mạch thì thành hạt kim mạch, mỗi khi thu hoạch hơn hai trăm thạch. Người ở đó, mỗi buổi sáng đến hầu vua, chỉ dùng một cúc kim mạch để hiến thọ, chúc vua phước mạng vô cùng.

Người đại Bà-la-môn đó cưới một người con gái dòng quý tộc làm vợ. Trải qua nhiều năm mà không có con, mong cầu kế tự vẫn chưa đạt ý, vợ chồng bèn dâng tế lễ tất cả thần kỳ. Tuy kỳ nguyện lâu ngày nhưng vẫn không toại ý, lòng ôm ưu khổ, chống tay nơi má, than: “Nay ta nhà giàu cự phách mà không có người kế tự, của cải sẽ giao cho ai đây? Cuối cùng của cải sẽ bị nhà quan tịch thu, không còn một mảy may nào!”.

Bà mẹ thấy vậy, hỏi:

- Tại sao hôm nay con than dài thở ngắn như vậy?

Thưa:

- Hôm nay thân tâm con không được an ổn, vì của cải phong phú trong đời ít có, mà hiện nay con không có con, sự sống khó bảo toàn. Một ngày kia, mạng sống không còn, tất cả đều mất hết !

Bà mẹ nói:

- Con không nên ưu sầu. Mẹ sẽ chỉ cho cách sẽ sanh được con. Mẹ thấy trong thế gian, những người không có con, hoặc tự cầu xin, hoặc khiến người khác cầu xin, với tất cả lòng tín thành, không một trường hợp nào không toại nguyện.

Người con thưa với mẹ:

- Sự việc đó thế nào?

Bà mẹ nói:

- Trước khi mẹ không có con, mẹ cầu thần cây Ny-câu-luật11, liền được sinh con. Nay con nên đối trước thọ thần hết lòng cầu khẩn, chỉ mong sanh được một đứa con, chắc chắn sẽ toại ý.

Khi ấy, người Bà-la-môn vâng lời mẹ dạy rồi, dưới cây Tất-bát-la12trong vườn kia, trần thiết lễ nghi, đích thân cầu nguyện: “Cúi xin thọ thần sớm ban cho tôi một đứa con. Nếu xứng với lời nguyện, tôi sẽ xây dựng thần đường trang nghiêm, để thờ cúng và mở đại hội khánh tạ thù ân”. Hằng ngày cầu xin và phát nguyện như vậy. Người Bà-la-môn lại bảo cho thọ thần biết rằng: “Nếu không toại nguyện, tôi sẽ đào gốc chặt cây, khiến cho thần không có nơi nương tựa”.

Bấy giờ, vị thiên thần biết người này với tâm ân cần khẩn thiết nên sanh hoảng sợ, nghĩ: “Vấn đề này quá sức đối với ta, làm thế nào đây?”. Vị thiên thần tức tốc đến chỗ T��-sa-môn để cầu cứu:

- Kính bạch Ðại thiên, có người Bà-la-môn vì cầu sanh con mà đến chỗ tôi ở, dọa chặt cây đó. Nguyện xin đại thiên làm ơn cứu giúp.

Ðại thiên vương nghe rồi, tự nghĩ: “Mình cũng bất lực”, bèn đến thượng thiên thưa với trời Ðế Thích rằng:

- Xin ngài cứu xét, nay có vị thiên thần trong tầm tay trách nhiệm cai quản của tôi, đến báo cáo: Có một người vì cầu con mà mà họ bảo: “Nếu không toại ý, họ sẽ chặt cây”. Trường hợp nguy khốn này, xin ngài lân mẫn!

Vị thiên chủ nghe rồi, bảo vị phụ tá rằng:

- Nếu có thiên tử nào hiện suy tướng vào lúc này thì phải đến báo cáo cho ta biết.

Thiên chủ hạ lệnh xong, vị phụ tá kính thừa thiên mệnh. Sau đó một thời gian, có một thiên tử năm tướng suy13hao hiện ra. Phụ tá liền tức tốc đến báo cáo với thiên chủ rằng:

- Nay có một thiên tử, tướng tử đang hiện ra.

Thiên chủ bảo thiên tử đó rằng:

- Nay ngươi nên đến trong Thiệm-bộ- châu14, nơi thành Ny-câu-luật, nhà Ðại Bà-la-môn, thọ sanh.

Thiên chủ nói xong, thiên tử khải bạch:

- Ðại thiên nên biết, Bà-la-môn kia tự ỷ dòng họ tôn quý, nên sinh lòng phóng dật nhiều. Trong khi đó, đức Phật- vị đại sư xuất hiện ở đời- hóa duyên hoàn tất, sẽ vào Niết-bàn. Tôi đối với Ngài, đời trước nguyện sẽ đến chỗ Ngài chuyên tu tịnh hạnh, sợ sanh vào gia đình kia rồi, sẽ trở ngại cho bản nguyện của tôi.

Thiên chủ hứa:

- Ngươi khỏi phải lo ngại. Ta sẽ giúp ngươi trong mọi hoàn cảnh, bất cứ lúc nào, ta cũng khiến ngươi không phóng dật.

Khi thiên tử mạng chung, liền đến nơi họ Ny-câu-luật thác uẩn thọ sanh. Người nữ thông tuệ mang thai, có năm trí kỳ diệu:

1- Biết nam tử có dục tâm.

2- Biết thời tiết.

3- Biết từ người nào được thai.

4- Biết thai là nam.

5- Biết thai là nữ.

Khi người vợ của Bà-la-môn kia biết mình có thai, lòng rất vui mừng, báo cáo với chồng rằng:

- Mình có biết chăng, nay em đã có thiên tử đến nhập vào thai nên em rất vui mừng.

Người chồng nghe nói, nỗi vui mừng dâng khắp cả thân tâm, lớn tiếng xướng rằng:

- Lành thay!An lạc thay!Từ trước đến nay, suốt ngày suốt đêm, ta một lòng mong được người con kế thừa gia nghiệp. Trăm năm sau, theo khả năng của mình, tu các phước nghiệp, đều xứng với tên của ta, khiến cho công đức này giúp cha mẹ ta sanh vào cõi nào cũng phước lạc vô cùng, tất cả mọi sở hữu gia vụ ta đều phó chúc.

Người chồng nói như vậy rồi, để vợ ở nơi lầu cao, trải bảo tọa để vợ ngồi nằm, mời danh y đến điều hòa thang dược, để bảo vệ sức khỏe cho vợ. Y phục, ẩm thực, mọi việc đều thích nghi. Tất cả mọi vấn đề thời tiết, lạnh, nóng, mặn, lạt... đều theo ý muốn của vợ. Thân hình người vợ được trang nghiêm bằng anh lạc thượng diệu, hương thoa, tràng hoa lóng lánh, rực rỡ tuyệt vời. Như thiên nữ cư trú nơi vườn hoan hỷ, bà đi đứng ngao du, bước trên giường nệm nhung gấm, chân không hề dính đất, tai mắt không hề thấy nghe sắc thanh xấu ác.

Ðủ ngày đủ tháng, nam nhi ra đời, hình dáng siêu tuyệt, màu da sáng rực như vàng Thiệm-bộ, đảnh tròn như bảo cái, tay dài quá gối, mũi cao và thẳng, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, các tướng đầy đủ. Sau hai mươi mốt ngày, các thân tộc mở hội vui mừng, đặt tên cho hài nhi. Thân tộc cùng bàn: “Cháu này vốn từ vấn đề cầu khẩn nơi cây Tất-bát-la mà có được, nên gọi tên là Tất Bát La, và từ nơi dòng họ, có thể gọi là Ca Diếp Ba. Do đó, người thời bấy giờ thường gọi là Tất Bát La hay Ca Diếp Ba.

Người cha đem hài nhi giao cho tám bà mẹ nuôi dưỡng. Tất cả mọi nhu cầu không thiếu thốn một thứ gì. Hài nhi được nuôi dưỡng bằng sữa, bơ, dầu tinh chế và bao nhiêu thức ăn ngon ngọt bổ dưỡng khác. Nhờ vậy, hài nhi mau lớn như hoa sen ra khỏi nước. Ðến tuổi, đồng tử được gao cho các minh sư để học kỹ nghệ và các điển tịch. Học bất cứ môn gì, đồng tử vừa nghe là thuộc, nhớ liền không quên; cho đến vấn đề chấp trì tịnh bình, oai nghi tấn chỉ, không một thứ nào mà đồng tử không nắm vững. Mọi hiện hữu trong thế gian, trong hành tinh này đều được khảo sát một cách hoàn hảo về các biến chuyển của chúng. Lại rành pháp thức tự mình tế tự, dạy người tế tự; tự mình tập tụng, dạy người tập tụng. Hoặc tự mình bố thí và nhận vật bố thí của người khác. Trong sáu việc này đều thông suốt. Những gì thuộc về chi phái của Tứ minh đều nghiên cứu hết. Có khả năng phô bày tôn của mình một cách khéo léo, và khéo léo đả phá những lập luận của người khác. Trí thức phân minh lợi ích giống như lửa. Trước hết, đại chúng suy tôn, sau mời làm Ðạo sư dạy hơn năm trăm người con của Bà-la-môn. Khi tuổi đã lớn khôn, người cha bảo:

- Này Ca Diếp Ba, con biết chăng!Nay con đã trưởng thành, nên phải tổ chức hôn lễ.

Người con thưa:

- Thưa cha, dục lạc của thế gian chẳng phải là sở nguyện của con.

Người cha khuyên:

- Phàm làm người, con cần phải nối tiếp gia nghiệp, cung kính thờ phụng tổ tông, không khiến cho tuyệt tự.

Ca Diếp Ba thưa:

- Thưa cha, cha không nghe cổ tiên luận rằng: Người thích ẩn cư thì thần thức của họ trong sạch và nhẹ nhàng, có khả năng bay lên đến chỗ cứu cánh hay sao?

Người cha nói:

- Nghi lễ giá thú không phải là sách chánh đáng sao?

Ca Diếp Ba thưa:

- Ðó là luận cứ của người đời cận đại, chứ chẳng phải là pháp của cổ tiên.

Ca Diếp Ba thưa xong liền than:

- Hiện nay đối với ta còn cái gì tai họa bằng!Một phen sa lầy, vĩnh kiếp khó thoát khỏi!Ân của cha mẹ rất nặng, lại không thể trái. Ðây thật là vấn đề tấn thoái không đường!

Khi ấy, người cha ba phen khuyên bảo, đương sự cung kính vâng theo, không dám trái mạng, nhưng tự suy nghĩ: “Ta cần phải dùng cách nào, để tránh khỏi sự trói buộc này?”. Ca Diếp Ba liền thưa với cha:

- Nếu con phải cưới vợ, thì thưa cha nên dùng vàng tía đúc cho con một tượng người nữ để làm kiểu mẫu.

Người cha đúc liền. Hình tượng kia thành tựu với sắc tướng phân minh, dung nghi khả ái, kích cỡ giống như một con người. Ca Diếp Ba xem hình người nữ bằng vàng rồi lại thưa với cha:

- Nếu được như người nữ này thì con sẽ vâng lời cha làm lễ hôn thất.

Người cha nghe rồi, lòng ôm sầu não, tay chống má, than:

- Tai họa thay, nay ta tìm ở đâu có được người con gái đẹp như thế này?!

Bấy giờ, những người học trò thấy thầy ưu khổ, nên hỏi:

- Vì sao thầy (ông trưởng giả) ưu sầu như vậy?

Người thầy liền đem sự việc kể lại cho học trò mình nghe, và hỏi:

- Ở đâu có thể có được người con gái đoan chánh thế này?

Học trò thưa:

- Có thể tìm được. Trong thế gian này, xưa nay chưa có trường hợp nào “có nồi mà không có vung”, “nồi nào sẽ có vung nấy”. Ðầy đủ phước đức như Ca Diếp Ba thì người nữ đẹp đẽ kỳ diệu như vầy cũng có thể tìm được.

Khi ấy, những người học trò nói kệ rằng:

Quả đất lớn rộng vô biên này

Người đẹp như vầy ắt phải có

Nam tử đại phước đức này đây

Nay vì cầu hôn xin chớ lo.

Các người học trò nói kệ xong, đề nghị:

- Nên đúc ba tượng bằng vàng thế này để chúng con đến bốn phương, hy vọng sẽ tìm có mỹ nữ đẹp như thế này.

Khi ấy, những người học trò mang tượng vàng đến từng phương một, gọi tượng vàng là “Kim thần”. Họ đánh trống, thổi ốc, bày biện phẩm vật, cúng dường hương hoa bảo cái, trang hoàng khắp cả thành ấp ấy. Từng địa phương một, họ tìm hỏi, tuần tự đi đến thành Kiếp-tỷ-la15. Trong thành này có một người đại Bà-la-môn cũng mang tên là Kiếp-tỷ-la, giàu có, nhiều của, lắm tôi tớ...

Kiếp-tỷ-la cưới một người con gái dòng họ quý tộc làm vợ. Chung sống chưa bao lâu, họ sanh được một người con gái, dung nhan tuyệt vời, mọi người đều muốn nhìn ngắm. Bấy giờ cha mẹ muốn đặt tên, nhưng vì tiểu nữ này dung nghi khả ái, đoan chánh vô song, bẩm tánh hiền thiện, lại là con gái của dòng Kiếp-tỷ-la, nên lấy đó mà đặt tên là Diệu Hiền. Bấy giờ cô gái Diệu Hiền tuổi đã lớn khôn, thành một người phụ nữ xinh đẹp như hoa, đức hạnh bốn phương xa gần đều biết. Những người học trò mang tượng Kim nữ đến thành này, lớn tiếng rao truyền cùng các sĩ nữ rằng: “Nữ giới nên biết, nếu ai có khả năng dùng hương hoa diệu vật cúng dường thiên thần, thì vị thần này có thể ban cho năm món đại nguyện:

1- Sẽ được sinh vào gia đình phú quý.

2- Sẽ được làm dâu nơi dòng họ quý tộc.

3- Không bị chồng khinh.

4- Sanh con trai có phước đức.

5- Người chồng thường theo ý mình”.

Giới nữ nghe rao truyền như vậy, đều mang hương hoa đến chỗ Kim thần đích thân cung kính phụng hiến. Bấy giờ cha của Diệu Hiền bảo con gái mình rằng:

- Nữ giới đều cùng đến cúng dường thiên thần, con cũng nên đến đó để đích thân phụng hiến.

Diệu Hiền thưa:

- Mục đích đến cúng dường pho tượng ấy là có ý gì?

Người cha nói:

- Phụng hiến kim thân kia để có thể thỏa mãn 5 điều ước nguyện: sanh nhà phú quý, làm dâu quý tộc, chồng không khinh, sanh con có đức, phu chủ theo ý mình.

Diệu Hiền thưa với cha:

- Bản tánh của con không phải là người nữ tham dục. Chuyện gì phải vội đến kính lễ thiên thần kia?

Người cha bảo:

- Tuy con không mong cầu như vậy, nhưng việc lễ kính cũng đâu có tốn gì. Con nên tạm thời cùng đến đó để xem thử.

Diệu Hiền kính thuận, không dám trái ý cha, bèn cùng với các người nữ làm bạn đến chỗ thiên thần. Khi đến nơi, do oai quang của Diệu Hiền phản chiếu rực rỡ, làm cho Kim thân trở thành như đống sắt đen. Các người học trò mục kích hiện tượng khác thường như vậy, đều sinh kinh ngạc chưa từng có, cùng nhau nghị bàn: “Oai quang của vị thần ta hiện tại ở đâu? Thiên long, Bát bộ, các vị thần hút đi đâu rồi chăng? Hay là ánh sáng của người nữ này đã đoạt đi cho nên mới như thế? Tại sao tử kim biến thành sắt đen?”.

Sau khi Diệu Hiền thấy vậy, và cùng bạn về nhà, thì bấy giờ, tượng nữ thiên thần này trở lại hiện sắc vàng tía như cũ. Các người học trò quan sát những sự kiện vừa xảy ra, đều khen là: “Thật hy hữu !”, bèn hỏi mọi người:

- Người con gái có dung nghi vô song này là con của ai? Oai quang của cô ta đã biến vàng trở thành sắt !

Mọi người trả lời:

- Ðó là con gái của đại Bà-la-môn Kiếp-tỷ-la, tên là Diệu Hiền.

Những người học trò thấy sức oai quang của cô ta, đều đâm ra vừa sợ vừa mừng, bèn đến chỗ đại Bà-la-môn, cúi đầu đảnh lễ xong, thưa với ông trưởng giả:

- Phương nam có một cái thành tên là Ny Câu Luật, ở trong thành này có một đại Bà-la-môn cũng tên là Ny Câu Luật, nhà giàu nhiều của, có lắm tôi tớ, vàng bạc, trân bảo, kho lẫm đều đầy cả; có đại thế lực như vua Tỳ-sa-môn. Lại có mười tám tụ lạc lớn rộng để làm phong lộc, có mười sáu đại ấp dùng làm tôi tớ, có sáu mươi ức tiền vàng thật thượng diệu. Vua Ðại Liên Hoa là chủ. Vua Ma Già Ðà có tới ngàn tá điền, thì tá điền của Bà-la-môn cũng bằng vua, nhưng vì sợ điềm không tốt nên chỉ giảm bớt một. Ðại Bà-la-môn ấy có một người con trai tên là Ca Diếp Ba, dung mạo hy hữu, đặc biệt thông minh, không ai sánh bằng, làu thông tứ Bệ-đà16, rành các tạp thuật, thường kiến lập tôn chính mình, khéo bẻ gãy luận cứ của người, trí thức lợi hại như đuốc lửa. Nam tử ấy chưa có hôn thất, nên chúng tôi từ xa đến đây tìm cầu...

Khi ấy, Bà-la-môn Kiếp-tỷ-la từ lâu đã nghe danh Ca Diếp Ba, nên rất khâm phục tài đức. Nay nghe như vậy, rất hài lòng, liền trả lời với mọi người rằng:

- Xin kính thừa ý kiến của quý vị. Chúng ta cùng chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ kết thân hôn.

Những người học trò được sự hứa khả rồi, vui vẻ về báo cáo với đại Bà-la-môn rằng:

- Chúng con đã vì Ca Diếp Ba tìm được hiền thất đoan chánh vô song. Người đó là con gái của đại Bà-la-môn ở tại thành Kiếp-tỷ-la, tên là Diệu Hiền.

Bà-la-môn kia nghe nói như vậy, lòng sanh vui mừng khôn xiết, trả lời rằng:

- Từ lâu ta mong mỏi, nay đã được toại nguyện.

Ca Diếp Ba nghe như vậy, liền nghĩ: “Vì ta tìm vợ à? Tuy nói đã tìm có được, theo như lời truyền miệng, thì người ấy thù thắng, nhưng chưa biết thế nào, nay ta nên đến đó quan sát”.Ca Diếp Ba liền đến chỗ cha mẹ, cúi đầu thưa:

- Kính thưa song thân, hiện nay con muốn đi du quán các nơi.

Cha mẹ nói:

- Cha mẹ chỉ có một mình con, thương yêu hết sức. Hơn nữa, ngày hôn lễ lại sắp đến rồi!Thôi, tạm thời du quán, song con phải sớm trở về.

Khi ấy, Ca Diếp Ba tạm biệt cha mẹ, đến thành Kiếp-tỷ-la, thay hình đổi dạng, kết một cái đãy bằng lá, mang đi xin. Sau khi hỏi, biết nhà của Diệu Hiền, Ca Diếp Ba giả dạng người ăn xin đến đứng nơi cửa ngõ. Theo phong tục của nước ấy, thì khi cho thức ăn phải sai thiếu nữ mang ra. Bấy giờ, Diệu Hiền nghe có người ăn xin, liền tự tay mang thức ăn ra trao cho người ấy. Ca Diếp Ba khi thấy người nữ này thì sanh ý tưởng hy hữu, bèn khen rằng:

- Dung mạo đẹp thế này thì thật là vô song đối với đời. Vất bỏ đi một bông hoa xinh đẹp tươi sáng là một việc làm rất khó !

Diệu Hiền nghe qua liền hỏi ông ta rằng:

- Người đính ước với tôi đã qua đời rồi sao?

Ca Diếp Ba nói:

- Hiện tại người kia vẫn còn.

Người nữ hỏi:

- Nếu vậy, tại sao lại thốt lên những lời như thế?

Ca Diếp Ba lại nói:

- Hiện tại người kia tuy là còn, nhưng thật tình không ưa dục lạc.

Nữ nhân nghe câu nói này, cũng lấy làm kinh hãi và khen rằng:

- Thật là ít có!Thật là việc thiện!Tôi cũng một lòng không ưa hành dục.

Ca Diếp Ba nói:

- Này hiền nữ!Nếu cô là người này thì tôi là người kia đây!Nay chúng ta có thể lập lời thề: Ðối với những lời dạy của cha mẹ, thật sự không dám trái, chỉ trừ khi làm lễ thành hôn, tạm thời chúng ta nắm tay nhau, nhưng sau đó thề sẽ không đụng chạm thân thể vào nhau.

Ca Diếp Ba cùng lập ước thệ nguyện rồi, trở về bổn xứ, tập hợp tôn thân, chuẩn bị tổ chức đại hôn lễ. Sau khi người vợ về, họ cùng ở nơi một trú quán, trải một sàn tòa, nam nữ cùng ở, nhưng mỗi người ở một bên, đều tu thiện nghiệp, cùng nhàm chán việc đời, chuyên tâm tìm đường thoát ly, không hề có một niệm nào khởi tâm nhiễm dục. Bấy giờ, Ca Diếp Ba bảo Diệu Hiền rằng:

- Khắp xem tội lỗi trong sanh tử

Do từ ái nhiễm làm nhân duyên

Hết thảy người đời đều làm quấy

Ðâu ngờ chìm mãi biển ba cõi.

Ca Diếp Ba lại nói với vợ rằng:

- Này hiền thủ, phàm là người nữ, tánh nhiều hôn muội, đầu đêm cuối đêm người có thể an nghỉ, nửa đêm tôi tạm thời tiêu tức.

Sau một thời gian, một hôm Diệu Hiền trong giấc ngủ ngon, duỗi tay thòng trước giường, trong lúc đó thì Ca Diếp Ba hoặc đi kinh hành, hoặc ngồi tư duy. Bấy giờ, Thiên chủ thấy sự việc như vậy nên có ý nghĩ: “Nay ta nên đến thử xem Ca Diếp Ba là người lừa gạt, để cầu danh lợi, hay là chân thật cầu giải thoát !”. Ðế Thích liền hiện xuống, hóa làm một con rắn, hả miệng phun độc, hiện tướng đáng sợ, bò đến chỗ Diệu Hiền, muốn cắn vào tay cô ta. Ca Diếp Ba thấy vậy, liền vội vàng đi đến chỗ Diệu Hiền, dùng cán cây quạt bằng bảo vật, đỡ tay Diệu Hiền để lên giường. Bấy giờ, Diệu Hiền từ trong giấc ngủ, tỉnh giấc, nói với Ca Diếp rằng:

- Này thánh giả!Chớ nên xâm phạm đến lời thề.

Ca Diếp Ba nói:

- Người có thấy con rắn độc bò đến không?

Khi ấy, Diệu Hiền dùng tụng đáp:

- Thà để thân tôi cho rắn cắn

Thân này chỉ chết một lần thôi

Chớ đừng va chạm trái lời thề

Nhẫn dục trầm luân đâu bến bờ.

Khi ấy, Ca Diếp Ba bảo với vợ rằng:

- Này hiền thủ!Ðó là tâm chí thành của người cùng tu tịnh hạnh.

Và Ca Diếp Ba nói kệ:

- Ði trên đao lửa tuy khó thật

Ðối nữ tu hành còn khó hơn

Nếu hay thủ chí không sứt mẻ

Thì thế gian này có một thôi !

Bấy giờ Ca Diếp Ba đem việc này nói với Diệu Hiền rằng:

- Chẳng phải tôi vì dục tâm mà muốn xúc chạm đối với người. Song tôi có dùng cán quạt để đỡ cánh tay người cho khỏi rắn cắn.

Khi ấy, Ðế Chúa kia thấy vậy phải vừa than, lại vừa thẹn, rồi trở về lại thiên cung. Hai người này ở trong một trụ quán, trải qua mười hai năm, tu hạnh thanh tịnh, như đức Phật đã dạy:

“Tích tụ đều tiêu tán

Trèo cao ắt đọa rơi

Hiệp hội rồi biệt ly

Có mạng thảy phải chết”.

Sau khi mẹ qua đời, Ca Diếp Ba phải để ý đến gia nghiệp. Một hôm, đến chỗ dinh điền, nhìn thấy công việc cày đất, Ca Diếp Ba nói kệ:

Xem chỗ cày bừa này

Tổn đất, hại côn trùng

Sức trâu lại mệt nhọc

Thương xót như thân thuộc

Nông phu khổ vất vả

Nắng gió tổn hình dung

Làm việc cày bừa mệt

Thấy vậy tâm áo não !

Khi ấy, Ca Diếp Ba hỏi người cày ruộng rằng:

- Ruộng này là ruộng của gia đình nào?

Người cày ruộng trả lời:

- Ðây là ruộng của Ca Diếp Ba.

Ca Diếp Ba nói:

- Gia đình tôi đâu có điền nghiệp này.

Người cày ruộng nói:

- Tôi đã cày ruộng này cho thân sinh của ông từ xưa đến nay.

Ca Diếp Ba nghe nói như vậy rồi, bảo người cày ruộng rằng:

- Từ nay tôi giải phóng các ông. Các ông sẽ không còn làm tôi tớ nữa. Các ông tự do đi đâu thì đi, theo ý muốn. Tất cả các gia súc trâu bò cũng tự do sống, không có bất cứ sự bó buộc nào.

Ca Diếp Ba thấy đó là những việc làm vô ích, bèn nói kệ rằng:

- Thức ăn không quá một thăng cơm

Chỗ ngủ không ngoài một chõng con

Che thân vải đủ hai trương điệp

Ra ngoài cái đó vật ngu si.

Ca Diếp Ba bảo người vợ rằng:

- Này hiền thủ, nay tôi có nguyện xả tục xuất gia. Vì sao vậy?- Vì tại gia ràng buộc như lao ngục, thường bị tất cả khổ não trói cột. Ðây là chỗ mà tất cả các ác tri thức đều nương vào đó mà tạo nghiệp, nhơn duyên không bao giờ thôi dứt. Xuất gia phóng khoáng như hư không, tha hồ tu thanh tịnh ph���m hạnh, sớm viên mãn đến chỗ giải thoát.

Ca Diếp Ba nói kệ:

Rừng núi nhiều vắng lặng

Thản nhiên không sợ sệt

Nơi đây mà siêng tu

Thì lìa các trói buộc

Chánh kiến cùng tà kiến

Ðều từ tâm phát sinh

Yên ở rừng không nhàn

Kẻ trí thường quán sát

Nếu người tham việc đời

Các khổ thường theo đuổi

Hốt nhiên lìa lưới trần

Nay đến cung Niết-bàn.

Ca Diếp Ba nói kệ xong, liền ra lệnh cho người giữ kho rằng:

- Lấy đem cho tôi một bộ y hết sức xấu. Tôi muốn bỏ nhà để tu nghiệp xuất ly.

Người giữ kho mở kho tìm, nhưng tất cả các loại y đều thuộc về loại vô giá, chỉ có một đoạn điệp bố xấu nhất, đại khái giá trị của nó bằng một ức kim tiền, mang đến dâng cho Ca Diếp Ba. Ca Diếp Ba nhận rồi, liền từ nhà ra đi.

Khi Bồ-tát quán sát khắp cả lão, bệnh, tử, thì ngài được chư thiên vây quanh bảo hộ. Giữa đêm đó, ngài vượt thành xuất gia, đến nơi rừng Cần-khổ. Cũng vào thời điểm này, Ca Diếp Ba xả bỏ gia nghiệp, tu hạnh xuất ly và tự nghĩ rằng: “Nếu trong thế gian này, ai là bậc A-la-hán, thì tôi sẽ nương nơi vị ấy, thành kính một lòng thừa sự”.

Khi đã xuất gia rồi, người bấy giờ gọi Ca Diếp Ba là ẩn sĩ. Lúc Ca Diếp Ba đang ở bên Chế-để-đa-tử17, thì Bồ-tát đang ở nơi A-lan-nhã18. Trải qua sáu năm tu khổ hạnh, Bồ-tát biết đó là việc làm vô ích, chỉ đem lại sự nhọc mệt mà thôi, nên sau đó Bồ-tát đến Hoan Hỷ, Hoan Hỷ Lực, chỗ hai người nữ chăn bò, thọ dụng một ít cháo sữa, được Long vương khen ngợi, rồi đến chỗ người gánh cỏ kiết-tường, xin lấy loại cỏ mềm nhuyễn, đến nơi gốc Bồ-đề, tự trải cỏ ra làm tòa kim cương để ngồi. Sau đó, kiết già phu tọa, đoan thân chánh niệm, như Long vương ngủ. Bấy giờ, Bồ-tát dùng gậy từ bi hàng phục ba mươi sáu ức thiên ma binh chúng, chứng Vô thượng giác.

Lần lượt Bồ-tát đến nước Ba-la-nê-tư19, chỗ tiên nhân đọa20, trong rừng Thí Lộc21, vì năm Bí-sô22và năm người theo hầu, ba phen chuyển mười hai hành pháp luân. Tại nơi đóng đại quân Bà-la-môn và hai người nữ chăn bò, Bồ-tát vì họ nói diệu pháp, khiến họ sanh chánh kiến, đều chứng sơ quả, luôn cả một ngàn người ngoại đạo Lưu-kế23.v.v.... Tất cả đều quy y Phật, xin xuất gia và thọ Cận viên24. Vua Tần-bà-sa-la cũng trụ vào kiến đế.

Bồ-tát đến thành Vương-xá, ở nơi vườn Trúc Lâm, độ Ðại Mục Kiền Liên và Xá Lợi Tử.

Tiếp tục, Bồ-tát đến thành Thất-la-phiệt, vì vua Thắng Quang nói kinh Thiếu niên, điều phục được vua. Ngài vì Thắng Man phu nhân, Tỳ Lư tướng quân và Tiên Thọ.v.v... khiến cho họ kiến đế. Thường pháp của Vô thượng Thế Tôn là như vầy: “Quán sát trong thế gian không một việc gì không nghe thấy, hằng khởi tâm đại bi, để tất cả đều được lợi ích”. Trong vấn đề cứu hộ, Ngài là người đệ nhất, là người hùng mãnh, không nói hai lời, an trụ nơi định tuệ, hiển phát tam minh, khéo tu tam học, khéo điều tam nghiệp, vượt khỏi bốn bộc lưu, an tứ thần túc. Suốt cuộc đời, Ngài thực hành tứ nhiếp hạnh, xả trừ năm cái, xa lìa năm chi, vượt khỏi năm đường, sáu căn đầy đủ, sáu độ viên mãn, khắp thí bảy tài, mở bảy giác hoa, lìa tám pháp của đời, chỉ bày tám đường chánh, vĩnh đoạn chín kiết, sáng tỏ chín định, đầy đủ mười lực, tiếng đồn khắp mười phương. Trong tất cả các đấng tự tại, Ngài là bậc tối thắng, đặng pháp vô úy, hàng phục ma oán, chấn đại lôi âm, rống tiếng rống sư tử, ngày đêm sáu thời thường dùng Phật nhãn quán sát thế gian, ai thêm ai bớt, ai gặp khổ ách, ai hướng đến ác thú, ai sa vào bùn dục, ai kham nhận sự giáo hóa, bằng phương tiện nào nhằm cứu giúp để được ra khỏi, người không có thánh tài khiến được thánh tài, dùng trí An-thiện-na25phá màng mắt vô minh, người không có căn lành khiến trồng căn lành, người có thiện căn khiến được tăng trưởng, an trí nơi đường nhơn thiên, an ổn vô ngại, hướng đến thành Niết-bàn, như có bài tụng:

“Giả sử sóng biển lớn

Có thể mất hạn kỳ

Phật đối việc giáo hóa

Tế độ không lỗi thời.

Như mẹ có một con

Thường hộ thân mạng nó

Phật đối người giáo hóa

Mẫn niệm còn hơn kia

Phật đối với hữu tình

Từ niệm không xả ly

Nghĩ cứu khổ nạn họ

Như bò mẹ theo con”.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nghĩ như vầy: “Ðã đến lúc hóa độ ẩn sĩ Ca Diếp Ba”. Ngài liền đến nước Phật-lật-thị26, du hành trong nhân gian, đến thành Quảng-nghiêm27, bên tháp Ða-tử, ngồi dưới gốc cây. Vì muốn dẫn đường Ca Diếp Ba nên tự thân Ngài phóng ra ánh sáng, chiếu soi như núi Diệu-Kim, rực rỡ hy hữu, sáng khắp mọi nơi. Bấy giờ, Ca Diếp Ba thấy sự việc như vậy, tìm theo ánh sáng, đến chỗ đức Thế Tôn. Từ xa, thấy đức Như Lai dung mạo đoan chánh, tướng hảo đặc thù, các căn trạm tịch, nhất tâm không loạn, giống như Sơn vương sắc vàng chói lọi, Ca Diếp Ba vui mừng nhảy nhót, lớn tiếng xướng lên:

- Ðây là thầy của tôi, tôi là đệ tử !

Ðức Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy!Ðúng vậy!Này Ca Diếp Ba, ta là thầy của ngươi, ngươi là đệ tử của ta.

Ca Diếp Ba thành tâm ân cần lễ kính.

Ðức Phật lại bảo:

- Những gì thật sự không biết, mà nói có biết; thật sự chưa từng thấy mà nói từng thấy; thật sự chẳng phải là đại sư mà nói là đại sư; thật sự chẳng phải là La-hán mà nói là La-hán; thật sự chẳng phải là Bạc Già Phạm mà nói là Bạc Già Phạm; chẳng phải Tam Phật Ðà mà nói là Tam Phật Ðà... Hạng người trá ngụy này đầu họ sẽ vỡ ra làm bảy mảnh. Này ông Ca Diếp Ba!Những gì ta biết, ta nói rằng ta biết; ta thấy nói rằng ta thấy; ta là đại sư, nói rằng đại sư; ta là A-la-hán, nói rằng A-la-hán; ta là tam Phật Ðà, nói rằng Tam Phật Ðà. Ta có nhân duyên vì các Thanh văn tuyên nói pháp yếu, chẳng phải không có nhân duyên; thật là xuất ly, chẳng phải không xuất ly; là chỗ quy y, chẳng phải chẳng quy y; là chơn siêu việt, chẳng phải không siêu việt; là có thần thông, chẳng phải không thần thông. Vì những nhân duyên này, Ca Diếp Ba, ông nên học như vậy. Nên nghĩ như vầy: Pháp tôi được nghe, cùng với thiện tương ưng. Tôi đều cung kính chuyên tâm mà nghe, tôn trọng, ghi nhớ; một ý tưởng không rời; lắng nghe, suy nghĩ, kính tâm thọ trì. Ðối với năm thủ uẩn, ta thật quán biết là cái khổ sanh diệt. Ðối với sáu xúc xứ, ta thấy nó là tập hợp, nó là mờ mịt. Ðối với tứ niệm xứ, khéo hay trụ tâm. Ðối với bảy Bồ-đề phần, ta sẽ tu tập và tu tập nhiều hơn. Ðối với tám giải thoát, ta sẽ thân chứng đặng viên mãn vậy. Ta, trong vai đại sư và người có trí, chỗ đồng phạm hạnh, luôn khởi tâm ân cần tôn trọng, hết sức tàm quý. Chánh kiến của ta, niệm niệm tương tục. Ðối với thân, chuyển theo không gián đoạn. Này Ca Diếp Ba, ông nên học như vậy.

Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm vì Ca Diếp Ba tuyên dương pháp yếu, qua những lời dạy hay ho, vui vẻ, rồi thì từ chỗ ngồi ra đi. Khi ấy cụ thọ Ma-ha Ca Diếp Ba đi theo sau đức Phật, và nghĩ rằng: “Khi nào đức Phật ngồi, ta sẽ dâng y diệp Tăng-già-chi28này để làm chỗ ngồi”.

Vào lúc ấy, lại có năm trăm bọn giặc đi theo sau muốn cướp đoạt. Ðức Thế Tôn biết như vậy, nên Ngài ngồi bên lộ. Khi ấy Ca Diếp Ba đến chỗ đức Thế Tôn, vội vã lấy diệp y trải làm chỗ ngồi cho đức Phật. Thế Tôn liền ngồi và nói với Ca Diếp Ba rằng:

- Vải Tăng-già-chi này rất là mịn, rất là mỏng.

Ca Diếp Ba thưa:

- Kính bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy. Vải này rất mịn và mỏng, cúi xin Ngài nạp thọ.

Ðức Thế Tôn bảo:

- Ngươi có thể mặc áo gai phấn tảo29của ta chăng?

Ca Diếp Ba thưa:

- Cúi xin đức Thế Tôn ai mẫn cho con, nhận chiếc y mỏng này. Thế Tôn ban cho con chiếc y gai phấn tảo, con sẽ đắp nó.

Ðức Thế Tôn dũ lòng thương thọ nhận. Từ khi Ca Diếp Ba nhận y gai phấn tảo, trong vòng tám ngày đầu, theo thứ tự như vậy, tự mang đi khất thực, vừa nỗ lực thiền định, nhưng vẫn chưa chứng được đạo quả. Sang đến ngày thứ chín, mới chứng đắc quả A-la-hán.

Trong khi đó, Diệu Hiền không có chỗ nương thân, lại không rành mọi việc nên cô chỉ xem hình tướng bên ngoài mà đánh giá. Do đó, cô đã đem lòng kính trọng ngoại đạo không mặc áo, nên đã xuất gia theo họ. Người nữ này nhờ có dung nghi đoan chánh không ai bằng, nên ngoại đạo thấy đều sanh tâm đắm nhiễm. Tuy rất nhờm gớm, nhưng không thể xa lìa, cô gái phải bị năm trăm người ngoại đạo không mặc áo, cùng nhau làm những việc phi pháp. Diệu Hiền mắng nhiếc rằng:

- Các ông đã làm hạnh tồi tệ xấu ác này, đâu thành tu đạo.

Thân yếu ớt của người nữ đãbị khinh nhục và chịu khổ quá đáng!

Diệu Hiền đem việc này thưa lại với phái nữ ngoại đạo không mặc áo. Các người nữ trả lời:

- Cô có thể đem vấn đề đó đến chỗ vị đại sư Bổ-lặt-noa trình bày đầy đủ.

Người nữ kia theo sự hướng dẫn, liền đến chỗ vị sư, lễ sát hai chân, rồi thưa:

- Nay tôi gặp phải ách nạn hết sức khổ sở. Xin ngài từ bi cứu giúp.

Vị sư kia trả lời:

- Ðời sống của ta tùy thuộc vào sự cung kính tôn trọng của đồ chúng đó, mà thu hoạch được nhiều lợi dưỡng. Theo những điều kiện của nội quy, thì môn đồ của ta thảy đều phân tán hành đạo, nên từ đó trở thành sự suy giảm, tùy ý họ hành động, ta không thể biết được!

Sự kêu cứu đã bị chôn vùi, và người nữ này đã trở thành đối tượng cho hai trăm năm mươi người, thay đổi nhau làm những điều phi pháp. Bấy giờ, người nữ này nhơn lúc phiền não ưu lo vơi đi chút ít, và tại thành Vương-xá cũng có tiết hội vui chơi, Diệu Hiền cùng với lõa hình ngoại đạo đi vào thành. Lúc bấy giờ, Ca Diếp Ba cũng đang ở tại thành Vương-xá, trong một phòng nhỏ nơi A-lan-nhã. Sáng hôm ấy, đắp y mang bát vào thành khất thực, bỗng gặp Diệu Hiền, Ca Diếp Ba hỏi:

- Hiền thủ, từ lâu người sống có được an lạc, tu tịnh hạnh thế nào?

Diệu Hiền vừa thấy Ca Diếp Ba, với lòng bi cảm, nước mắt ràn rụa, vừa lau vừa nói:

- Cùng ai làm bạn? Nương vào nơi nào để tu tịnh hạnh? Xưa kia cùng ngài ở nơi trụ quán, suốt mười hai năm kiên tâm tu diệu nghiệp, tịnh hạnh nghiêm khiết, thỉ chung không thay đổi. Ban đầu với tâm không nhiễm, dùng tay xúc chạm nhau. Từ khi xa cách đến nay, một khi đã gặp phải sự trái ngược sai khác, khi đã gieo mình vào nơi hỗn tạp, phóng túng, tạp uế tập trung này, thì nếp sống đồng như súc sanh, không thành xuất gia, làm sao có được tịnh hạnh?!

Bấy giờ Ca Diếp Ba mới hỏi lại mọi việc. Diệu Hiền với sự kính trọng như đối với người cha lành, trình bày đầy đủ mọi việc. Ca Diếp Ba tự nghĩ: “Người nữ này có căn lành đời trước hay không?”. Ca Diếp Ba quán sát thấy người nữ này có căn lành, có phần giải thoát và mình có thể tế độ được, nên nói:

- Tại sao hiền thủ không xuất gia trong pháp luật thiện này?

Diệu Hiền trả lời:

- Thưa thánh giả, chớ khiến đời tôi dẫm lại vết xe cũ.

Ca Diếp Ba ngắt lời:

- Thôi, thôi!Hiền thủ chớ nói như thế. Ðại sư của tôi vạn đức viên mãn, diệt tất cả chướng ngại, là bậc chơn phước điền, là nơi nương tựa vi diệu tịch tịnh, chứng chơn giải thoát, người không nên đem pháp của hạng hạ liệt mà so sánh được!

Diệu Hiền nghe rồi hoan hỷ làm theo. Ca Diếp Ba hướng dẫn Diệu Hiền đến trao cho Ðại Thế Chúa30và nói:

- Thánh giả, Diệu Hiền này là người nữ, với tâm hân hoan thắng pháp, trong ý niệm cực thiện, có thể cho xuất gia.

Ðại Thế Chúa kính nhận lời dạy của Ca Diếp Ba, liền cho Diệu Hiền năm pháp y cùng các vật dụng, trao các học xứ và cho thọ Cận viên, rồi bảo:

- Nay cô có thể ở trong cảnh giới của Phật khất thực để nuôi thân, khéo tu tịnh hạnh.

Bấy giờ, buổi sáng, Diệu Hiền chấp trì y bát vào thành khất thực. Với một người nữ nghi mạo đoan chánh trong đời ít có, nên mọi người một khi đã thấy, họ vừa thắc mắc vừa khen ngợi: “Tại sao người nữ này với dáng thùy mị tuyệt vời lại đành vất bỏ lứa tuổi hoa, không hưởng thụ dục lạc, buông xả nếp sống vinh hiển tốt tươi, mà làm người xuất gia?”. Diệu Hiền nghe rồi, bèn sanh thẹn thùng xấu hổ, từ đó không vào thành khất thực nữa. Sau đó, nhân gặp Diệu Hiền, Ca Diếp Ba hỏi:

- Hiền thủ có được an lạc không?

Diệu Hiền trình bày đầy đủ mọi việc về dư luận cho Ca Diếp Ba nghe. Nghe xong, Ca Diếp Ba liền khởi ý nghĩ: “Nếu được đức Phật cho phép, ta xin được thức ăn, rồi trích phân nửa cho Diệu Hiền, thì ta sẽ thực hiện điều đó”. Ca Diếp Ba bạch với các Bí-sô, các Bí-sô bạch lên Phật, đức Phật dạy:

- Tùy ý cho phân nửa.

Tôn giả nghe vậy, liền trao phân nửa phần thức ăn cho Diệu Hiền, trong tinh thần cứu tế.

Khi ấy, Thổ La Nan Ðà ni thấy việc như vậy, bèn sanh tâm khinh rẻ, chê cười rằng:

- Thánh giả Ðại Ca Diếp Ba trước kia cùng với Diệu Hiền ở chung một trú quán, trong thời gian mười hai năm tịnh tu phạm hạnh, nhưng hôm nay lại có tư tình, khất thực cho nhau ăn.

Ca Diếp Ba nghe nói như vậy, liền đến chỗ Diệu Hiền trao dạy pháp yếu: “Việc này nên làm, việc này không nên làm, nên khéo dụng tâm”. Nói xong ra đi.

Khi ấy, Diệu Hiền phát tâm đại dõng mãnh, sau phần đầu của đêm, chánh niệm tương ưng, khắc trách tự tâm, không hề thôi nghỉ, bèn chứng được quả A-la-hán, chuyển thành người nữ thanh tịnh vô song.

Bấy giờ, Ca Diếp Ba gặp Diệu Hiền, bảo rằng:

- Cô được như hôm nay, nhờ tôi là thiện tri thức. Ðiều gì cần làm, nay đã làm xong. Ðối với trong cảnh giới của đức Phật, nên khất thực để tự nuôi thân.

Phần đầu của ngày, Diệu Hiền chấp trì y bát vào thành Vương-xá, tuần tự đi khất thực.

Lúc ấy, vua Vị Sanh Oán31giết cha một cách oan uổng, sanh tâm hối hận nhiều, lòng ôm ưu sầu, dấu mình trong tư thất, tuy có các thứ cổ nhạc, ca vịnh, đờn địch... nhưng không giải được sầu não. Cũng vào lúc này, vị đại thần của nhà vua gặp Diệu Hiền với dung mạo đoan chánh, nhan sắc thù thắng tuyệt vời, bèn khởi ý nghĩ: “Mỹ nữ này đặc thù, khác với người thường, có thể đem dâng hiến cho vua, hy vọng sẽ giải trừ được nổi ưu sầu của vua”. Nghĩ như vậy rồi, vị đại thần nọ đưa Diệu Hiền đến gần chỗ vương thất, cưỡng bức Diệu Hiền cởi bỏ pháp y, mặc theo y phục của thể nữ, trang sức đầy đủ bằng anh lạc, xoa các danh hương và khiến người hầu cận dẫn đến chỗ vua. Vua Vị Sanh Oán vừa thấy người nữ dung nhan tuyệt vời này, liền giải được nỗi ưu sầu. Hiện tại, do ác nghiệp của Diệu Hiền đã đến lúc thuần thục, như dòng nước bộc lưu không thể ngăn được, nên bị ác vương cưỡng bức hủy nhục, như trúng mũi tên độc, sanh đại ưu khổ.

Bấy giờ, vào ngày rằm, sắp làm lễ Bao-sái-đà32, Ðại Thế Chúa nhìn khắp ni chúng, không thấy Diệu Hiền, liền nhập định để quán sát, thì thấy Diệu Hiền đang ở trong vương cung, bị áp bức thọ đại cực hình, đau khổ phi thường. Các ni hỏi:

- Thưa thánh giả, Diệu Hiền hiện nay ở đâu, mà không thấy có mặt nơi đây?

Ðại Thế Chúa liền bảo ni Liên Hoa Sắc rằng:

- Cô nên nhiếp niệm đối với Diệu Hiền.

Liên Hoa Sắc nghe xong, liền nhiếp niệm, biết Diệu Hiền hiện ở tại... Như kẻ dũng sĩ chỉ trong chớp nhoáng, Liên Hoa Sắc biến mất trước ni chúng và xuất hiện nơi vương cung, đứng yên giữa không trung trên lầu cao, từ xa, bảo Diệu Hiền rằng:

- Này Diệu Hiền, tại sao cô đã có thể phá các phiền não ma, mà lại không phát khởi đại thần thông, để phải chịu sự lăng nhục như vậy?

Ni Liên Hoa Sắc liền trao pháp yếu: “Nên làm như thế này, nên tu như thế này!Mau tự điều tâm, phát khởi thông lực”. Khi ấy Diệu Hiền hộ niệm trừ loạn. Chỉ trong khoảnh khắc, chứng đặng thần túc, mặc chiếc áo thế tục rực rỡ, nương nơi hư không mà đi. Liên Hoa Sắc liền cùng với Diệu Hiền đến chỗ trưởng tịnh. Khi ấy, mười hai chúng Bí-sô ni33thấy vậy rồi sanh đại cơ hiềm, nói lời chế nhạo:

- Thật sự, tôi không thể cùng với cung nhân này đồng chỗ trưởng tịnh.

Ðại Thế Chúa nghe nói như vậy, bảo Diệu Hiền:

- Này cụ thọ, cô nên đến thưa với vua, mặc lại pháp phục trước kia, rồi trở lại đây liền.

Diệu Hiền nương thần thông đến chỗ ngủ của nhà vua. Bấy giờ, nhà vua còn đang ngủ. Diệu Hiền từ không trung khảy móng tay, làm thành tiếng động, nhà vua thức dậy, thấy vậy rất kinh hoàng, lông t��c đều dựng đứng lên, hoảng hốt nói:

- Người là ai? Là thiên long chăng? Là thần quỷ chăng?

Nghe nhà vua hỏi như vậy, Diệu Hiền từ trên không trung trả lời:

- Tôi không phải thiên, long, quỷ, thần.v.v... Tôi chỉ là Bí-sô ni tên là Diệu Hiền, trong chúng Thanh văn của vị Ðại sư.

Nhà vua nghe rồi, dùng bài tụng trả lời:

- Hiện không pháp y và bình bát

Dung nghi lại không giống hình ni

Tướng mạo đã đồng diễm nữ ca

Pháp, tục trái nhau nói hết rồi.

Diệu Hiền hạ thân giáng xuống, đem sự việc thưa trình:

- Ðại vương phi lý cùng xâm bức

Cưỡng đoạt bát tôi và pháp y

Của cha mẹ, nên trao trở lại

Tôi cần về mau để trưởng tịnh.

Khi ấy, vua Vị Sanh Oán nghe nói như vậy, ngất xỉu, té xuống đất, phải dùng nước cấp cứu mới tỉnh dậy. Nhà vua kính lễ sát hai chân, cầu ai sám tạ và bảo lấy y bát kính cẩn trao lại cho Diệu Hiền. Nhận lại được y bát rồi, Diệu Hiền liền trở về bổn xứ, cùng với các ni chúng làm lễ trưởng tịnh.

Lúc bấy giờ, các Bí-sô ni đem vấn đề của Diệu Hiền bạch với các Bí-sô, các Bí-sô bạch lên đức Phật. Thế Tôn dùng nhơn duyên này tập hợp các Bí-sô ni. Thường pháp của chư Phật là biết mà vẫn hỏi, đúng thời thì hỏi, phi thời thì không hỏi. Có lợi mới hỏi, không lợi ích không hỏi. Phá tung, đề phòng là trừ nghi hoặc. Ðức Thế Tôn hỏi Bí-sô ni Diệu Hiền rằng:

- Thật sự cô có làm việc không đoan chánh như vậy hay không?

Diệu Hiền bạch:

- Kính bạch đức Thế Tôn, thật sự con có làm như vậy.

Ðức Thế Tôn lại hỏi:

- Cô có thọ lạc hay không?

- Kính bạch đức Thế Tôn, con đã ly dục, con đâu có thọ lạc.

Ðức Phật dạy:

- Như vậy cô không phạm, song Bí-sô ni nào làm hạnh bất tịnh thì phạm Ba-la-thị-ca34. Như Tô-trần-na35, ta nhận thấy mười điều lợi36..., hiển dương chánh pháp, lợi khắp nhân thiên. Vì các đệ tử Bí-sô ni Thanh văn, đối với Tỳ-nại-da37, chế học xứ 38này. Nên nói như vầy:

Bí-sô ni nào, cùng các Bí-sô ni đồng thọ trì học xứ, chưa xả học xứ, học xứ sút kém nhưng không phát lồ, mà làm hạnh bất tịnh, hai bên làm pháp giao hội, cho đến cùng với loài bàng sanh, Bí-sô ni ấy là kẻ Ba-la-thị-ca, không được sống chung.

VÌ SAO ÐƯỢC THIỂU DỤC?

Chuyện I:

Lúc ấy, các Bí-sô đều có nghi vấn, thưa hỏi đức Thế Tôn:

Tôn giả Ca Diếp Ba và Diệu Hiền trước kia đã tạo nghiệp gì, để do nghiệp lực kia mà cả hai người đều được thiểu dục?

Ðức Phật bảo các Bí-sô:

- Hai người kia trước đã tạo nghiệp, nên nay có quả báo tự thọ. Các ông nên khéo nghe. Này các Bí-sô, thuở xa xưa có một nông phu ở trong một tụ lạc, sớm chiều lùa trâu đến ruộng cày cấy. Ðến giờ cơm, người vợ mang đến ăn. Một hôm, người vợ vào rừng kiếm củi để nấu cơm. Có một vị Ðộc giác ngồi dưới gốc cây nơi rừng đó. Người vợ thấy vị Ðộc giác thân tâm tịch tịnh, nhan sắc đoan nghiêm, bèn kính lễ sát chân ngài, rồi ngồi chiêm ngưỡng. Người nông phu lấy làm lạ trước sự bê trễ của vợ, nên khởi ý nghĩ: “Tại sao hôm nay chờ mãi mà không thấy vợ mình mang cơm đến?”. Người nông phu bèn vác cày đến khu rừng, thấy vợ mình ngồi trước vị Ðộc giác, liền buông lời:

- Nhà ngươi cùng người này đang làm việc phi pháp !

Khi ấy, vị đại sư kia nghe nói như vậy, vì lòng ai mẫn đối với đương sự, nên như con nga vương, vụt bay lên không trung, hiện các thần biến, phần trên thân phát ra hỏa quang, phần dưới thân tuôn ra thanh thủy. Người nông phu thấy vậy, sanh lòng xấu hổ, gieo mình xuống đất như cây đại thọ bị ngã, quỳ gối, chắp tay, từ xa hướng đến, kính cẩn thưa:

- Cúi xin đại thánh chơn thanh tịnh dũ lòng đại bi, thọ nhận sự cúng dường của con.

Vì lòng từ mẫn, vị Ðộc giác từ không trung hạ xuống. Người nông phu thưa:

- Kính thưa đại sĩ, con ôm lòng nghi ngờ nên nói ra những lời phi lý. Cúi xin ngài dung thứ cho !

Người nông phu liền bưng món ăn thượng soạn dâng lên vị Ðộc giác, chắp tay dưới chân ngài, phát nguyện:

- Vì bởi dục tâm nên con khởi ác niệm. Hai đứa con xin nguyện: đời đời thường có ít các thứ dục nhiễm.

Này các Bí-sô, các ông nghĩ sao? Người nông phu trước kia đâu phải là ai khác, nay là cụ thọ Ca Diếp Ba. Vợ của nông phu nay là Diệu Hiền vậy. Từ đó về sau, mãi đến ngày hôm nay, cả hai đều đạt được thiểu dục.

Chuyện II:

Các ông nên nghe tiếp:

Xa xưa về trước, ở trong tụ lạc nọ, có một trưởng giả giàu có, nhiều của. Sau một thời gian, đến tiết tam xuân, trăm hoa đua nở, núi rừng tươi tốt, ao nước trong veo, chim hót. Các loại chim khổng tước, oanh võ, nga, nhạn, uyên ương... bay hót véo von. Ông trưởng giả cùng với gia quyến dạo chơi nơi phương viên. Khi ấy đời không có Phật, chỉ có Ðộc giác xuất hiện. Vị Ðộc giác ôm lòng ai mẫn, thọ dụng ngọa cụ xấu, coi là thượng phước điền, ưa sống nơi nhàn tịnh, không cùng thế tục giao tiếp, như con đại tê giác thích lìa bầy sống một mình. Lúc ấy, vị Ðộc giác ngồi dưới gốc cây nơi phương viên. Ông trưởng giả dẫn vợ đến trong rừng cùng nhau hành dục. Vì trong cảnh hoang vu và mãi đắm say nơi sắc dục, nên không thấy đại sĩ. Vị Ðộc giác nghe tiếng, từ cảnh định xuất, ông trưởng giả thấy, liền sanh tâm xấu hổ, ôm lòng hối hận, dâng lễ cúng dường, chắp tay phát nguyện:

- Con làm việc ác, do vì đam mê sắc dục. Hai đứa con xin nguyện: Trong đời vị lai đều được quả báo thiểu dục.

Này các Bí-sô, các ông nghĩ sao? Ông trưởng giả xưa kia đâu phải là ai khác, nay chính là cụ thọ Ca Diếp Ba, còn vợ của trưởng giả nay là Diệu Hiền. Do phát nguyện như vậy nên hai người đều được thiểu dục.


VÌ SAO ÐƯỢC LÀM NGƯỜI XUẤT GIA?

Bấy giờ, các Bí-sô thưa:

- Bạch đức Thế Tôn, thật là điều hy hữu, cụ thọ Ca Diếp Ba và Diệu Hiền nữ, cả hai đều xuất gia !

Ðức Phật bảo các Bí-sô:

- Chẳng phải mới đời này hai người đều bỏ thế tục làm người xuất gia, mà xa xưa cũng đã như vậy. Các ông lắng nghe. Ta sẽ vì các ông mà nói.

Xưa kia, ở tại thành Ba-la-nê-tư, có một người thợ đồ sứ. Tại cơ sở chế tạo này, có bốn vị Ðộc giác đến đó xin tá túc một đêm. Các ngài đến, kẻ trước người sau nên không biết nhau. Bấy giờ, có một vị Ðộc giác vào định hỏa quang. Nhờ ánh sáng của định hỏa quang nên các ngài từ xa cùng thấy nhau và hỏi:

- Ngài là ai?

Một vị trả lời:

- Quý vị có nghe nhà vua tên là Trương Bình, nhà vua ấy có ức thiên binh voi vây quanh hay chăng?

- Chúng tôi có nghe danh nhà vua ấy.

Vị ấy trả lời:

- Nhà vua ấy là tôi đây.

Quý vị kia hỏi:

- Do nhân duyên gì mà ngài làm người xuất gia?

Vị ấy kể lại:

- Khi tôi ở trên lầu cao, nhìn thấy chim Diều hâu ngậm miếng thịt đang bay, có bầy chim bay theo, thay nhau cắn xé miếng thịt. Con chim Diều hâu bỏ miếng thịt, bay qua một bên. Các con chim kia cùng nhau cấu xé, dành nhau rúc rỉa. Tôi thấy cảnh huống như vậy, lòng sanh nhàm chán, xa lìa, khởi ý nghĩ: “Ðể làm gì, mà làm việc vô ích như vậy?”. Do đó, tôi vất bỏ tất cả, làm người xuất gia.

Vị ấy nói tụng:

Thấy Diều hâu ngậm thịt

Các chim cùng tranh nhau

Bỏ thịt, được an ổn

Nên tôi bỏ vương vị

Niệm dục không chân thật

Như mộng tưởng điên đảo

Ði riêng như tê giác

Sống ở một bên thôi.

Kế đến, hỏi vị Ðộc giác thứ hai:

- Ngài là ai?

Vị Ðộc giác thứ hai nói:

- Quý vị có nghe nhà vua tên là Xú Diện, ông ta có vô lượng ức thiên binh mã vây quanh hay không?

Quý vị kia trả lời:

- Chúng tôi có nghe danh nhà vua ấy.

Vị ấy trả lời:

- Chính nhà vua ấy là tôi đây.

Quý vị kia lại hỏi:

- Vì nhân duyên gì mà ngài làm người xuất gia?

Vị ấy kể lại:

- Khi tôi ở trong cung, có vô lượng ức thiên binh mã vây quanh. Tôi thấy hai con trâu đực chạy theo một con trâu cái, húc lộn nhau, cơ thể bị thương tổn. Một con bị gãy sừng bỏ chạy. Tôi mục kích sự việc như vậy rồi, trong lòng ta thán, tự nghĩ: “Tất cả điều tội lỗi khổ đau, tham dục là gốc, tâm luôn não hại. Tôi sanh tâm nhàm chán sâu xa, lo ngại hoạn nạn, nên liền xuất gia”.

Lại nói kệ tụng rằng:

- Tôi thấy hai trâu giành một cái

Húc lộn nhau cơ thể tổn thương

Một con xả ly được an ổn

Hữu tình vì dục thường ôm sợ

Ta như tê giác hằng riêng rẽ

Rừng rú an nhiên trú một bên

Không bị các dục nó lôi cuốn

Ðặng đến chỗ tự tại vô vi.

Kế đến, hỏi vị Ðộc giác thứ ba:

- Ngài là ai?

Vị Ðộc giác thứ ba trả lời:

- Quý vị có nghe nơi thành Ba-la-nê-tư có nhà vua tên là Phạm Thọ, nhà vua ấy có vô lượng ức thiên nhơn chúng vây quanh hay chăng?

Quý vị kia trả lời:

- Chúng tôi đã từng nghe danh nhà vua ấy.

Vị ấy trả lời:

- Chính nhà vua ấy là tôi đây !

Quý vị kia lại hỏi:

- Do nhân duyên gì mà ngài làm người xuất gia?

Vị Ðộc giác thứ ba kể lại:

- Tôi, nhân đến tiết tam-xuân, trăm hoa đua nở, núi rừng rậm rạp xanh tươi, nước ao trong veo, chim hót. Các loại chim khổng tước, oanh võ, nga nhạn, uyên ương... bay hót véo von. Lúc ấy tôi cùng với cung nhân thể nữ sửa sang chuẩn bị bốn binh, du ngoạn phương viên, đi quanh một vòng. Tôi cùng với mỹ nữ vui chơi say đắm, ăn đồ ngon bổ, ngủ mê trong mỏi mệt. Trong khi ấy, các cung nhân tự do chạy nhảy, ham thích các thứ bông trái. Thấy tôi ngủ mê, họ đến các cây hái bông trái, làm cho cành lá hư hoại, gãy nát. Khi thức dậy, thấy cảnh tượng ấy, tôi lo ngại và than: “Những cây này vừa mới đây cành lá sum suê tươi tốt, bây giờ bỗng nhiên tàn tạ xác xơ đến mức độ thế này!Thân ta cũng vậy, đây là điều khỏi phải nghi ngờ”. Tôi lại nghĩ rằng: “Ngôn luận thế gian đều gây tổn não cho tâm thần”. Do đó, tôi bèn vất bỏ vương vị mà làm người xuất gia.

Nói kệ rằng:

- Tôi thấy hương hoa cây vi diệu

Cành lá hư hoại không nỡ nhìn

Nên biết các dục đều như vậy

Như tê giác kia nên ở riêng.

Kế đó, hỏi vị Ðộc giác thứ tư:

- Ngài là ai?

Vị ấy nói:

- Quý vị có từng nghe nơi thành Anh Lạc có nhà vua tên là Tráng Thắng, vị vua ấy có vô lượng ức thiên nhơn chúng vây quanh hay chăng?

Mọi người trả lời:

- Chúng tôi đã từng nghe danh của nhà vua ấy.

Vị ấy trả lời:

- Nhà vua ấy chính là tôi.

Mọi người lại hỏi:

- Như vậy vì sao ngài làm người xuất gia?

Vị Ðộc giác ấy kể lại:

- Khi tôi còn ở trong cung, các thể nữ thường vây quanh. Bấy giờ có một thể nữ tay đeo xuyến hạt trai trắng. Mỗi khi cánh tay cử động thì xuyến chạm nhau tạo thành âm thanh ồn ào. Tôi thấy việc này lòng sanh lo âu, than rằng: “Ðây là vật vô tri, va chạm nhau còn tạo thành âm thanh khua động, huống là người cùng ở với nhau, làm sao an tịnh được !”. Tôi lại tự nghĩ rằng: “Vấn đề giao tiếp, người đời chỉ làm não tâm thức ta”. Do vậy, tôi vứt bỏ mà làm người xuất gia.

Lại nói kệ tụng rằng:

Tôi thấy vòng xuyến đeo nơi tay

Cùng nhau va chạm phát âm thanh

Nên biết các dục đều như vậy

Như voi rừng trong đêm một mình.

Ngay lúc ấy, người thợ đồ sứ nghe các đại sĩ nói với nhau như vậy, người vợ nói với chồng:

- Này thánh tử, các đại tiên đây đều là những vị quốc vương tự tại, hào quý. Họ còn vứt bỏ địa vị vinh hiển, nhàm chán xa lìa sự vui của đời mà làm người xuất gia. Tại sao chúng ta không làm người xuất gia?

Hai đứa con của ông thợ đồ sứ lại thưa với cha rằng:

- Thưa cha, nếu cha xuất gia thì ai nuôi chúng con?

Người cha nói với con:

- Con chớ nên lo âu. Cha đợi con lớn cha mới xuất gia.

Nói như vậy rồi, ông thợ đồ sứ mang bình đi lấy nước.

Người vợ nói:

- Thánh tử, tôi đi lấy nước cho. Tại sao phải tự đi lấy cho nhọc.

Người vợ liền lấy cái bình trong tay chồng, tự đem đến nơi sông và để bình xuống đất rồi đi xuất gia. Người chồng nghe vợ đi xuất gia, than rằng:

- Thế là ta đã thất kế. Nay một mình ta phải nuôi dưỡng con đến tuổi lớn khôn!Ta thử xem nó đã biết điều thuện ác, tự nuôi sống được chưa?

Người cha tự mình ăn thức ăn có chất muối, cho con đồ ăn nhạt nhẽo; tự mình ăn trái cây chín, đưa trái cây sống cho con. Người con thưa với cha rằng:

- Con đâu không muốn ăn thức ăn có chất muối và ăn trái cây chín, mà cha cho con ăn đồ ăn nhạt nhẽo và trái cây sống, làm sao con ăn được?

Người thợ đồ sứ tự nghĩ rằng “Hai đứa con của mình đã biết mặn, lạt, sống, chín. Nay đã đến lúc ta có thể toại nguyện”. Ông bèn đi xuất gia và gặp người “cố nhị”[1], bà hỏi:

- Ông đã có thể để vú sữa lại cho con rồi sao?

Người chồng trả lời:

- Tôi đã thử nghiệm. Chúng nó đã biết mặn, lạt, sống, chín, tốt, xấu... nên tôi mới đến đây. Bà đã xuất gia, tôi cũng xuất gia, bà chớ sanh nhớ nghĩ.

Này Bí-sô, các ông nghĩ sao? Người thợ đồ sứ trước kia đâu phải ai khác, mà nay chính là Ðại Ca Diếp Ba, người vợ tức là Diệu Hiền vậy. Trước kia hai người đều bỏ thế tục xuất gia, nay cũng như vậy.

VÌ SAO ÐƯỢC THÂN HIỆN SẮC VÀNG?

Khi ấy, các Bí-sô lại bạch đức Phật:

- Kính bạch đức Thế Tôn, Diệu Hiền trước kia làm nghiệp gì mà thân hiện sắc vàng?

Ðức Phật bảo các Bí-sô:

- Diệu Hiền trước kia tạo nghiệp tốt nên nay được thọ quả như thế. Như kệ tụng:

Dầu trải qua trăm kiếpNghiệp đã làm không mất

Nhơn duyên khi hội ngộ

Quả báo mình tự nhận.

Này các Bí-sô, chín mươi mốt kiếp xa xưa về trước có đức Phật hiệu là Tỳ Bát Thi Như Lai đẳng chánh giác ra đời, đầy đủ mười hiệu. Bấy giờ có vương đô, nhà vua tên là Thân Huệ, dùng pháp giáo hóa đời. Nhân dân cường thịnh, an ổn vui tươi, không có những việc trá ngụy, đạo tặc, tật dịch.v.v... Trâu, dê, hoa màu nơi nào cũng đầy nhẫy. Nhà vua thương dân như thương con đỏ. Ðức Phật Tỳ Bát Thi đẳng chánh giác cùng với sáu mươi hai vạn Bí-sô vây quanh, sống an ổn bên sông, cách đô vương Thân Huệ không xa. Khi đức Phật ngồi tòa, đại chúng Bí-sô oai nghiêm tôn trọng, ánh sáng rực rỡ siêu tuyệt. Sau một thời gian, khi Tỳ Bát Thi Như Lai du hành trong nhân gian, thì chỗ ngồi của đức Phật không còn ánh sáng nữa. Bấy giờ, em gái của đức Phật thưa với phụ vương rằng:

- Tâu đại vương, đức Thế Tôn hiện nay đi đâu, con muốn được gặp.

Nhà vua bảo:

- Ðức Thế Tôn hiện đang du hành trong nhân gian, vì muốn hóa độ các loài hữu tình.

Người con gái thưa:

- Cúi xin phụ vương dùng vàng Thiệm Bộ làm tượng, thân như tầm vóc của Như Lai.

Nhà vua liền dùng vàng làm tượng, an trí chỗ ngồi của đức Phật. Ðức Phật du hóa xong, trở về lại đến vương đô, do oai của đức Phật nên tượng vàng Thiệm Bộ liền mất ánh sáng. Người con gái của vua thấy hiện tượng như vậy, rất lấy làm lạ, ôm lòng tịnh tín, quỳ gối chắp tay dưới chân đức Phật, phát nguyện:

- Như oai quang thần đức của Phật Thế Tôn, làm cho tượng vàng mất sắc sáng, từ nay về sau con nguyện sanh bất cứ nơi nào, thân tướng quang minh của con cùng Phật không khác.

Này các Bí-sô, người nữ xưa kia nay là Diệu Hiền. Do xưa kia dùng tâm thanh tịnh phát chánh nguyện, sanh vào bất cứ nơi nào thân đều có sắc vàng thanh tịnh vi diệu, ánh sáng rực rỡ. Các ông nên quán sát trở lại: Do lòng chí thành mãnh liệt, dùng tâm thanh tịnh tương tục, không hư hoại. Nhờ thiện căn này, trong chín mươi mốt kiếp, đối với ruộng phước hơn hết này, mà gieo xuống chủng tử thù thắng, thì sẽ nhận được cái quả vi diệu. Từ cái quả báo đó đến nay liên tục không dứt, tất cả đều nhận được cái hiện báo, thân hiện sắc vàng.

VÌ SAO ÐƯỢC DUNG NHAN ÐOAN CHÁNH SIÊU TUYỆT?

Ðức Phật bảo:

- Này các Bí-sô, xưa kia ở thành Ba-la-nê-tư, có một trưởng giả giàu có, của nhiều, ra lệnh cho vợ rằng: nên luôn luôn sắm thức ăn, vì tôi cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn. Sau đó một thời gian, có một vị Ðộc giác thân tâm tịch tịnh vào nhà ông trưởng giả khất thực. Người vợ thấy vị Ðộc giác không có tướng hảo nên không cúng dường thức ăn. Vị Ðộc giác không nhận được thức ăn, sắp sửa ra đi, đứa tớ gái thấy vậy liền mời vào nhà thưa với phu nhân:

-Thưa đại gia, tại sao không cho thức ăn?

Phu nhân bảo:

- Nay vị khất thực này thân không sáng sủa nên ta không cúng.

Ðứa tớ gái thưa:

- Ông chủ đâu có ra lệnh là đừng cúng dường cho những người có tướng xấu !

Phu nhân nói:

- Tuy ông chủ không dặn riêng như vậy, song ta không cho !

Người tớ gái nghĩ: “Ta nên nhịn ăn, để đem phần ăn của mình dâng cúng”. Nghĩ như vậy rồi, liền đem cúng. Khi ấy, vị Ðộc giác dũ lòng ai mẫn, như con đại nga vương bay lên hư không, hiện các thần biến, khiến cho người nữ thấy. Người nữ thấy vậy, liền quỳ thẳng gối, chắp tay phát nguyện:

- Kính thưa tôn giả, do thân hình tôn giả xấu, nên khất thực khó được. Con xin cúng dường một ít thức ăn, đối với đời vị lai, nguyện được dung nhan tốt đẹp, mọi người đều ưa nhìn.

Cũng vào lúc đó có nhà vua tên là Phạm Thọ, đang sống cùng với vô lượng trăm ngàn thần tôi phò tá vây quanh, thấy đại sĩ bay lên hư không, nhà vua và mọi người từ xa nhìn thấy thảy đều chiêm ngưỡng quan sát, bàn luận rằng:

- Hiện nay đại sĩ nhận thức ăn nơi nhà nào?

Nhà vua cùng chúng thần thấy vậy, liền nói kệ tụng:

- Hôm nay Ðại sĩ đến nhà ai?

Trừ khử bần cùng, ban an lạc

Giống phước được gieo ruộng tối thượng

Khiến cho quả báo không cùng tận.

Bấy giờ, nhà vua được biết hôm nay Ðại sĩ nhận thức ăn nơi nhà ông trưởng giả. Ông trưởng giả nghe như vậy, liền trở về nhà và hỏi người nhà, được biết đứa tớ gái của mình đã nhịn phần ăn của nó để cúng dường Ðại tiên, bèn nói với đứa tớ gái rằng:

- Do việc làm này, từ nay về sau tùy ý ngươi tự sống, ngươi cần dùng vật chi, cứ tùy ý lấy dùng.

Phu nhân lại bảo đứa tớ gái rằng:

- Phước phần của ngươi nay có thể cho ta với.

Ðứa tớ gái không chịu cho, phu nhân nổi giận lấy gậy đánh vào đầu, đứa tớ gái mạng chung, được sanh lên cõi trời thứ Ba mươi ba. Vừa sanh lên cõi trời, cung điện của thiên đường đều sáng rực, không nơi nào không chiếu soi. Vào lúc ấy, Ðế Thích và bốn phụ thần thấy người nữ kia đoan nghiêm vi diệu, dung nhan siêu tuyệt, lòng đều mê loạn, cùng nói kệ tụng.

Thiên Ðế Thích nói tụng:

Nay ta tình rất mê Không biết giải quyết sao?

Dụng tâm mà nhớ nghĩ Chỉ được xét đến thân.

Vị phụ thần thứ nhất nói tụng:

Thiên chủ còn an ẩn

Ngộ cảnh giới già-tha (kệ)

Như nghe tiếng trống lớn

Dục loạn cũng như vậy.

Vị phụ thần thứ hai nói tụng:

Như trống khi được đánh

Âm thanh được chuyển tới

Như dòng nước gỗ trôi

Dục loạn cũng như vậy.

Vị phụ thần thứ ba nói kệ tụng:

Nước lớn trôi các gỗ

Chạm nhau không dừng tạm

Rắn độc trừng mắt giận

Dục ái cũng như vậy.

Vị phụ thần thứ tư nói kệ tụng:

Quý vị tâm an ổn

Ðều nói được già-tha (kệ)

Nay tôi tự không biết

Nên chết hay nên sống?!

VÌ SAO ÐƯỢC NHAN SẮC KHẢ ÁI?

Ðức Phật kể:

- Này các Bí-sô, xưa kia ở trong một tụ lạc, ông trưởng giả có người vợ tướng mạo đoan chánh, hình dung siêu tuyệt, rất là dễ thương. Bấy giờ, có năm thanh niên đến nơi tụ lạc đó, thấy vợ ông trưởng giả, liền đắm nhiễm tình cảm, lòng sanh mê loạn. Năm thanh niên kia sai sứ giả đến nói với bà ta là có người cần gặp riêng và muốn tại địa điểm... cùng làm việc giao hội. Khi ấy người vợ thưa lại phu chủ rằng: “Có các thanh niên cùng nhau đến tìm em, em sẽ làm nhục họ. Phu quân nên yên lặng, khiến cho bọn chúng một phen xấu hổ”. Thưa chồng xong, bà trả lời với sứ giả rằng: “Có thể trong đêm... tạm thời đến đợi tôi trên nhánh Cây Ða-căn1, tôi sẽ đến đó”. Người nữ bảo người thứ nhất đến ngồi nơi nhánh cây phía Ðông, người thứ hai có thể ngồi nơi nhánh cây phía Tây, người thứ ba có thể ở nơi nhánh cây phía Nam, người thứ tư có thể ở tại nhánh cây phía Bắc, người thứ năm ngồi nơi nhánh cây giữa. Cả năm người đều không biết là mình đã được quy định chỗ ngồi như vậy. Mọi người đều y theo lời nói mà đến đợi trên nhánh cây. Mỗi người tự đợi đến sáng, không thấy người nữ ấy đến. Người ngồi trên nhánh cây giữa nói kệ tụng:

Mặt rời đang xuất hiện

Nông phu đã ra đồng

Người nói dối không đến

Nên bỏ cây Ða-căn.

Người thứ hai lại nói kệ tụng:

Người đẹp kia định đến

Không lẽ lại nói dối

Tại sao mặt trời này

Lại xuất hiện nhanh thế?

Người thứ ba cũng nói kệ tụng:

Mặt trời đã mọc rồi

Nông phu đến đồng ruộng

Chúng ta ngu như dê

Trên cây chịu lạnh buốt.

Người thứ tư lại nói kệ tụng:

Nay gặp khổ não nhiều

Cầu vợ người nên vậy

Chúng ta là kẻ mê

Ðêm lạnh gần muốn chết.

Người thứ năm lại nói kệ tụng:

Ta không lo thân mình

Một đêm lạnh chịu khổ

Chỉ sầu cây Ca-la

Nhánh khô không sanh lại.

Bấy giờ có thọ thần Ða-căn nói kệ tụng:

Các ông chỉ lo thân

Chớ lo việc người ngoài

Cây hại có ngày sanh

Dục khổ không đình chỉ.

Các Bí-sô nên biết, người say đắm nơi dục, có những tội lỗi như vậy, luống chịu nỗi khổ, sự việc chẳng toại lòng. Cho nên muốn cần cầu xuất ly sinh tử phải trừ t��i lỗi do dục sanh ra. Vợ của ông trưởng giả tức là Diệu Hiền, do đoan chánh nên có khả năng khiến trời Ðế Thích và các loài thần của trời, luôn cả người trong tụ lạc tâm ý mê loạn. Hiện nay vẫn còn dung nhan đoan nghiêm, thù diệu, rất là khả ái, khiến mọi người thấy đều mê.

VÌ SAO ÐÃ LÀM NGƯỜI XUẤT GIA MÀ CÒN BỊ NGOẠI ÐẠO BỨC NÃO?

Ðức Phật kể:

- Này các Bí-sô, xa xưa về trước, trong thành Ba-la-nê-tư có một người dâm nữ bán sắc nuôi thân. Nam tử nào có năm trăm kim tiền mới được cùng giao hội. Bấy giờ có năm trăm người nghĩa nhân đồng ấp, mỗi người đều nạp tiền vàng cho dâm nữ và hẹn gặp tại phương viên, để cùng hội họp. Dâm nữ nhận tiền, trên đường đến điểm hẹn lại gặp vương tử, nên dâm nữ bị giữ lại, không đến phương viên được. Bấy giờ, năm trăm nghĩa nhân thấy giờ hẹn sắp qua, nên tất cả đều ưu não.

Lúc ấy, có vị Ðộc giác giàu lòng ai mẫn, chỉ nhận ngọa cụ xấu để làm phước điền tối thượng, sống nơi không nhàn, sau bữa tiểu thực, đắp y bưng bát đến chỗ năm trăm người. Mọi người thấy Ðại sĩ thân tâm tịch nhiên, đều mang đồ ăn thức uống ngon đến phụng hiến. Ðại sĩ bèn thăng lên không trung hiện các thần biến, năm trăm nghĩa nhân đồng ấp kia thấy vậy, liền chắp tay phát nguyện:

“Nay chúng tôi đối với bậc tối thượng phước điền hưng khởi phước nghiệp, sẽ đặng báo này: Dâm nữ ác kia lấy tiền mà không đến, khiến tâm chúng tôi đều sanh ưu não. Từ nay dâm nữ kia- dầu ở tại gia hay xuất gia- chúng tôi nguyện: trong kiếp tương lai sẽ thường bức não nhau, cùng hành phi pháp”.

Này các Bí-sô, các ông nghĩ sao? Năm trăm nghĩa nhân trước kia đâu phải là ai khác, mà chính là năm trăm người ngoại đạo hiện nay. Dâm nữ kia nay là Diệu Hiền vậy. Do nhân duyên này nên người nữ kia tuy đã xuất gia, nhưng vẫn còn bị năm trăm người ngoại đạo bức não, làm việc phi pháp.

VÌ SAO ÐÃ CHỨNG QUẢ A-LA-HÁN MÀ CÒN BỊ NHÀ VUA CƯỠNG BỨC LÀM VIỆC BẤT TỊNH?

Khi ấy, các Bí-sô thưa đức Thế Tôn:

- Trước kia Diệu Hiền đã tạo nghiệp gì mà được chứng quả A-la-hán, lại còn bị vua Vị Sanh Oán làm việc cưỡng bức, hành bất tịnh hạnh?

Ðức Phật dạy:

- Này các Bí-sô, thuở xa xưa về trước, có một ông trưởng giả nghĩ rằng: “Người vợ lớn không sanh con được, ta nên cưới vợ nhỏ”. Khi người vợ thứ hai được đón về nhà, tình trạng chuộng mới nới cũ sinh ra, nên ông trưởng giả yêu chuộng người vợ sau, khinh rẻ người vợ trước. Người vợ trước thú thực với chồng là: “Tôi thọ năm giới”. Người chồng thấy vợ trì giới, nên lòng sanh kính trọng. Người vợ sau sanh lòng tật đố, khởi ý nghĩ: “Bằng kế hoạch nào khiến người kia phá giới?”. Người vợ nhỏ dùng rượu đưa chồng uống khiến cho say, rồi dẫn vào phòng người vợ lớn đang ngủ. Bị chồng cưỡng bức cùng hành phi pháp, người vợ lớn sanh lòng não hận. Khi ấy, có vị Ðộc giác vào bữa tiểu thực đắp y bưng bát vào tụ lạc khất thực, đến nhà ông trưởng giả. Người vợ lớn thấy vị Ðộc giác thân tâm tịch tịnh, đem thức ăn đến phụng hiến. Vị Ðộc giác ai mẫn người nữ này, nên hiện thần biến. Người đàn bà quỳ thẳng gối, chắp tay phát nguyện: “Nay con đối với bậc phước điền tối thượng, tạo phước nghiệp này, khiến cho đời tương lai của con, dù người vợ này có chứng đặng thần thông, con vẫn nguyện cưỡng bức, làm nhơ nhớp tịnh hạnh của cô ta”.

-Này các Bí-sô, các ông nghĩ sao? Người vợ lớn xưa kia, nay là vua Vị Sanh Oán, còn người vợ nhỏ, nay là Diệu Hiền. Diệu Hiền tuy đã đặng quả A-la-hán, mà vẫn còn bị người khác cưỡng bức, là do nghiệp lực ấy.

KHÔNG SAI MÀ LÀM

Bấy giờ, có vị Bí-sô ni A-la-hán tên là Thế-La, đã đoạn trừ các phiền não. Có một đồng tử bán hương, thấy cô ni Thế-La sanh lòng kính tín sâu xa, đến chỗ cô ân cần kính lễ, thưa:

- Kính thưa thánh giả, nếu thánh giả cần chi cứ đến nhà con tùy ý lấy dùng. Thánh giả cần dạy chi, con xin đê đầu nhận lãnh.

Bí-sô ni bảo:

- Lành thay hiền thủ!Chúc hiền thủ vô bệnh.

Sau một thời gian, Bí-sô ni Thế-La lâm phải trọng bệnh, không thể đi khất thực. Các Bí-sô ni khác đi khất thực. Ðồng tử bán hương thấy chư ni đến, đảnh lễ và thưa:

- Thưa các thánh giả, sao không thấy Bí-sô ni Thế-La đi khất thực?

Chư ni trả lời:

- Này hiền thủ, cô Thế-La bị bệnh.

Ðồng tử thưa:

- Trước đây con có nói với cô Thế-La là cần gì thì đến nhà con tùy ý lấy, nhưng không thấy cô Thế-La đến lấy chi cả. Nếu cô Thế-La cần dùng chi thì xin các cô nhận dùm cho cô ấy.

Chư ni nói:

- Ðược rồi!Nguyện cho hiền thủ vô bệnh.

Chư ni nói xong rồi ra đi. Ðồng tử bán hương ba phen ân cần thưa gởi như vậy. Bấy giờ, có một Bí-sô ni thiếu niên nghĩ: “Ta đã từng nghe đồng tử này nói như vậy, ta nên thử xem vấn đề hư thật thế nào?”. Cô ni thiếu niên liền đem một cái bát nhỏ trao cho đồng tử và nói:

- Này hiền thủ, thánh giả Thế-La cần một ít dầu.

Lúc ấy, đồng tử kia có dầu mới ép nên đựng đầy bát nhỏ, trao cho cô ni và thưa:

- Thưa thánh giả, nếu cô Thế-La cần gì nữa, xin cô cứ đến tùy ý lấy.

Bí-sô ni thiếu niên nhận bát dầu rồi ra về. Cô ni ấy đem dầu về, thoa khắp cả thân hình và chân tay cô Thế-La cho đến khi dầu hết. Sau đó, cô Thế-La lành bệnh, đi khất thực lại. Ðồng tử kia thấy, liền kính lễ sát chân và thưa:

- Kính thưa thánh giả, sao từ lâu không thấy thánh giả?

Bí-sô ni Thế-La trả lời:

- Từ lâu tôi bị bệnh.

Ðồng tử thưa:

- Thưa thánh giả, trước đây, con có thưa thánh giả cần gì thì cứ đến nhà con tùy ý lấy. Từ lâu sao không thấy thánh giả sai ai tới lấy chi? Vừa rồi, con gặp một cô ni nói thánh giả bị bệnh và đến lấy dầu nơi con. Con dùng dầu mới ép đựng đầy bát nhỏ trao cho cô ni ấy.

Bí-sô ni Thế-La nói:

- Lành thay đồng tử!Nguyện cho người vô bệnh.

Cô Thế-La nói xong, đi khất thực rồi về lại trú xứ, hỏi các thiếu ni rằng:

- Cô nào đã đến nhà đồng tử bán hương lấy bát dầu đem về?

Một cô ni trả lời:

- Thưa thánh giả, tôi đi khất thực, gặp đồng tử kia, ba phen thưa: “Con đã thưa với thánh giả Thế-La, cần gì cứ đến nhà con nhận theo ý muốn, sao từ lâu không thấy thánh giả Thế-La đến nhận thứ chi. Nếu thánh giả Thế-La cần chi, xin nhờ cô đem về chùa”. Nghe như vậy, tôi khởi ý nghĩ: “Thử xem vấn đề này thật hư thế nào”. Tôi bèn đem cái bát nhỏ trao cho đồng tử và nói: “Nay thánh giả Thế-La đang bị bệnh, cần ít dầu”. Ðồng tử kia lấy dầu mới ép đựng đầy bát trao cho tôi. Tôi nhận được dầu đem về trong phòng, liền vì thánh giả thoa khắp cả thân hình và cả tay chân, cho đến khi hết dầu.

Bấy giờ, Thế-La Bí-sô ni hỏi cô thiếu ni rằng:

- Tôi có khiến cô đến đồng tử kia lấy dầu hay không?

Cô ni thiếu niên thưa:

- Cô không sai tôi.

Lúc ấy, các Bí-sô ni kia cùng với cô thiếu ni này- trước đó có sự hiềm khích- nên khi nghe như vậy rồi, nói với cô Thế-La rằng:

- Này thánh giả, thiếu ni này nhơn nơi thánh giả đau bệnh, không phải chỉ nhân danh thánh giả đến một nhà đàn-việt nhận dầu, mà còn đi khắp cả thành Thất-la-phiệt này để tìm cầu. Như vậy, cô ta đã phạm tội Tha-thắng, về số lượng khó biết được.

Cô thiếu ni nghe nói như vậy rồi, sanh tâm hối hận: “Thật sự ta có phạm tội Tha-thắng hay không?”. Thiếu ni này đem nhân duyên trên thưa với các Bí-sô, các Bí-sô bạch lên đức Phật, đức Phật hỏi cô thiếu ni rằng:

-Cô dùng tâm gì đến nơi nhà kia xin dầu?

- Kính bạch Thế Tôn, con đến xin để thử xem tâm của đồng tử kia thế nào !

Ðức Phật bảo các Bí-sô:

- Nếu với tâm thử xem, thì Bí-sô ni này không phạm, song các Bí-sô ni chưa hỏi người bệnh, thì không nên vì họ mà đi xin. Nếu khi cần đi xin, thì nên hỏi người bệnh rằng: “Nên đến nhà dưỡng bệnh của chúng Tăng để xin thuốc, hay nên đến thí chủ và thân tộc để xin?”. Nếu thân tộc đông thì nên hỏi đến xin ai. Theo ý kiến của người bệnh mà đến xin. Nếu không hỏi người bệnh mà tự ý đi xin thì mắc tội Việt-pháp1.

XÚC CHẠM

Tại thành Thất-la-phiệt, khi đức Thế Tôn chưa chế giới cấm “Các B��-sô ni không nên ở nơi A-lan-nhã”, đức Thế Tôn đã dạy:

- Nay ta vì lợi ích, bi mẫn các Thanh văn, việc cần làm đều đã làm xong. Nay các ngươi nên để ý như vầy: Có thể nương nơi A-lan-nhã, hoặc dưới gốc cây, chỗ an tịnh trống vắng, hay trong núi, trong hang và trong am cỏ, hoặc nơi nhà trống, hoặc chốn rừng hoang, sống trong nếp sống tịnh lự, chớ nên phóng dật để rồi hối hận. Ðây là lời giáo huấn của ta.

Từ đó, các Bí-sô ni đều đến nơi A-lan-nhã để yên lặng an tịnh tâm mình.

Bấy giờ, ni Liên Hoa Sắc- khi chưa xuất gia, chưa lìa dục nhiễm, nhan sắc đẹp đẽ, nghi mạo tuyệt vời, mọi người đều yêu mến. Người nam nào muốn hoan hội với cô, phải mang đến năm trăm kim tiền, Liên Hoa Sắc mới thuận ý.

Khi ấy, có người con trai của Bà-la-môn thấy Liên Hoa Sắc, tỏ ý muốn giao hội. Liên Hoa Sắc nói:

- Nếu ông muốn giao hoan thì đem năm trăm kim tiền đến đây.

Người nam tử nói:

- Hiện tại tôi không có tiền.

Liên Hoa Sắc bảo:

- Tìm đâu có đem đến mới được.

Nam tử kia bèn đi làm thuê...

Vào lúc đó, cụ thọ Ðại Mục Càn Liên muốn cho ni Liên Hoa Sắc đoạn các ác pháp, trên đường đi đến Niết-bàn, vượt ra ba cõi, lìa các dục nhiễm, chứng an vui giải thoát, thành A-la-hán, ngài Mục Liên khiến Liên Hoa Sắc thường vào trong rừng rậm, sống trong nếp sống yên lặng để tu thiền định, thọ hưởng cái vui giải thoát.

Bấy giờ, người con trai của Bà-la-môn kia, sau khi làm thuê đã thu được năm trăm kim tiền, liền mang đến tìm Liên Hoa Sắc. Khi nghe nói Liên Hoa Sắc đã xuất gia, nam tử này mang năm trăm kim tiền đến chùa ni, hỏi:

- Liên Hoa Sắc hiện nay ở đâu?

Chư ni trả lời:

- Cô đang ở trong rừng rậm.

Nam tử tìm đến bên Liên Hoa Sắc, thấy cô đang im lặng ngồi dưới gốc cây, liền nói:

- Nay tôi mang đủ năm trăm kim tiền đến đây, để cùng cô giao hội.

Liên Hoa Sắc nói:

- Này nam tử Bà-la-môn!Ðó là ác pháp, tôi đã vất bỏ rồi.

Liên Hoa Sắc lại hỏi:

- Ðối với thân thể tôi, có cái gì hấp dẫn, khiến cho ông thấy đó mà sinh ra nhiễm dục?

Nam tử Bà-la-môn nói:

- Tôi rất yêu thích mi mắt của thánh giả.

Ni Liên Hoa Sắc liền dùng thần thông móc đôi mắt để vào lòng bàn tay và nói:

- Nay, đối với cục thịt này ông có yêu thích không?

Nam tử nổi giận bảo:

- Nữ Sa-môn trọc đầu này chơi trò huyễn thuật !

Nói xong, nam tử dùng tay đánh lên đầu cô rồi bỏ đi.

Liên Hoa Sắc đem vấn đề này bạch với chư ni. Chư ni bạch với Bí-sô. Bí-sô bạch lên đức Phật. Ðức Phật bảo các Bí-sô ni:

- Thí như cục thịt vất bỏ nơi ngã tư đường, chim chóc đều tụ họp, người nữ cũng vậy. Vì nghĩa này, các Bí-sô ni không nên ở nơi A-lan-nhã.

Khi đức Thế Tôn chế giới cấm “Không cho Bí-sô ni ở nơi A-lan-nhã” rồi, thì bấy giờ, các Bí-sô ni bèn vào trong thành Thất-la-phiệt, im lặng ngồi các nơi có trục lộ, lại bị các ác nam tử và bọn giặc trộm đến bức bão. Chư tăng đem vấn đề này bạch lên Phật, đức Phật dạy:

- Chư ni nên ở trong chùa ni.

Trong thành này có trưởng giả Tỳ Xá Khư, lòng tin sâu đậm, nên khi thấy chư ni liền thưa:

- Thánh giả cần chi?

Các Bí-sô ni đem vấn đề trên trình bày đầy đủ. Tỳ Xá Khư nghe xong liền thưa:

- Kính bạch thánh giả, con đang cho xây dựng một trú xứ rộng rãi. Khi nào hoàn thành, xin quý thánh giả thương xót con đến nơi đó mà cư trú.

Chư ni bèn đến đó an trú.

Tỳ Xá Khư hàng ngày đến chỗ chư ni đích thân kính lễ. Tỳ Xá Khư có nghi mạo đoan chánh nên ni Châu Kế Nan Ðà tâm liền sanh ái nhiễm, thân hiện bệnh hoạn, vào phòng nằm. Tỳ Xá Khư sáng sớm thức dậy, đi vòng quanh kính lễ Phật, tháp, nhân tiện vào chùa, chỉ thấy vị ni giữ chùa, ngoài ra đều đi vắng, liền đảnh lễ và hỏi:

- Thưa thánh giả, chư ni đi đâu hết?

Ðáp rằng:

- Chư ni đi khất thực.

Tỳ Xá Khư liền muốn ra về, thì ni Châu Kế Nan Ðà từ trong phòng lớn tiếng kêu rên. Tỳ Xá Khư nghe, lòng sanh thương cảm, bèn hỏi vị ni giữ chùa:

- Thưa thánh giả, ai kêu rên lớn tiếng trong phòng như thế?

Ðáp rằng:

- Trong phòng có cô ni bệnh.

Nghe vậy, Tỳ Xá Khư liền vào phòng kính lễ và hỏi:

- Kính thưa thánh giả, thánh giả bị bệnh khổ thế nào?

Cô ni trả lời:

- Bệnh khổ của tôi khó bề nói được.

Hỏi rằng:

- Sao thánh giả không chữa thuốc?

Ni đáp rằng:

- Bệnh này không thể trị được.

Tỳ Xá Khư trưởng giả nói:

- Kính thưa thánh giả, vị thuốc dùng để chữa khó tìm được hay sao?

Cô ni nói:

- Không khó, song sự mong cầu của tôi có thể không thực hiện được.

Tỳ Xá Khư thưa:

- Kính bạch thánh giả, đã là người xuất gia, thì suốt đời nên tìm cầu thuốc thang, ẩm thực, y phục, ngọa cụ nơi người khác. Như đức Thế Tôn đã dạy, nên nhận từ tịnh nhơn. Thánh giả cần chi, con sẽ lo liệu. Con xin cúng dường đầy đủ.

Cô ni nói:

- Chí thành như lời đã nói, người biết pháp cũng phải châm chước, liệu lường.

Tỳ Xá Khư nghe những lời như vậy, càng sanh kính trọng hơn, tán thán rằng:

- Kỳ diệu thay!Bí-sô ni là người rất thiểu dục.

Tỳ Xá Khư liền kính lễ sát chân và nói kệ:

Con đối với thánh giả

Nay phát tâm tịnh tín

Dù dùng thịt nơi thân

Con cũng vui lòng cúng.

Tỳ Xá Khư nói kệ tụng rồi, cô ni buông lời thô bỉ đòi hỏi việc làm ác pháp. Tỳ Xá Khư trưởng giả vừa nghe qua liền bịt tai và nói:

-Thánh giả đối với con chớ nên nói những lời như thế !

Cô ni nói:

- Vì có ưa thích nên nói quá lời.

Tỳ Xá Khư muốn bỏ đi, cô ni lại nói:

- Nếu không chấp thuận thì nên đến ôm đầu tôi, hay những chỗ khác của tôi cũng được.

Tỳ Xá Khư trưởng giả bèn đến ôm nơi đầu. Cô ni tưởng tượng thọ lạc. Bấy giờ, các Bí-sô ni khất thực xong, vào phòng thấy vậy... Tỳ Xá Khư xấu hổ, cúi đầu ra đi. Chư ni đem vấn đề này báo cáo với các Bí-sô, các Bí-sô bạch lên Phật. Ðức Phật dùng nhân duyên này, tập hợp chúng Bí-sô. Như thường pháp của chư Phật là biết mà vẫn hỏi, đức Phật hỏi Bí-sô ni Châu kế Nan Ðà rằng:

- Thật sự cô có làm những việc không đoan nghiêm như thế không?

Bí-sô ni Nan Ðà thưa:

- Kính bạch đức Thế Tôn, thật vậy.

Ðức Thế Tôn quở trách:

- Việc làm của cô chẳng phải là pháp của nữ Sa-môn, chẳng phải hạnh tùy thuận, chẳng phải pháp tịnh hạnh...

Dùng mọi cách quở trách xong, đức Thế Tôn chế học xứ như vầy:

“Bí-sô ni nào, tự mình có tâm nhiễm ô, cùng với nam tử có tâm nhiễm ô, từ mắt trở xuống, từ đầu gối trở lên, hai thân xúc chạm nhau, làm tâm phát sanh thọ lạc, hoặc rờ rẫm nhau. Bí-sô ni làm những việc như vậy, mắc Ba-la-thi-ca, không được sống chung”


1 Ðổ-sử Thiên-cung:Cách phiên âm khác, Ðâu-suất-thiên, Ðâu-suất-đà-thiên, Ðổ-sử-đa-thiên, Ðâu-thuật-thiên. Dịch nghĩa là cõi trời Vui-vẻ ( Hỷ-túc-thiên); cõi trời Biết-đủ(Tri-túc-thiên). Ðây là tầng trời thứ tư cõi Dục-giới, giữa cõi trời Dạ-ma và Lạc-biến-hoá. Phần nội viện là Tịnh-độ của Di-lặc Bồ-tát. Cõi này chư vị Bồ-tát trước khi thành Phật đều ngự ở đây cũng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

2 Lục-dục-thiên:1. Tứ-đại-vương-thiên, 2. Tam-thập-tam-thiên, 3. Dạ-ma-thiên, 4. Ðâu-suất-thiên, 5. Hoá-tự-tại-thiên, 6. Tha-hoá-tự-tại-thiên. Ở đâychỉ Bồ-tát Mã-minh ngự cung trời Ðâu-suất đến nhập vào thai Ma-da phu nhân.

3Thành Thất-la-phạt(nước Thất-la-phạt): Dịch nghĩa là nước Văn-vật (nước này có nhiều danh nhân và báu vật), Vô-vật-bất-hữu (hàng hoá không thiếu thứ gì), Ða-hữu (có nhiều trân bảo quí hiếm). Tên gọi khác là nước Xá-vệ. Nay là Rapetmapet phía Nam sông Rapti (địa phận Sàhet-Màhet).

4Thành Vương-xá(nước Vương-xá) : dịch âm : Hạt-la-xà-cô-lợi-hy, La-duyệt-kỳ. Thành phố cổ thời Ấn-độ, kinh đô nước Ma-kiệt-đà do vua Tần-bà-sa-la trị vì thời Phật tại thế. Vị trí hiện nay gần địa phương Rajgir (thành phố Patna,phía nam Bihar).

5Nước Kiều-thiểm-tỳ: Phiên âm khác, Câu-thiểm-di, Câu-tham-tỳ.... là vương quốc vua Ưu-điền trị vì, ở trung Ấn độ. Vị trí hiện nay là làng Kosàm, Tây bắc bờ sông Jumna, cách thành phố Allahabad 30 dặm.

6Nước Ốt-thệ-ni : Nước này nằm phía Tây Ấn-độ. Vị trí hiện nay không rõ.

7Thích Phạm Ðại-vương: Là Ðế-thích-thiên(Vua cõi trời Ðao-lợi) và Ðại Phạm-thiên-vương( Gọi tắc Phạm-vương, hay Thi-khí, Thế-chủ. Theo truyền thuyết Ấn độ là vị Thần sáng tạo). Hai vị này đều qui y theo Phật.

8Tụ lạc : Thôn lạc, tụ lạc, phiên âm : Già-lạt-ma. Nghĩa là thôn xóm, làng nhỏ, vùng quê, chỉ chung tất cả khu vực nhà dân cư. Khu vực đó có thể được bao quanh bởi tường xây, luỹ tre, hoặc cắm cây làm hàng rào, hoặc được bao quanh bởi sông ngòi các thứ. Nhiều nhà họp lại cũng thành một tụ lạc.

9Nước Ma-kiệt-đà: Một trong 16 nước lớn thời Phật. Ma-kiệt-đà là trung tâm phát triển Phật giáo cho đến năm 400 sau công nguyên.

10Tỳ-sa-môn : Dịch nghĩa là giàu có, đầy đủ mọi thứ. Tên gọi khác, Thác-tháp-thiên-vương, Bắc-phương-đa-văn-thiên-vương( vì cư ngụ ở phương Bắc và thường đến nghe đức Phật thuyết pháp). Một trong bốn vị Thiên-vương. Vị này thống lãnh La-sát, Dạ-xoa...., và được Phật phó chúc hộ trì Phật pháp, bảo vệ quốc gia.

11Cây Ni-câu-luật: Dịch là câymọc xuống( vì cành mọc rễ rũ xuống nên cũng gọi là Khí-sinh-căn ‘rễ mọc giữa hư không’), cây nhiều rễ,cây toả rộng...., hình dáng giống cây đa, cây si. Lá của nó dài và nhọn giống lá cây hồng-vàng, còn quả dùng chế thuốc ho.

12Cây Tát-bát-la : Dịch nghĩa là cây Kiết-tường. Cây này sinh trưởng Ấn-độ và Mãnh-gia-lạp (Bangladesh). Ðức Thích Tôn thành Chánh giác là ngồi dưới gốc cây này nên nó còn có tên cây Bồ-đề.

13Năm tướng suy : Khi người cõi Thiên mạng sắp tận có năm tướng suy vong xuất hiện; 1. Hoa cài trên đầu, hay trên mũ bị héo tàn, 2. Trong nách thường ra mồ hôi, 3. Xiêm y ô uế, 4. Trên thân mất ánh hào quang, 5. Tự nhiên cảm thấy không vui với chỗ ngồi, nơi cư ngụ.

14Thiệm-bộ-châu : Khi Phật còn tại thế Ấn-độ gọi là Thiệm-bộ-châu. Nguyên nguồn gốc chữ này dịch từ tên một loài cây (cây táo hồng) mọc ở châu này. Xưa gọi là Nam Diêm-phù-đề.

15Thành Kiếp-tỷ-la : Nguồn gốc thành này là do vị tiên tên Kiếp-tỷ-la dùng nước sái tịnh, kết giới chỗ ở cho bốn vương tử con vua Ý-ma-di,nên họ lấy tên vị tiên đặt tên thành (Căn bản Nhất-thiết-hữu-bộ Tỳ-nại-da phá Tăng sự, q.2, tr 104, T. 24, n.1450 ).

16Tứ Bệ-đà : Còn gọi là tứ Vệ-đà, tứ Phệ-đà.v...v. Dịch nghĩa là Trí-luận, Minh-luận, Vô-đối. Ðây là bộ Thánh điển căn bản của Bà-la-môn giáo, gồm bốn phần : Một là tán tụng, hai là tế tự, ba là ca vịnh, bốn là cầu đảo.

17Ða-tử-chế-để : Từ này phiên âm của tiếng Phạn, Cách đọc khác là Ða-tử-chi-đề, dịch nghĩa là tháp Ða-tử. Vị trí nằm phía Tây thành Tỳ-xá-ly trung Ấn-độ.

18A-lan-nhã :Cũng gọi là A-luyện-nhã, là một nơi yên tĩnh thích hợp cho Tăng sĩ tu hành, cách làng xóm khoảng 300 đến 600 dặm.Ngũ phần, Tăng kỳ : Dịch là không địa, khu đất trống (không có nhà dân cư). Tứ phần : Dịch là nhàn tĩnh xứ, chỗ vắng vẻ. Căn bản : Dịch là không nhàn xứ, chỗ trống không người ở. Giải thoát giới kinh : Dịch là không tĩnh địa, vùng đất trống vắng. Các từ này đều dịch từ aranya của tiếng Phạn, nghĩa đen là vùng đất xa xôi hẻo lánh; thường âm là a-lan-nhã, và cũng có nơi dịch vô sự xứ.

19Nước Bà-la-nê-tư: Cách gọi khác, nước Ba-la-nại, Già-thi ...v...v. Dịch nghĩa là Giang nhiễu, vì lẽ nước này nằm ở lưu vực sông Hằng, vườn Lộc Dã cũng ở nơi này. Khi người Anh đô hộ, thành phố này gọi là Benares. Sau Ấn-độ độc lập, chính phủ đổi lại Brànasi, nay gọi là Vàrànasì.

20Chỗ tiên nhân đọa: Vì thuở quá khứ có năm trăm vị tiên nhân bay ngang qua đây, thấy những thể nữ của nhà vua vui đùa, khởi dục tâm liền mất thần thông, bị rơi xuống đất.

21Rừng Thí Lộc: Ðại Ðường Tây Vực ký q.7 ghi, Quốc vương Phạm-đạt-đa đi săn, thấy nai chúa xả thân chết thay cho nai mẹ đang mang thai. Nhà vua cảm động bèn hạ lệnh phóng thích cả đàn nai và dành riêng cánh rừng cho chúng. Cho nên gọi rừng Thí Lộc nghĩa là rừng cho nai, hay gọi vườn Lộc Dã.

22Bí-sô:Còn gọi là Tỳ-kheo, Bức-sô v.v... dịch là khất sĩ(khất thực trưởng dưỡng thân huệ mạng thanh tịnh), trừ sĩ, huân sĩ, phá phiền não (trừ cái đói lục tình, đoạn diệt tham dục, huân tu thiện pháp nên gọi trừ sĩ, huân sĩ, phá phiền não),bố ma(chứng nhập Niết-bàn khiến cho ma sợ)v.v...Căn bản q.1, tr 629-630 a,T.23,n.1442: Có năm hạng Bí-sô:1.Bí-sô danh tự, 2.Bí-sô tự ngôn, 3.Bí-sô khất cầu, 4.Bí-sô phá phiền não, 5.Bí-sô bạch tứ yết-ma viên cụ. Tứ phần q.1,tr 571a 24,T.22,n.1428 có 8 hạng Tỳ-kheo: 1.Tỳ-kheo danh tự, 2. Tỳ-kheo tương tợ (là cạo bỏ râu tóc, mà không thọ giới giả bộ hình tướng xuất gia), 3. Tỳ-kheo tự xưng, 4. Tỳ-kheo thiện lai, 5.Tỳ-kheo khất cầu, 6. Tỳ-kheo mặc y cắt vá, 7. Tỳ-kheo phá kiết sử, 8. Tỳ-kheo thọ đại giới bạch tứ Yết-ma như pháp thành tựu đắc xứ sở. Ngũ phần q.1, tr 4 b4, T.22, n.1428: Tỳ-kheo, là Tỳ-kheo khất thực, Tỳ-kheo mặc y hoại sắc cắt rọc, Tỳ-kheo phá ác, Tỳ-kheo chân thật, Tỳ-kheo kiên cố, Tỳ-kheo thấy lỗi, Tỳ-kheo một lời thọ giới, Tỳ-kheo hai lời thọ giới, Tỳ-kheo ba lời thọ giới, Tỳ-kheo thiện lai thọ giới, Tỳ-kheo như pháp bạch tứ yết-ma thọ giới.

23Ngoại đạo lưu kế: Là nhóm ngoại đạo thờ lửa, trên đầu búi tóc như hình xoắn ốc, do ba anh em Ca-diếp là Ưu-lầu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp và Na-đề Ca-diếp làm thủ lãnh.

24Cận viên: Còn gọi là Cụ túc giới. Viên chỉ cho Niết-bàn, Cụ túc giới là pháp đến gần Niết-bàn.

25An-thiện-na : Cách phiên âm khác, An-thiền-na, An-xà-na...v...v. An-thiện-na là tên một loại thực vật, có thể dùng chế thuốc trị bệnh mắt. Cây này sinh trưởng ở Ấn-độ, sắc xanh hoặc đen.

26Nước Phật-lật-thị: (? )

27Thành Quảng-nghiêm: Cũng gọi là nướcTỳ-da-ly, dịch nghĩa là mở rộng. Vị trí hiện nay nằm phía Bắc thành phố Patna 27 dặm (trên 40 km), và phía Ðông bắc Ấn-độ bang Bihar.

28Y diệp Tăng-già-chi: Là y Tăng-già-lê. Ðiệp (diệp) là loại vải lụa, dùng sợi bông hay tơ tằm dệt thành.

29Y gai phấn tảo:Y phấn tảo còn gọi là y bá-nạp (y trăm miếng vá lại).Người đời mặc y hư rách, bỏ chỗ dơ bẩn, người tu lượm y rách này đem về giặt sạch, may những mảnh rách lại rồi mặc. Y gai là vải lấy vỏ cây dệt thành. Y gai phấn tảo là y chắp vá cả hai lại.

30Ðại-thế-chúa : Là Ðại-ái-đạo(Di mẫu của Thế Tôn, phu nhân Ma-ha-ba-xà-ba-đề), hay gọi Ðại-sinh-chủ.

31Vua Vị Sanh Oán: Hay gọi vua A-xà-thế, quốc vương nước Ma-kiệt-đà. Vị-sanh-oán nghĩa là có oán thù trước khi sanh. Ông đã giết vua cha là Tần-bà-sa-la để soán ngôi (trong tiền kiếp vì nóng lòng muốn có con, vua Tần-bà-sa-la đã giết một tiên nhân. A-xà-thế là tiền thân vị tiên nhân).

32Lễ Bao-sái-đà:Cách phiên âm khác, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, Bố-sa-tha, Bố-tát.v...v . Dịch nghĩa là lễ trưởng tịnh,trưởng dưỡng, cận trụ, đoạn, xả, trai, hoặc thuyết giới.

33Bí-sô ni : Là Tỳ-kheo ni, dịch trừ sĩ nữ, huân nữ v.v... (xem thêm nghĩa Bí-sô)

34Ba-la-thị-ca: Còn gọi là Ba-la-di tội.Dịch là : Khí (bị vứt bỏ ra khỏi chúng Tăng), thối một (các Thánh quả bị chìm mất), bất cộng trú(không được cùng Tăng chúng yết-ma, thuyết giới), đoạ lạc (đoạ vào tam đồ ác đạo), đoạn đầu (như đầu bị chặt, Thánh quả không thể phát sinh), tha thắng (bị người khác đánh bại, là ác pháp chiến thắng)...

35Tô-trần-na: Là người phạm Ba-la-di đầu tiên trong Tăng. Luật Tứ phần, Ngũ phần, Thập tụng, Thiện kiến : Tu-đề-na. Tăng kỳ : Da-xá; Căn bản : Tô-trần-na.

36Mười điều lợi: 1.Nhiếp thủ đối với Tăng; 2. Khiến cho Tăng hoan hỷ; 3. Khiến cho Tăng an lạc; 4. Khiến cho người chưa tin được tin; 5. Người đã tin khiến tăng trưởng; 6. Ðể điều phục người chưa được điều phục; 7.Người có tàm quý được an lạc; 8. Ðoạn hữu lậu hiện tại; 9. Ðoạn hữu lậu vị lai; 10. Chánh pháp được cửu trụ( Tứ phần tr 570c 3, T.22, n. 1421).

37Tỳ-nại-da : Dịch là pháp luật.

38Học xứ : Nghĩa là chỗ học, chỉ chung cho giới luật. Khi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni học tập giới luật phải tuân thủ những giới điều như năm giới, tám giới, mười giới .....gọi là học xứ.

[1]Cố nhị : Hay gọi bổn nhị, là chỉ người vợ cũ của Tỳ-kheo, khi vị Tỳ-kheo này còn tại gia. Cố là cũ, nhị là hai người đã kết duyên với nhau. Luật Ngũ phần q.1, tr3b 5, T.22, n.1421: “ Tôi đã cùng bổn nhị làm việc bất tịnh”.

1Cây Ða-căn : Là cây Ni-câu-luật.

2Cây Ca-la : (?)

1Tội Việt-pháp: Còn gọi là Việt Tam-muôïi-da tội. Chỉ tội vượt qua pháp bí mật của Tam thế chư Phật. Nhưng ở đây chỉ cho tội vượt qua giới luật, vượt qua Tỳ-ni, hay gọi là Việt Tỳ-ni.

--- o0o ---


Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567