Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Hạ

08/11/201420:38(Xem: 4196)
Quyển Hạ

Mật Tạng Bộ 4 – No.1201 (Tr.20_ Tr.22)

 

ĐỂ LỊ TAM MUỘI DA BẤT ĐỘNG TÔN THÁNH GIẢ

NIỆM TỤNG BÍ MẬT PHÁP

_QUYỂN HẠ_

 

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG Phụng Chiếu dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ
Phục hồi Phạn Chú: HUYỀN THANH

 

1_ Vô Động Kim Cang Bảo Sơn Ấn

Kim Cang bền chắc, xoa (cài chéo nhau) bên trong

Đây gọi Bảo Sơn Thân Mật Ấn

 

blank

 

Các thứ cúng dường và hộ thân

Gia trì Bổn Minh, bung trên đảnh

 

2_ Vô Động Kim Cang Đầu Ấn

Thiền Độ (ngón cái phải) co vào chưởng (lòng bàn tay), nắm quyền

Ấn để trên đảnh gọi Đầu Ấn

Suy nghĩ toàn thân trước Thánh Giả

Tịnh tọa an Tâm mà quán chiếu

 

3_ Vô Động Kim Cang Kế Ấn

Giới Phương (2 ngón vô danh) Đàn Huệ (2 ngón út) xoa (cài chéo nhau) bên trong

Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) hợp cứng, Tiến Lực (2 ngón trỏ) phụ

Hai độ Thiền Trí (2 ngón cái)  dính lưng nhau

Co vào Giới Phương (2 ngón vô danh) cài chéo trong

Cùng hai vô danh, mặt dính nhau

Đưa Ấn an trong búi tóc trái (tả kế)

Đấy tênVô Động Kim Cang Kế

 

4_ Vô Động Kim Cang Nhãn Ấn

Dựa theo Kế Ấn lúc trước, nghiêng lật bàn tay rũ xuống đến trước trán, liền gọi là Vô Động Kim Cang Nhãn

 

5_ Vô Động Kim Cang Khẩu Ấn

Hai Độ Đàn Huệ (2 ngón út) xoa (cài chéo nhau) bên trong

Giới Phương (2 ngón vô danh) cùng đè xoa trong, trên

Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) hợp thẳng, Tiến Lực (2 ngón trỏ) phụ

Thiền (ngón cái phải) vịn lưng Giới (ngón vô danh phải), Trí (ngón cái trái) vịn Phương (ngón vô danh trái)

Đấy tên Thánh Giả Kim Cang Khẩu

 

blank

 

6_ Vô Động Kim Cang Tâm Ấn

Giới Phương (2 ngón vô danh) Đàn Huệ (2 ngón út) xoa (cài chéo nhau) bên trong

Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) hợp dựng, co Tiến Lực (2 ngón trỏ)

Thiền Trí (2 ngón cái) kèm vịn vạch Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa)

Đấy tên Vô Động Kim Cang Tâm

 

7_ Vô Động Kim Cang Sư Tử Phấn Tấn Ấn

Dựa theo Vô Động Kim Cang Giáp

Chỉ sửa Tiến Lực (2 ngón trỏ) trụ đầu ngón

Đứng lên chồm thân như cọp nhảy

Nhiễu Đàn hành Đạo, Tịch Trừ Ma

Sư Tử Tần Thân Đại Phấn Tấn

Đấy tên Ngũ Cổ Kim Cang Ấn

 

8_ Vô Động Kim Cang Hỏa Ấn

Thiền (ngón cái phải) vịn lưng ba ngón, nắm Quyền

Duỗi riêng Tiến Độ (ngón trỏ phải) chỉ Định Chưởng (lòng bàn tay trái)

Mở rộng năm ngón như lửa cháy

Đấy tên Vô Động Kim Cang Hỏa

 

blank

 

9_ Vô Động Kim Cang Pháp Loa Ấn

Hai tay đều như Vô Động Kiếm

Ràng móc trong chưởng, dạng như vòng

Dựng hợp Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) trụ đầu ngón

Tiến (ngón trỏ phải) phụ dính lưng Nhân (ngón giữa phải)

Lực Độ (ngón trỏ trái), lưng Nguyện (ngón giữa trái) cũng như thế

Đấy tên Vô Động Pháp Loa Ấn

 

blank

 

 10_ Vô Động Kim Cang Sách Ấn

Thiền (ngón cái phải) vịn lưng ba ngón, nắm Quyền

Duỗi thẳng Tiến Độ (ngón trỏ phải), Quán Vũ (? Chỉ Vũ: tay trái) nắm

Lực Độ (ngón trỏ trái) co vịn Trí (ngón cái trái) như vòng

Đấy tên Vô Động Kim Cang Sách

 

blank

Minh là:

“Nẵng ma tam mạn đá phạ nhật-ra noản. A, ba xá, bán xà na, hồng phán tra”

矧休 屹亙阢 惵忠鉔 唒 扒喨 乓堲矧 猲 傋誆

NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ A  PĀŚA  BHAṂJANA  HŪṂ  PHAṬ    

 

_ Vô Động Kim Cang Ấn Minh

Hay thành tựu hết thảy sự nghiệp

Minh là:

“Úm, a giả la, ca nõa, bột đà chế tra ca, hồng hồng, khư hê khư hê, y năng ngư-lị, hê ma hàm hạ lợi vĩ sa, sách bát-đa, ác hột-lị ha, hồng phán tra, a lị-da giả la, a nghiệt xa, khẩn chí la dạ tư, y năng ca lị la-da cú lỗ da ma, sa-phạ ha”

矧休 屹亙阢 惵忝冊 湡 唒弋匡 乙仕 蒤湀 中垺哠 猲猲 几扛几扛 尃句 鉎扛 赩 扣捖合喢 屹挕 唒委祌 猲 傋誆 玅蒩弋匡 唒丫猌 寣才全傂帆 尃句 乙新 乃冰 傂亙 渢扣

*) NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ OṂ_ ACALA-KĀṆA  BUDDHA- CEṬAKA  HŪṂ  HŪṂ_ KHAHI  KHAHI_ IDAṂ  GṚHI  MĀṂ_  HĀRA-VIṢA  SAPTA-AGREHA HŪṂ PHAṬ_ ĀRYA-ACALA  AGACCHA  KIṂCIRĀYASI _ IDAṂ  KĀRYAṂ  KURU  YAMA_ SVĀHĀ

 Người hành Trì Minh mỗi khi ăn thường lấy ra một phần thức ăn dư mà cúng dường tượng Bổn Tôn,  hoan hỉ ủng hộ chỗ mong cầu đều được không sai. Lại tụng Vô Động Kim Cang Căn Bản Minh

 

11_ Vô Động Kim Cang Giải Giới Minh Ấn

Người hành Trì Minh niệm tụng xong, liền giải Hỏa Giới với Tường Giới đã kết lúc trước xong, dùng Quán Đảnh Ấn là dựng hai ngón út trụ đầu ngón. Nên tụng Đăng Diễm Như Lai Giải Giới Minh, dùng Ấn xoay theo bên trái tức thành Giải GiớiHỏa Viện Giới lúc trước vậy.

Đăng Diễm Như Lai Giải Giới Chân Ngôn là:

“Nẵng ma tất để-lị đà phạ noa nga đá nẫm. Úm, hột-lị”

巧休 榑伏塶丫出觡 輆猭

NAMAḤ   STRIYA-DHVAN-GATĀNĀṂ_ OṂ  HRĪḤ

Tụng Mật Ngữ xong, lại dùng hương hoa như Pháp cúng dường, sám hối ba Nghiệp. Liền kết Bộ Mẫu Ấn hộ thân rồi mới có thể đứng dậy đi, chuyển tụng Đại Thừa Phương Quảng Lý Thú, tùy ý tu hành các việc thiện.

 

_ Người hành Trì Minh mỗi khi ăn thời dùng Sự Nghiệp Kim Cang Chân Ngôn gia trì Chủng Tử trong thân của mình, gia thêm chữ Tông (圳: VAṂ). Lại tụng Thập Lực Minh tám biến mới ăn.

Minh là:

“Nẵng ma tam mạn đá, tông”

巧休 屹亙阢 圳

NAMAḤ  SAMANTA  VAṂ

 

_ Thập Lực Minh là:

“Nẵng mô tát phạ mẫu đà mạo địa tát đát-phạ nẫm. Úm, ma lan nại đế nhu, thác lật ninh, sa-phạ ha”.

矧休 屹浻 蒤湀 悷囚屹班觡 湡 惵銃 叼只 包冗 交印郜 渢扣

NAMAṂ   SARVA  BUDDHA  BODHISATVĀNĀṂ _OṂ  VALIṂ  DĀDE   TEJO  MĀLINI   SVĀHĀ

Như vậy trước tiên thành tựu Bổn Tôn xong. Phần Xúc Thực còn dư, dùng Thành Biện Chư Sự Tâm Minh cúng dường cho người đáng được ăn, nên dùng Bất Không Oai Nộ Tăng Gia Thánh Giả Bất Động Tôn Minh tụng một biến. Người thọ nhận hoan hỷ, sẽ đi theo Hành Giả để hộ niệm. Mỗi ngày cúng dường như vậy không cho đứt đoạn, sẽ thường được Bổn Tôn hộ niệm,  các Ma không thể làm hại.

Thí thực xong, như thường lễ sám, y theo pháp niệm tụng. Khi đến nửa đêm muốn ngủ nghỉ thời kết Trang Nghiêm Ấn lúc trước

 

12_ Vô Động Kim Cang Quang Trang Nghiêm Ấn Minh

 Tay Huệ (tay phải) nghiêng chưởng, cong trên tim

Định Chưởng (lòng bàn tay trái) quay lại hợp trên tim

Gia trì Bản Minh an trên đảnh

Lại mở hai tay, xoa theo thân

Hay trừ chướng nạn được thành tựu

Dùng hộ thân nên gọi Trang Nghiêm

Quang Trang Nghiêm Minh là:

 “Nẵng ma tất-để-lị-dã đa-phạ nõa già đá nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. Ma ha tam muội da, già đế già đế, tam mạn đế, tam ma nghiệt la-phạ, ma tha tát ra bà đa-ra lộ kế, đạt ma đà đỏa để đa tăng già đế, sa-phạ ha”.

Làm Pháp trên xong, nên như Đức Phật Nhiên Đăng đời quá khứ, lễ bái Pháp.

Kim Cang Hợp Chưởng duỗi dài hai cánh tay ở trên đảnh, hướng mặt về phương Đông, khiến cho mặt chạm đất. Lại duỗi dài hai bàn chân để trái tim chạm đất.

Như vậy khi lễ bái, quán niệm hết thảy chư Phật Bồ Tát, nguyện xin nhiếp thọ cho chúng con làm tối thượng thành tựu, thương xót con.

Nói như vậy ba lần, tùy ý mà ngủ nghỉ, Tâm niệm Minh Tướng làm Tướng mau thành tựu.

 

7_ Vô Động Kim Cang Sự Nghiệp Cầu Nguyện.

Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi-buddha) bảo Chấp Kim Cang Bồ Tát (Vaja-dhāra-bodhisatva) rằng: “ Nay Ta vì ngươi nói Vô Lượng Thần Thông Lực Vô Động Kim Cang Pháp, hay lợi ích thành tựu hay hết thảy sự nghiệp. Nếu người tu hành ăn rau, trường trai hoặc trái cây … tụng mãn một vạn biến,  vào ngày 08 hoặc 15 của tháng, một ngày một đêm rộng làm cúng dường, ở trước Tượng lấy cây Khổ Luyện hòa với bơ (tô) rồi thiêu đốt. Một lần Chú thì một lần thiêu đốt, cho đủ 1008 biến

Làm Pháp này xong, sau đó hết thảy sự pháp đã làm, đều được thành tựu. Hành Giả nói ra lời khiến cột trói thì liền cột trói, với hỏi mọi việc… hay làm gãy đổ cây cối, làm rớt chim bay, hay khiến cho hết thảy sông suối khô cạn, cũng hay khiến cho người đấu tranh được thắng. Được điều này xong, cũng hay gom gió lại thành một luồng.

_ Lại có Pháp. Vào đêm Nguyệt Thực, lấy phân bò chưa rớt xuống đất xoa tô Mạn Đồ La (Maṇḍala: Đàn Tràng), trên Đàn tán rải các thứ hương hoa, để Kinh Đại Bát Nhã. Trước tiên lấy một lạng bơ của con bò mẹ chỉ có một con  thuần một màu, nấu trong chén bằng đồng, lấy cây Khư Đà La làm cây tăm xỉa răng (xỉ mộc) kèm khuấy bơ, Minh  không hạn chế biến số, khiến cho mọi loại thành tựu.

_ Lại trên đỉnh núi, nhịn ăn, tụng mãn mười vạn biến, liền được thấy hết thảy Phục Tàng (kho tàng bị che dấu)

_ Lại dùng sữa làm Hỏa Pháp, tụng 1008 biến, đổ vào lửa thiêu đốt, ắt hay trừ tất bệnh dịch. Nếu cùng với mọi người luận nghị, thời khiến cho miệng của người kia bị câm, chẳng bàn luận được.

_ Lại có Pháp. Lấy cỏ Cú Lô hòa với bơ, sữa, Mật gia trì rồi bỏ vô lửa thiêu đốt, tụng mười vạn biến, ắt hay trừ bệnh dịch lớn.

_ Lại lấy hoa sen hòa với bơ, Mật, Lạc (váng sữa đặc) tụng Minh, bỏ vào trong lửa thiêu đốt, tụng Minh mười vạn biến thì Liên Hoa Cát Tường Thiên sẽ ban cho Hành Giả các nguyện.

_ Lại có Pháp. Đi đến gần cửa sông biển, lội xuống nước đến ngực, tụng Minh ba mươi vạn biến, tức  được Vĩ Sa Da (Viṣaya: cảnh giới)

_ Lại tụng Minh, lấy hoa ném vào trong lửa thiêu đốt, tùy theo màu sắc của hoa sẽ được quần áo. Thiếu đốt cốc mễ (lúa gạo) sẽ được cốc mễ (lúa gạo).

_ Lại lấy cây Vĩ La Phạ, tụng Minh,  thiêu đốt mười vạn biến, liền được La nhạ (Rāja: vua chúa).

_ Lại lấy cây Tất Lị Dưỡng Ngung, tụng Minh thiêu đốt, sẽ hay khiến cho mọi người yêu nhớ. Tụng Minh, thiêu đốt cây Bách, liền được vô lượng bộc tùng (tôi tớ). Tụng Minh thiêu đốt Đại Mạch thì được làm Đại Trưởng Giả

 

_ Tiếp đến, nói Pháp Vẽ Tượng. Vẽ Vô Động Tôn với thân mặc quần áo màu đất đỏ, búi tóc bên trái xỏa xuống, mắt nhìn nghiêng, tay cầm cây kiếm sợi dây, ngồi trên hoa sen báu, chau mày, mặt giận dữ làm dạng khủng bố ba đời.

Như vậy vẽ xong, ở bên trên dòng nước chảy, bờ sông biển... như Pháp an Tượng. Hành Giả tự thân cũng mặc áo màu đỏ, Tâm không có nhiễm dính, vắng lặng, đi xin ăn (khất thực) để sống. Ở trước Tượng, tụng 50 vạn biến xong rồi, liền ở trong ban đêm dùng cây Đam Bặc thiêu đốt trong lửa, một lần tụng Minh thì một lần ném vào lửa thiêu đốt, mãn một vạn biến liền thấy Vô Động Thánh Giả hiện thân ở trước mặt, được làm Như Lai Sứ Giả (Tathāgata-ceṭaka), được Tam Ma Địa (samādhi), cùng với Bồ Tát đồng địa vị

 

_ Lại có Pháp. Lấy tấm vải trong rừng Thi Đà (Śma-śāna), vẽ tượng Vô Động Kim Cang, dùng máu loãng của mình làm màu sắc, an trí mặt Tượng hướng về phương Tây. Hành Giả ngồi xoay mặt về hướng Đông niệm tụng. Mỗi Thời thì ba lần tắm rửa, mặc áo ẩm ướt, đối trước Tượng tụng Minh mãn mười vạn biến, rồi cho hết thảy Quỷ Thần ăn.

Lại vào đêm ngày 08 của kỳ Hắc Nguyệt, lấy Ma Nô Sa (thây người chết) rồi ngồi trên đó, tụng Minh một vạn biến xong, thì Ma Nô Sa liền cử động thân, Hành Giả không nên sợ hãi, miệng kẻ kia há lớn nhả ra hoa sen, tức mau cắt lấy, hay khiến cho thân của Hành Giả như Đồng Tử 15 tuổi tóc xoắn tròn, đi khắp Trời Đất được làm Đại Minh Vương

Lại nơi trước Tượng, mỗi ngày hai Thời niệm tụng, tùy sức cúng dường, đốt Trầm Thủy hương, như vậy đủ sáu tháng thì  tự thấy được Vĩ Sa Gia Chủ (Chủ của cảnh giới)

 

_ Lại có Pháp. Lấy cờ phan, tụng Minh một ngàn biến, cầm ở trước mặt quân trận, ắt hay phá trận của người khác.

_ Lại có Pháp. Muốn cấm quân binh nơi khác không được động đậy, ở trên cờ phan vẽ Vô Động Tôn với thân màu thịt vàng, bốn mặt, trên dưới đều lòi răng nanh, bốn cánh tay, làm tướng giận dữ đáng sợ, quanh thân rực lửa nóng, làm thế ăn nuốt quân lính của người khác. Người trì Pháp dùng cây cờ chỉ vào người kia, lại tưởng Thánh Giả dùng sợi dây cột binh chúng ấy, thì binh lính ấy liền không thể cử động được.

Tứ Diện Vô Động Kim Cang Minh là:

“Nẵng ma tam mạn đá phạ nhật-ra noản. Thủy-ma xá nang tất-thể ca bá ra lăng cật-lị đá hộ đát phạ hạ, mỗ nễ nhĩ phạ lộ ra đà-phạ, năng sắt tra-ra, ca ra ra na xả nẵng bộ nhạ nga bả lị phệ sắt trưng đam, xá lợi ra để vinh nại ra nẵng dã nẵng ca hạ hộ mỗ cật-đá tra hạ tam giả đốt mỗ khư vĩ cật-lị. Đát lỗ bả mãng hạ tị sa nõa dã. Đát nễ-dã tha: Úm, vĩ cật-lị đá, vĩ ca tra, vĩ ca la, ma hạ ra-lê đá vĩ sắt tha mỗ đát ra khế trú. Xỉ sắc tra hạ sa ra án đát ra mãng ra đà ra giả đốt mỗ mẫu khư, nhập-phạ ra na tì lộ đà-phạ kế xa, hồng, phạ nhật-ra phạ nhật-lệ, nghiệt-ra, hồng phán tra, sa-phạ ha”.

 

_ Nếu muốn khiến người khác đánh nhau. Lấy lông chim bồ câu, lông chim cú vọ….. tụng Minh thiêu đốt, tức họ liền đấu tranh.

_ Nếu muốn thiêu chết Thiết Đô Lỗ (Śatrā: Oan Gia), lấy vỏ hạt gạo thiêu đốt. Ngay lúc thiêu đốt thời tưởng Thánh Giả dùng sợi dây cột trói, ắt  Xả Đô Lỗ (Śatrū: Oan Gia) kia hướng về phương Nam bị khốn khổ thổ huyết, Tộc loại của nhóm ấy đều chẳng được tồn tại vậy.

_ Lại có Pháp. Muốn khiến cho Thiết Đô Lỗ (oan gia) bị chết. Lấy đất, muối, sáp, lá Khổ Luyện hòa lại, giã quết làm bùn, tạo làm hình dạng kẻ kia, để trên đất rồi chặt đứt thì kẻ kia liền bị chết.

_ Nếu tụng Minh, thiêu đốt lúa đậu, gạo sẽ khiến cho Xả Đô Lỗ kia bị nghèo túng

_ Nếu muốn khiến cho Đại Nhân yêu thích. lấy muối làm hình dạng kẻ kia, chặt từng đoạn, tụng đủ bảy ngày thìa kẻ kia liền yêu thích.

_ Lại lấy hoa Câu Tô Ma, tụng Minh, thiêu đốt mười vạn biến sẽ được nữ Dạ Xoa đi đến, ở  trong ba việc mong cầu đều được.

_ Lại tụng Minh, thiêu đốt hoa Mạn Đà La, xưng tên người kia, tức khiến cho họ bị nhiễu loạn.

Tụng Minh, thiêu đốt muối liền được Thiên Nữ đi đến, tùy ý sai khiến.   

Tụng Minh, thiêu đốt An Tất hương sẽ được Xà La (? La Xà: vua chúa) hoan hỷ

 

_ Lại có Pháp vẽ tượng. Trước tiên vẽ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vẽ tượng Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử, vẽ Chấp Kim Cang Bồ Tát với khuôn mặt mỉm cười, tay cầm chày Kim Cang.  Ở bên dưới Chấp Kim Cang, vẽ Vô Động Thánh Giả với mọi thứ trang nghiêm. Liền ở trước Tượng ấy, tụng Minh 50 vạn biến, sau đó làm tất cả các việc đều thành tựu vừa ý.

Nếu muốn giáng phục binh nơi khác, liền kết Vô Động Thánh Giả Nhãn An, tác tiếng giận dữ, xưng chữ Hồng (HŪṂ). Dùng Tâm tưởng, khiến cho Võng Lượng bắt trói, thì binh ấy  liền hàng phục.

Lấy tro của rừng Thi Đà, gia trì 7 biến rồi đem cho kẻ kia, liền được yêu thích.

 

_ Lại có Pháp. Lấy Ngưu Hoàng gia trì 7 biến, chấm trên vầng trán của mình, thì hay khiến cho mọi người nhìn thấy đều yêu thích. Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) không thể gây tổn hại, thành tựu lửa nóng sáng rực.

_ Lại có Pháp. Ở trên thân của mình, an bày chữ Phạn của Minh thì chúng La Sát kia lui tan hơn ngoài 100 do tuần.

_ Lại bị rắn độc cắn trải qua nửa năm chưa khỏi, tụng Minh tức khỏi bệnh.

_ Lại ở trên bức vách, vẽ Kiếm Khế, lại vẽ con rắn Cú Luật Ca (Kulika) to lớn quấn trên cây kiếm,  chung quanh cây kiếm có lửa rực cháy. Liền gia trì một ngàn biến, dùng chỉ vào bệnh nhân thì người bệnh liền bước xuống nói chuyện. Gia trì 108 biến thì người bệnh thường được Thánh Giả ủng hộ. Mỗi ngày gia trì vào thức ăn dư thừa, để ở nơi sạch sẽ, cúng dường Thánh Giả sẽ thườngđược như Nguyện.

_ Hành Giả giận dữ kết Tâm ấn, xưng chữ Hồng thì tất cả đám mây ác đều lui tan.

_ Lại lấy cây gai làm cây kim, hòa với dầu La Thị Ca, tụng Minh thiêu đốt, ắt hay chận đứng cơn mưa lớn,  hay khiến cho Hành Giả thành kết Đại Giới, cũng thành tựu ngàn loại sự nghiệp.

_ Lại nói Pháp vẽ tượng Vô Động Tôn Kim CanG. Thân mặc áo màu đất đỏ, lọn tóc bên trái xõa xuống, mắt nhìn nghiêng, tướng đồng tử, tay cầm chày Kim Cang với cây gậy báu, mắt hơi đỏ, ngồi trên bàn đá, giận dữ, quanh thân rực lửa nóng. Ở trước Tượng, kết tất cả An Khế yêu thích đều được thành tựu.

Y theo Pháp lúc trước, làm Pháp bay trên hư không, ẩn hình với các Pháp ưa thích thì tùy theo ý đều thành tựu. Giả sử không có Tượng vẽ, thì một mình ở nơi Nhàn Tĩnh, hoặc ngay trong chùa, hoặc trong hang núi, xa lìa chốn ồn ào…thời điều đã mong cầu, tất cả đều thành tựu.

Gia trì vào người bị bệnh sốt rét, tức kẻ ấy tự cột trói, bước xuống nói chuyện.

Gia trì vào cái gương cũng được hình tượng hiện ra, hỏi việc đều nói.

Chọn lấy Đồng Tử hoặc Đồng Nữ để trong Đạo Tràng, triệu Thần nhập vào, khiến xuống trong Đàn, hỏi tất cả việc đều được.

 

_ Tiếp theo, muốn thành tựu Pháp Hệ Ca La.  Vào lúc giữa trưa trong ngày mồng một của tháng, rải các thứ hương hoa cúng dường không dứt, tụng Minh 108 biến, niệm hết thảy chư Phật, Bồ Tát trong Đàn. Mỗi ngày niệm tụng, mãn một tháng, như Pháp cúng dường xong, dùng cây Khổ Luyện làm củi đốt lửa, lấy bơ bôi lên cây Át Ca, bạch giới tử …gia trì rồi đốt lửa, từ hoàng hôn đến nữa đêm, cho đến khi mặt trời mọc thì Hệ Ca La liền đi đến, hỏi Hành Giả rằng: “Muốn sai Ta làm việc gì?”

 

Hành Giả nhiếp thọ xong, sau đó tùy theo Hành Giả sai khiến thảy đều tùy thuận, cho đến khiến lên trời bắt Thiên Nữ thì liền đem đến. Nếu cần dùng ăn uống, tăm xỉa răng, nước… đều được cung cấp hầu hạ.

 

ĐỂ LỊ TAM MUỘI DA BẤT ĐỘNG TÔN THÁNH GIẢ

NIỆM TỤNG BÍ MẬT PHÁP

_QUYỂN HẠ (Hết)_

 

 

Lại nữa, như lúc trước dựng lập Mạn Đồ La, nên lấy một ngàn hoa sen, mỗi một hoa thì tụng một lần, an ở Trung Đài, dùng để phụng hiến. Sau đó dẫn Đệ Tử vào, bảo cho biết Tam Muội Da (lời thề vì các Dục thanh tịnh) theo Phẩm Yết Ma Mạn Đồ La

Lại nữa, Pháp thành tựu tượng. Ở trên lụa thanh tịnh, vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát đứng trên đỉnh núi Tô Di Lô (Sumeru) có 8 Đức Phật vây quanh. Ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, ở trước Tượng này…..

 Diên Hưởng, năm thứ ba, Bính Dần, mùa Thu tháng bảy. Xem xét lại xong, Đồng tháng Chạp, thượng tuần, cho điêu khắc thành

Phong Sơn Trường Cốc Luân Hạ_ Vô Đẳng ghi.

 

Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm ba quyển vào ngày 20/07/2012

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567