Mật Tạng Bộ 2_ No.951 (Tr.239 _ Tr.246)
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
_QUYỂN THỨ BA_
ẤN THÀNH TỰU
_PHẨM THỨ BẢY_
Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai bảo Đại Chúng rằng: “Các Thiện Nam Tử cần phải thọ trì vô lượng vô số sức đại dõng mãnh của Tam Ma Địa Xuất Hiện của hết thảy Như Lai, Thân an trụ Chú của hết thảy Như Lai, vô lượng vô biên Pháp chưa từng có của Chủng Tộc chân thật của hết thảy Như Lai, Oai Đức vô cực sinh ra lưu bày Đại Ấn Ấn Chú… Trong đây hay sanh hết thảy Bồ Tát, hết thảy chứng Địa thần thông, Đại Pháp Đảnh Tam Ma Địa Môn, hay phá cu chi tất cả Ma Quân, hay nhiếp sức Đại Hùng của hết thảy Bồ Tát, bậc trợ giúp hộ trì, hay khiến cho hết thảy hữu tình đáng sợ sanh Tâm Đại Từ.
Này các Thiện Nam Tử! Nay Ta lược nói Thành Biện Nhất Thiết Sự Nghiệp Oai Đức Đại Ấn Ấn Chú”
Khi ấy Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, chắp tay cung kính bạch rằng: “Thế Tôn! Nguyện vì con giải nói nói rõ Oai Đức Đại Ấn, Ấn Chú mà hết thảy Như Lai đã lưu bày, để làm lợi ích cho hết thảy hữu tình, dùng chút ít công mà gom chứa thành Đại Chứng”.
Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ông nên lắng nghe! Hãy nghe cho kỹ! Tĩnh Lự (Dhyāna: Thiền Định) niệm trì. Nay Ta vì ông phân biệt giải thích Pháp Đại Tinh Tấn Ấn, Ấn Chú của Phật Thế Tôn
NHẤT THIẾT NHƯ LAI TÂM TINH TẤN ẤN_CHI MỘT
Hai tay: đem tám ngón, bên phải đè bên trái, cài chéo trong lòng bàn tay, liền nắm lại thành quyền, duỗi hai ngón cái ngang bằng, đè trên lóng giữa bên cạnh của ngón trỏ đừng khiến cho đầu ngón co lại.
Ấn Chú là:
“Na mạc tát phạ bột đà (1) bồ địa tát đỏa nam (2) a nhĩ la (3) hổ-hồng (4) yêm (5)”
NAMAḤ SARVA-BUDDHA BODHISATVĀNĀṂ_ A VĪRA HŪṂ KHAṂ
Ấn này, nếu đem hai đầu hai ngón cái, lên xuống qua lại, tức gọi là Khải Triệu Như Lai Chủng Tộc Ấn.
Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhĩ na chức (4)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ JINA-JIK
Hai Ấn Chú này gọi là Như Lai Tối Tinh Tiến Tâm, sức hay độ thoát hết thảy địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… cũng hay trợ giúp thành Công Tích Nghiệp Sự của hết thảy Như Lai. Nhiếp các Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Vương, Y Thủ La Thiên, Diêm Ma Vương, Thủy Thiên, Phong Thiên, Đa Văn Thiên Vương cho đến hàng Đại Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát của mười Địa (Daśa-bhūmi)
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ẤN_ CHI HAI
Dựa theo Tâm Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón cái trái, co vào trong lòng bàn tay, áp đầu ngón trỏ phải, ngón cái phải y theo Định Thân Ấn lúc trước.
Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) a lô lực (4)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ AROLIK
Ấn này, nếu sửa đầu ngón cái phải, lên xuống qua lại, tức gọi là Thỉnh Triệu Quán Thế Âm Bồ Tát Chủng Tộc Ấn
KIM CANG MẬT TÍCH CHỦ BỒ TÁT ẤN_ CHI BA
Dựa theo theo Tâm Ấn lúc trước, nên sửa ngón cái trái, như lúc trước duỗi đè lên, co ngón cái phải vào trong lòng bàn tay nắm đầu ngón trỏ trái, ngón cái trái y theo Định Thân lúc trước.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bạt nhật la (4) điệt-lực (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ VAJRA-DHṚK
Ấn này, nếu sửa đầu ngón cái trái, lên xuống qua lại, tức gọi là Thỉnh Triệu Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát Chủng Tộc Ấn
NHẤT TỰ PHẬT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI BỐN
Lại nên chắp tay, đem hai ngón cái vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Duỗi dựng thẳng hai ngón giữa đều co lóng thứ nhất khiến đầu ngón trụ nhau. Kèm song song hai ngón cái ngang bằng nhau trong lòng bàn tay. Lại đem hai ngón trỏ co bằng nhau co đè trên lưng móng của hai ngón cái sao cho ngón trỏ cùng dựa nhau.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) a bả-ra để khiếm đố (2) sắt nị sái dã (3) Úm-hồng (4) đả đà nga đố (5) sắt nị sái (6) a na phạ lộ chỉ đả (7) mỗ bột đà (8) chước cật-la vạt la để (9) hổ-hồng (10) nhập phạ la, nhập phạ la (11) đà giá đà giá (12) độ na độ na (13) nhĩ độ na, nhĩ độ na (14) đát-ra sái dã (15) ma la dã (16) hiệt sa na dã (17) ca na (18) bạn nhạ, bạn nhạ (19) ám ám (20) ác ác (21) các các (22) bổ-lộng xí ni (23) bổ-lộng xí ni (24) quân noa lý ninh (25) a bá ra xí đá tắc đát ra (26) đà lý nị (27) hổ-hồng (28)”
NAMO BHAGAVATE APRATIHATOṢṆĪṢĀYA_ OṂ TATHĀGATOṢṆĪṢA ANĀVALOKITA MŪRDHA CAKRA-VARTTI HŪṂ, JVALA JVALA, DHAKA DHAKA, DHUNA DHUNA, VIDHUNA VIDHUNA, TRĀSAYA MĀRĀYA NĀŚANĀYA KAṆA, BHAṂJA BHAṂJA, AṂ AṂ, AḤ AḤ, SAḤ SAḤ, PṚŚAṆĪ PṚŚAṆĪ, KUṆḌALIṆI APARĀJITA CCHATRA-DHĀRIṆI HŪṂ
Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Căn Bản Ấn Chú này, là điều mà căn già sa đẳng hết thảy Như Lai quá khứ đã cùng nhau nói giữ, hết thảy Như Lai đời vị lai sẽ cùng nhau nói giữ, hết thảy Như Lai đời hiện tại nay cùng nhau nói giữ. Vì muốn nhiếp ngự các hữu tình nên đều cùng nói giữ. Người Trí ở nơi cư ngụ vịn kết Ấn này thì hết thảy kẻ ganh ghét, kẻ gây chướng ngại ác, Tỳ Na Dạ Ca chẳng dám gần gũi.
Này Mật Tích Chủ! Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Căn Bản Ấn Chú này. Hết thảy chư Phật trụ trong trăm ngàn cu chi căng già sa kiếp, khen ngợi nói Thần Lực, Công Đức của Ấn này cũng chẳng thể hết được. Lại dùng mọi loại ngôn từ, nói Đại Ấn này cũng chẳng thể hết được.
Nếu người Trí xoay vần trì Ấn này, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, tức thường chẳng bị cu chi trăm ngàn Ma, giòng họ Ma...rình tìm gây não loạn. Người này qua trăm ngàn cu chi đại kiếp về sau,chẳng bị đọa vào đường ác. Vì sao thế? Vì người này đã được Phước gom chứa Công Đức, Ta dầu ở trong trăm ngàn cu chi đại kiếp, nói cũng không hết.
Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này. Nếu có người dùng một Tâm tịnh, kèm trì Giới Hạnh, thường tụng trì thì Niệm Lực, Tuệ Lực, Trí Lực đã được, ở trong trăm ngàn cu chi kiếp nơi sanh ra, thường chẳng bị lùi mất. Tại sao vậy? Vì Đại Ấn như vậy có oai đức lớn, có công dụng lớn, vô lượng sức mạnh.
CAO ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI NĂM
Lại hai tay: đem hai ngón vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Tiếp theo, dựng thẳng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón. Cùng kèm song song hai ngón cái duỗi đè trên bên cạnh lóng giữa của hai ngón vô danh. Lại đem hai ngón trỏ để trên lóng giữa của hai ngón giữa, co đầu chạm nhau.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ lộ nhập phạ la, tư nhĩ tư diệu (4) nga đố ô sắc nị sái (5) độ na độ na, hổ-hồng (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ JVALA JVALA, DĪPYA DĪPYODGATOṢṆĪṢA, DHUNA DHUNA HŪṂ
BẠCH TẢN CÁI ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI SÁU
Dựa theo Cao Đảnh Vương Ấn lúc trước, nên sửa hai tay ngón giữa, hơi co lóng thứ nhất sao cho đầu ngón ngang bằng dựa nhau, tiếp theo mở hai ngón trỏ cách nhau nửa thốn (1/6 dm)
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ma ma ma ma (4) hỗ-hồng nịch (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ MAMA MAMA HŪṂ NĪḤ
QUANG TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI BẢY
(Một tên gọi là Kim Luân Phật Đảnh Ấn)
Dựa theo Cao Đảnh Luân Vương Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ, tách mở dựng thẳng duỗi đầu ngón cách đầu ngón giữa hoảng một thốn hai phân (6/15 dm)
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đà nga đố ô sắc nị sái (4) a na phạ lộ chỉ đả (5) mỗ phất đà, đế thiệu la thủy (6) hổ-hồng (7) nhập phạ la, nhập phạ la (8) đà cả đà cả (9) na la nhĩ na la nhĩ (10) sân na sân na, tần na tần na (11) hổ-hồng phán (12) tốt-phạ ha (13)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ
OṂ_ TATHĀGATOṢṆĪṢA ANĀVALOKITA MŪRDHA TEJORĀŚI HŪṂ, JVALA JVALA, DHAKA DHAKA, VIDARA VIDARA, CCHINDA CCHINDA, BHINDA BHINDA, HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
THẮNG ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI TÁM
Dựa theo Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ ở dưới lóng thứ nhất của ngón giữa, co bằng đầu ngón dựa nhau.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhạ thiệu sắt nị sái (4) nhập phạ la nhập phạ la (5) bạn đà bạn đà (6) na ma na ma (7) đốt-lỗ-hồng (8) đốt-lỗ-hồng (9) đốt-lỗ hồng (10) hoắc (11) khiếm nẵng hổ-hồng (12)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ
OṂ_ JAYOṢṆĪṢA JVALA JVALA, BANDHA BANDHA, DAMA DAMA, DRŪṂ DRŪṂ DRŪṂ, HĀḤ HANA HŪṂ
CHUYỂN PHÁP LUÂN_ CHI MƯỜI
(Dùng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú)
Lại hai tay: đem hai ngón út, co đầu ngón ngang bằng dựa nhau. Tiếp theo đem hai ngón vô danh đều co vào trong lòng bàn tay, hai ngón giữa đều hơi co dựng thẳng sao cho đầu ngón trụ nhau, để hai ngón trỏ ngay trên cạnh lóng giữa của ngón giữa, hai ngón cái đều đè trên hai ngón vô danh, mở hai lòng bàn tay, cổ tay cách nhau bốn thốn (2/5 dm).
Một Pháp Ấn này hay chuyển bánh xe Pháp của 12 Hành Tướng, diệt các cấu chướng, ngang bằng với Như Lai.
BẠC (mưa đá) TỒI (phá vỡ) PHIỀN NÃO ẤN- CHI MƯỜI
(Dùng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú)
Dựa theo Đảnh Luân Vương Ấn, sửa hai ngón giữa dựng thẳng hợp đầu ngón, lại đem hai ngón trỏ bật sau lưng hai ngón giữa, cùng trụ đầu ngón. Một Pháp Ấn này cũng gọi là Tọa Ấn
Này Mật Tích Chủ! Năm Đại Ấn này gọi là Nhất Thiết Như Lai Đảnh Luân Vương Chú Chủng Tộc Vương Ấn Đại Ấn. Tên thứ nhất là Cao Đảnh Luân Vương Ấn, tên thứ hai là Bạch Tản Cái Đảnh Luân Vương Ấn, tên thứ ba là Quang Tụ Đảnh Luân Vương Ấn, tên thứ tư là Chuyển Pháp Luân, tên thứ năm là Bạc Tồi Phiền Não Ấn. Nhóm Ấn này được gọi là Đại Đảnh Luân Vương Ấn.
NHƯ LAI ĐẠI TÂM ẤN_ CHI MƯỜI MỘT
Dựa theo Như Lai Tâm Ấn thứ nhất, chỉ sửa hai ngón cái đều co vào lòng bàn tay. Một Pháp Ấn này gọi là Như Lai Tâm Đại Tinh Tấn Ấn.
Người trì Chú thường xoay vần kết Ấn này, tụng Đảnh Luân Vương Chú, một lần Chú thì một lần ấn trên trái tim, đủ 108 biến, tức hay tồi diệt hết thảy tội nặng căn bản của quá khứ hiện tại. Thường dùng Ấn này làm tất cả Pháp, ủng hộ nơi thân.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ngộ na lê, nhị la (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ KUṆḌALĪ VĪRA SVĀHĀ
Một Pháp Chú này có công lực đồng với Ấn Chú thứ nhất lúc trước. Ở nơi làm Pháp, trợ nhau dùng cũng được. Chú này có sức đại oai mãnh
NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG TÂM ẤN_ CHI MƯỜI HAI
Lại chắp tay để ngang trái tim, lòng bàn tay trống rỗng, lại đem tám ngón đều co đầu ngón ngang bằng cùng dựa nhau, khoảng giữa của tám ngón cách nhau khoảng ba phân (1/10 cm), hai ngón cái cũng cách nhau ba phân (1/10 cm) dựng thẳng ngang bằng đầu ngón.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) trác-lỗ hồng (4) bạn đà (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ ṬRŪṂ BANDHA SVĀHĀ
Pháp Ấn Chú này cũng hay thành biện hết thảy sự nghiệp, tự hộ giúp mình, hộ giúp người khác. Kết tu các Pháp sẽ lìa chướng não
NHƯ LAI TÍCH TRƯỢNG ẤN_ CHI MƯỜI BA
Lại tay phải: đem ngón cái nằm ngang co vào lòng bàn tay, bốn ngón kia nắm lại thành quyền, co khuỷu tay ngay phía trước duỗi ngang bằng.
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) độ nại, nhĩ đả la noa (4) hổ-hồng (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ DHUNA VITARAṆA HŪṂ
Pháp Ấn Chú này. Nếu gặp hết thảy các hữu tình ác, liền kết Ấn này dùng ủng hộ thân.
NHƯ LAI BÁT ẤN_ CHI MƯỜI BỐN
Trước tiên, ngửa lòng bàn tay phải để ngang trái tim, đem tay trái úp lên lòng bàn tay phải, đầu ngón út trái cùng đầu ngón cái phải cùng trụ nhau, đầu ngón cái trái cùng đầu ngón út phải cùng trụ nhau.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) lộ ca bá la, địa sắt-sỉ đá (4) đà la, đà la dã (5) ma ha nỗ bà phạ (6) bột đà bá đát-la (7) tốt-phạ ha”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ LOKA-PĀLA ADHIṢṬHITA DHARA DHARĀYA MAHĀNUBHĀVA BUDDHA-PATRA SVĀHĀ
Pháp Ấn Chú này có đủ đại tinh tấn, thường làm hết thảy Như Lai Thần Lực mà gia hộ. Xoay vần kết Ấn này và tụng Chú này, kết thúc mỗi một biến, xưng nhớ hữu tình ở Địa Ngục, Quỷ đói… mãn 108 biến tức hết thảy Quỷ đói ở Địa Ngục được ăn uống no đủ. Nếu ở trong đồng trống hoang vắng, kết trì Ấn này kèm tụng Chú này, liền được hết thảy Quỷ Thần trong đồng trống hoang vắng không dám gây nhiễu loạn.
NHƯ LAI TƯỚNG HẢO ẤN_ CHI MƯỜI LĂM
Lại hai tay: đem hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út… bên phải đè bên trái, cài chéo nhau nhau trong lòng bàn tay, đều nắm lòng bàn tay. Duỗi thẳng hai ngón trỏ cùng trụ đầu ngón, hai ngón cái đều nắm trên cạnh ngón trỏ. Đem Ấn đảo rũ xuống, ngửa lòng bàn tay để ở trên trán, đầu hai ngón trỏ để ngay giữa hai chân mày (tam tinh).
Ấn Chú là:
“Na mạc tát phạ đả đà già để (1) biều, a ra hạt mịch (2) tam miệu tam bột thê mịch (3) hề hề (4) bạn đà bạn đà (5) để sắt sá, để sắt sá (6) đà ra dã, đà ra dã (7) nễ luận đà (8) nễ luận đà, phất noa ma nê (9) tốt-phạ ha (10)”
NAMAḤ SARVA TATHĀGATEBHYO ARHATEBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHEBHYAḤ
HE HE, BANDHA BANDHA, TIṢṬA TIṢṬA, DHARĀYA DHARĀYA, NIRUDDHA NIRUDDHA, RAṆA-MAṆI SVĀHĀ
Pháp Ấn Chú này gọi là Đại Trượng Phu Thiên Nhân Tướng Hảo. Nếu có người thường hay xoay vần kết Ấn này, tức mau thành tựu hết thảy Tất Địa (Siddhi), đủ oai đức lớn
Nếu đem Ấn ấn đảnh đầu tức gọi là Như Lai Đảnh Ấn. Nếu đem Ấn ấn lỗ mũi thì gọi là Như Lai Tỵ Ấn.
Đảnh Tỵ Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ải lý ni, hổ-hồng, phán (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ ŪRṆE HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Như Lai Đảnh Tỵ Ấn này thường kết Hộ Thân, sẽ ở nơi được sanh ra trong trăm ngàn cu chi Đại Kiếp, chẳng bị các tật bệnh ở đảnh đầu, lỗ mũi
NHƯ LAI NHÃN ẤN CHÚ_ CHI MƯỜI SÁU
Lại chắp hai tay lại, đem hai ngón cái co vào lòng bàn tay, tiếp theo đem hai ngón trỏ đều co lóng thứ nhất, đem đầu ngón đè trên lóng giữa bên cạnh hai ngón giữa, hai đầu hai ngón trỏ cách nhau một tấc (1/3 dm)
Như Lai Nhãn Ấn này ở Đảnh Luân Vương Đàn, thanh tịnh xoay vần kết thì hay làm lợi ích lớn, diệt các tội nặng, thành tấn Tất Địa của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Giả
Nếu trải qua trăm ngàn cu chi kiếp tu các Công Đức, dùng oai lực của Ấn này hay nhiếp hết các nhóm Công Đức đã gom chứa.
Ấn Chú là:
“Na mạc tát phạ đả đà già để (1) biều, a ra hạt mịch, tam miệu tam bột thê mịch (2) Úm-hồng (3) lỗ lỗ (4) tắc phổ lỗ (5) nhập phạ la (6) để sắt sá (7) tất đà lạo giả nê (8) tát phạ át đà, sa đà ninh (9) tốt-phạ ha (10)”
NAMAḤ SARVA TATHĀGATEBHYO ARHATEBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHEBHYAḤ
OṂ_ RURU SPHURU JVALA TIṢṬA SIDDHA LOCANE SARVĀRTHA SĀDHANE SVĀHĀ
Này Mật Tích Chủ! Như Lai Nhãn Đại Minh Vương Chú này là điều mà mười cu chi Phật cùng nhau tuyên nói. Xưa kia khi Ta làm Bồ Tát thời ở chỗ của mười cu chi Phật nhận được Chú này. Nếu người trì Chú thường hay dùng Tâm đại tinh tấn, tụng trì Chú này liền được hết tất cả Bồ Tát, Chú Thần đều hiện ra trước mặt, cũng đều thành tựu Chú Phẩm của hết thảy Kim Cang Chủng Tộc. Thế nên Mật Tích Chủ! Người trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, nên trước tiên tụng Chú này 7 biến hoặc 14, hoặc 21 biến.
Như Lai Nhãn Đại Minh Vương Chú này. Nay Như Lai vì hết thảy hữu tình được an vui lớn, lìa dơ bẩn, thanh tịnh cho nên nói. Người trì Chú, nếu gặp người có tánh bạo ác thì Chú vào bàn tay xoa mặt, ngầm tụng Chú này rồi cùng nhau luận lý liền được vui vẻ, cũng hay tồi phục hết thảy hàng Si Mỵ, Vọng Lượng, Quỷ Thần ác.
Này Mật Tích Chủ! Nếu người tụng trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú, một lần cầu Pháp, hai lần cầu Pháp mà chẳng thành chứng. Tức nên gia thêm Đại Minh Vương Chú này, cùng nhau đồng tụng mãn hai mươi vạn biến thì quyết định thành tựu Tất Địa tối thượng của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú
Nếu chưa trải qua một, hai lần làm Pháp mà tụng cả hai, tức thân của người trì Chú sẽ bị tai ương.
NHƯ LAI MY HÀO ẤN CHÚ_ CHI MƯỜI BẢY
Dựa theo Như Lai Nhãn Ấn, chỉ sửa hai ngón trỏ đều để ở lưng lóng trên của ngón giữa sao cho đầu ngón đều cách lóng của ngón giữa một phân (1/3 cm).
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) hột-lý (3) hổ-hồng (4)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HRĪḤ HŪṂ
Như Lai My Hào Ấn Chú này tức là điều mà hết thảy Như Lai quá khứ đã cùng nhau tuyên nói, nay Ta cũng nói. Khi xoay vần Ấn này thời Đại Tự Tại Thiên, Cu Ma La Thiên, Bảo Hứ Dã Thiên… đều chẳng dám quấy nhiễu huống chi là các Si Mỵ, Quỷ Thần nhỏ quấy nhiễu được sao
NHƯ LAI KHẨU ẤN_ CHI MƯỜI TÁM
Dựa theo Như Lai Tâm Ấn, chỉ sửa hai ngón cái, kèm nhau duỗi thẳng, co lóng đầu khiến cách cạnh ngón trỏ khoảng ba hạt lúa. Đem Ấn để ở Diện Môn (Mukha: chỉ 3 chỗ là cái miệng, khuôn mặt, phần bên dưới cái mũi bên trên cái miệng), lóng đầu của lưng hai ngón cái để ở ngay môi.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) chỉ lý, chỉ lý (3) hổ-hồng (4)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ KILI KILI HŪṂ
Một Ấn Chú này chuẩn bị sẵn cây đuốc lửa lớn, hay mau chóng giúp đỡ hoàn thành hết thảy sự nghiệp. Người trì Chú nếu thường xoay vần kết Ấn này để trước miệng mà tụng Khẩu Chú này hai, ba, bảy biến. Sau đó tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú. Do sức của Ấn Chú mà Người, Trời trong ba cõi thấy nghe luận nói, thảy đều kính yêu. Bởi thế, người này nên thường dùng Pháp Ngữ hòa nhã, chân thật, dịu dàng. Người này trong trăm ngàn cu chi kiếp chẳng bị bệnh về miệng. Đại Tự Tại Thiên, Tỳ Sắt Nộ Thiên với các hàng Trời, Rồng, tám bộ Quỷ Thần nghe người này nói, cũng đều kính phục, huống chi là Si Mỵ, Quỷ Thần nhỏ
Nên quỳ gối phải sát đất, chân trái đạp đất, làm như thế muốn đứng dậy chồm về phía trước, ngửa mặt trợn mắt, ngó nghiêng về bên trái. Tay phải: nên đem cánh tay, bàn tay, ngón tay theo bên phải hướng về phía sau, nghiêng cánh tay duỗi nghiêng, gấp rút gồng cánh tay như thế muốn hướng xuống đất, bung năm ngón cố gắng tách mở, lòng bàn tay tựa như che, tựa như nghiêng. Tiếp theo đem cánh tay trái theo bên trái hướng về phía sau, gấp rút nâng cánh tay lên, cố gắng co cánh tay, bàn tay hướng lên trên, hơi bung năm ngón duỗi thẳng, cố gắng tách mở, hướng lòng bàn tay về phía trước.
Khi kết Ấn này thời phát ra tiếng giận gữ lớn, xưng hai chữ Hổ-Hồng (HŪṂ) 21 tiếng, thì các chướng tội thảy đều được phá diệt. Ma Vương với quân tướng Ma trong Dục Giới (Kāma-dhātu) đều bị đập nát
Xưa kia, khi Ta mới đến sông Di Liên Thiền (Nairañjanā) tắm gội thân xong, hướng đến bên dưới cây Bồ Đề (Bodhi-vṛkṣa), ngồi ở tòa Kim Cang (Vajrāsana). Lúc đó có vô lượng trăm ngàn cu chi Ma Vương với chúng Ma Tộc đều cầm giữ mọi loại tướng giận dữ uế ác đến quấy nhiễu, khủng bố Ta. Thời Nan Thắng Phấn Nộ Vương đột nhiên ở trước mặt Ta, từ dưới đất nhảy vọt lên, làm tướng Thiên Nữ, giận dữ kết Ấn này đập nát các chúng Ma, một thời mọi loại tướng đáng sợ bị diệt tan, không thể gây phiền não được. Ngay trong đêm này cho đến khi trời rạng sáng thì Ta liền viên chứng Vô Thượng Chánh Trí, quán thấy Thế Gian hết thảy Sa Môn, Bà La Môn không có ai chứng được Trí này.
Tồi Ma Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) hổ lỗ, hổ lỗ (4) chiến noa lý, ma đăng nghê (5) hổ-hồng, tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ HURU HURU, CAṆḌALI MATAṄGI HŪṂ SVĀHĀ
Này Mật Tích Chủ! Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú này là điều mà Ta đã nói. Nếu người trì Chú gặp nơi có Quỷ Thần ác rất đáng sợ, mà muốn Hộ Thân, kết Giới, ủng hộ, tạo tu Pháp thì nên siêng năng tinh tấn trì kết Ấn này kèm tụng Chú này, hướng tu Pháp này, tức không có chướng não, mau được thành tựu
NHƯ LAI SÓC (cái giáo) ẤN_ CHI HAI MƯƠI
Ngồi Kiết Già,thân ngay ngắn, ngửa lòng bàn tay trái để ngang dưới rốn, bốn ngón tay ấy tưởng dính nhau duỗi thẳng, ngón cái hơi co duỗi thẳng nắm cạnh gốc ngón trỏ. Tiếp theo, tay phải: đem ngón cái và ngón trỏ cùng vịn nhau, tưởng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út dính nhau kèm duỗi chút ít tựa như co lại.
Một Pháp Ấn này, Nếu người Trí thường trì kết, thời ở nơi sanh ra, vĩnh viễn không lui sụt sức Tín Tấn Tuệ, Như Lai Hạnh Lực, được chư Như Lai gia hộ niệm.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) Nhĩ nhạ duệ, ma ha thước để (4) đột đà lý (5) hổ-hồng phán (6) nhĩ nhạ dị nễ phán (7) mang nga lê phán (8) tốt-phạ ha (9)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ VIJAYE MAHĀ-SATĪ, DURDHARE HŪṂ, VIJAYIN PHAṬ MAṂGALE PHAṬ SVĀHĀ
Một Pháp Chú này, mỗi ngày ba thời tụng 21 biến, thì ở ba cõi mau được không chướng ngại, thắng thành tựu.
NHƯ LAI TỀ ẤN_ CHI HAI MƯƠI MỐT
Dựa theo Như Lai Sóc Ấn, chỉ sửa ngón cái, ngón trỏ của tay phải sao cho đầu ngón cách lìa đầu ngón út của tay trái khoảng một hạt lúa.
Một Pháp Ấn này cũng gọi là Chư Phật Đại Thần Lực Ấn. Nếu người Trí thường hay nhớ trì, xoay vần kết Ấn này kèm tụng Chú này, liền được tiêu trừ bệnh sốt rét, một ngày, hai ngày phát bệnh một lần.., bệnh bại liệt, bệnh đau bụng, buốt đầu với các nhóm bệnh. Lại được hết thảy tai chướng tự nhiên diệt hết, sống lâu, được Phước, an ổn giàu có sung sướng.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) chỉ trí, chỉ trí (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ KIṬI KIṬI SVĀHĀ
Một Pháp Chú này hay hiện thần thông biến hóa chẳng thể nghĩ bàn của mọi thứ loại hình sắc của Như Lai, an ủi hữu tình.
NHƯ LAI GIÁP ẤN_ CHI HAI MƯƠI HAI
Nên để tay phải ngang trái tim, đem ngón cái co ngang trong lòng bàn tay, đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út gấp rút nắm ngón cái, làm thành quyền.
Một Pháp Ấn này gọi là Tối Nhất Nhiết Đảnh Luân Vương Tâm Ấn. Nếu người Trí thường dùng Ấn ấn vào đảnh đầu, cổ, bắp vai trái phải với ấn trên trái tim, tức khiến cho người tu trì được oai lực lớn.
Người trì Chú tuy lại như Pháp tinh tấn tu trì các Pháp. Nếu không có Ấn này tức không có trang sức, như người trần truồng, như đất nước không có vua, như nhà không người, như ăn không có muối, như ao khô cạn, như mặt đất không có cây, rừng hoa quả; như Ngoại Đạo Bà La Môn thờ lửa không có Pháp có thể nương dựa, như vua ngồi xe không có người điều khiển. Người Trí tuy lại siêng năng tinh tấn, nếu không có Giáp Ấn tức bị Ma quấy nhiễu, không có chỗ thành hiệu (hiệu nghiệm).
Ấn Chú Là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bộ, nhập-phạ la (4) hổ-hồng (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ BHUḤ JVALA HŪṂ
Một Pháp Chú này gọi là Như Lai Kim Cang Cú Tam Ma Địa thường dùng Hộ Thận. Như vua mặc áo giáo còn thêm khí trượng tức chẳng sợ hãi binh chúng của giặc ác. Như người Trí này cũng lại như vậy, mỗi ngày ba thời, lượng sức lượng Pháp… như Pháp siêng năng tu Giáp Ấn Chú này tức mau thành tựu, không có chỗ sợ hãi.
NHƯ LAI PHÁT KẾ (búi tóc) ẤN_ CHI HAI MƯƠI BA
Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa duỗi ngón giữa dựng thẳng. Đem Ấn an trên đảnh đầu khiến dựng thẳng đứng.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a khuất-luật (3)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ Ā-KṚ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Kế Tam Ma Địa Môn có sức hay làm thành hết thảy sự nghiệp.
NHƯ LAI NHĨ (lỗ tai) ẤN_ CHI HAI MƯƠI BỐN
Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa duỗi ngón trỏ dựng thẳng. Đem Ấn để thẳng đứng bên lỗ tai, cùng ngang bằng với vành tai.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) hổ ca (3)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HUK
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Nhĩ Tam Ma Địa Môn. Nếu thường xoay vần kết thì mau được tồi diệt hết thảy bệnh vễ lỗ tai, sẽ chứng Thiên Nhĩ Thông
NHƯ LAI NHA (răng nanh) ẤN_ CHI HAI MƯƠI LĂM
Nên dùng tay trái: đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm gấp lại thành quyền, không cho lòi móng ra. Lại đem ngón cái duỗi thẳng đè lên trên bên cạnh ngón trỏ. Vạch thứ nhất trên mặt ngón cái ấy cùng ngang bằng với lưng bên ngoài ngón trỏ. Đem Ấn để bên cạnh cằm có răng nanh bên trái. Bên phải cũng như vậy.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đà nga đả (4) đặng sắt nhứ lệ (5) hồ-hồng phán (6) tốt-phạ ha”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ TATHĀGATA-DAṂṢṬRĪ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Nha Tam Ma Địa Môn, có oai lực lớn. Do tụng Chú Luân Ấn này ấn vào răng nanh thời ở đời sau này được răng với răng nanh của Đức Phật.
NHƯ LAI ĐẦU (cái đầu) ẤN_ CHI HAI MƯƠI SÁU
Lại dùng tay phải: đem ngón cái nằm ngang đè trên móng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út, duỗi thẳng ngón trỏ vịn trên đầu đảnh.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) mộ phất đà ninh (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ MŪRDHANE SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đầu Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI THẦN (cái môi) ẤN_ CHI HAI MƯƠI BẢY
Lại dùng tay phải: duỗi thẳng ngón cái nắm cạnh của bên ngón trỏ, dựng thẳng ngón trỏ, duỗi ngón giữa ấy tự như co lại, hướng ngón vô danh vào trong lòng bàn tay co như hình móc câu, co ngón út như hình trăng mới mọc.
Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a a (3) phạ (4) phạ hàm (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ A A, VA VA, MAṂ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Thần Tam Ma Địa Môn. Người trì sẽ được diệt trừ tội.
NHƯ LAI THIỆT (cái lưỡi) ẤN_ CHI HAI MƯƠI TÁM
Lại dùng tay phải: đem ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út cùng nắm nhau để ngang trái tim, ngửa lòng bàn tay duỗi ngang bằng, đặt ngón cái nằm ngang co trong lòng bàn tay, đầu bốn ngón tay hướng ra bên ngoài chỉ.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) na la (4) nễ phạm nhạ (5) hổ-hồng phán (6) tốt-phạ ha (7)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ DALANE BHAÑJA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Thiệt Tam Ma Địa Môn. Người trì sẽ được viên mãn Phước của cái lưỡi của Như Lai
NHƯ LAI LẶC (xương sườn) ẤN_ CHI HAI MƯƠI CHÍN
Lại dùng tay phải: co khuỷu tay để ngang hông sườn, co đầu ngón vô danh, ngón út trụ trên mặt ngón cái, kèm duỗi thẳng ngón trỏ, ngón giữa hướng về phía trước xiên vào hông sườn.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) hổ-hồng, khác (4)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ HŪṂ GAḤ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Lặc Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI BÁC (bắp tay) ẤN_ CHI BA MƯƠI
Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa cánh tay, duỗi thẳng hướng lên trên.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) bạn nhạ, a hứ, phán (3) tốt-phạ ha (4)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ BHAÑJA ĀHI PHAṬ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Bác Tam Ma Địa Môn có đủ đại thần lực, dõng mãnh thù đặc, thành mọi Pháp.
NHƯ LAI NÃI (cái vú) ẤN_ CHI BA MƯƠI MỐT
Dựa theo Giáp Ấn lúc trước, chỉ sửa co cánh tay, dùng quyền ấn trên mặt, ấn ngay trên trái tim.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) phong nga cật-lệ phác (3)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ BHOGA GṚBHAḤ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Nãi Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI TIỂU PHÚC (cái bụng nhỏ) ẤN_ CHI BA MƯƠI HAI
Lại đem tay phải duỗi ngang để dưới rốn cách một Thốn (1/3 dm) ngửa lòng bàn tay, năm ngón tay cùng kèm nhau. Tiếp theo duỗi tay trái, năm ngón tay cùng kèm nhau, đem lưng bàn tay đè trên lòng bàn tay phải. Hai bàn tay ấy dựa bên cái bụng.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nỗ nhứ, nỗ nhứ (4) tắc phổ nhứ, tắc phổ nhứ (5) mật nại la bả ninh (6) bả la mạt na ninh (7) sân na ninh, tần na ninh (8) hổ-hồng, phán (9) tốt-phạ ha (10)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ DUṢṬA DUṢṬA, SPHOṬA SPHOṬA, VIDARA-PĀṆI PRAMARDANA, CCHINDANA BHINDANA, HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Phúc Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI TÍCH (xương sống) ẤN_ CHI BA MƯƠI BA
Lấy dùng tay phải: đem ngón cái đè nhóm móng của ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út không để lòi móng ra, tiếp theo để ngón giữa nằm ngang đè trên ngón cái.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) ải ca lý nẵng (3) ca lý, kiền đà, chất đốt lô na la (4) ma nê đổ nê (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ EKA-LENA, KARI GANDHA CITRA-UDĀRA, MAṆI DHUṆI SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tích Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI BỄ (bắp đùi) ẤN_ CHI BA MƯƠI BỐN
Dựa theo Tích Ấn lúc trước, lại sửa đè đầu móng ngón giữa, duỗi ló đầu ngón trỏ đè trên móng ngón cái.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đổ sá giả (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ DŪṢAYA SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Bễ Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI TẤT (đầu gối) ẤN_ CHI BA MƯƠI LĂM
Chắp hai tay lại, đều đem ngón út, bên phải đè bên trái, co vào trong lòng bàn tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) na bạo khất ninh (4) bả la nễ bả đả dã (5) tốt-phạ ha (6)”
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tất Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI CƯỚC (bàn chân) KHÕA (mắt cá chân) ẤN_ CHI BA MƯƠI SÁU
Chắp hai tay lại, đều đem ngón vô danh, bên phải đè bên trái, co vào trong lòng bàn tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a đả lệ, đả lệ (3) hiệt đả lệ (4) bạt nhật la (5) mộ cật sử nê (6) tốt-phạ ha (7)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ A_ TĀRE TĀRE TUTTĀRE, VAJRA MOKṢAṆE SVĀHĀ.
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Cước Khõa Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI CƯỚC (bàn chân) ẤN_ CHI BA MƯƠI BẢY
Chắp hai tay lại, đều đem ngón giữa, bên phải đè bên trái, co vào trong lòng bàn tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bạt nhật la (4) thương củ la (5) bộ sử đê (6) na la (7) nhập-phạ la, hổ-hồng (8) tốt-phạ ha (9)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ VAJRA SAṂKULA BHŪṢITE DHARA JVALA HŪṂ SVĀHĀ.
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Cước Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI TRÀNG (cây phướng) ẤN_ CHI BA MƯƠI TÁM
Lại dùng tay phải: đem ngón cái tay nằm ngang đè trên móng ngón giữa, ngón vô danh, ngón út, duỗi thẳng ngón trỏ thẳng, tách dựng đè thẳng lên cánh tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) đảo nhứ (3)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ TUṢṬA
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tràng Ấn Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI NGỌA CỤ (giường nằm) ẤN_ CHI BA MƯƠI CHÍN
Dựa theo Tràng Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón trỏ, để dưới ngực, chỉ.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) a khuất luận (3)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ Ā-KṚ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Ngọa Cụ Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI THỪA (cái xe) ẤN_ CHI BỐN MƯƠI
Dựa theo Tràng Ấn lúc trước, sửa lại co cánh tay, để trước trái tim, nghiêng cánh tay duỗi ngang bằng.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) hổ-hồng (3) nga một-lâm (4) úm-hồng (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HŪṂ GAḤ BRŪṂ OṂ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Thừa Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI THỌ KÝ_ CHI BỐN MƯƠI MỐT
Lại co cánh tay phải để bên cạnh ngực, duỗi cánh tay ngang bằng. Ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm lại thành quyền. Dựng co ngón cái sao cho đầu ngón cách cạnh ngón trỏ khoảng hai phân (1/15 dm)
Một Pháp Ấn này là điều mà hết thảy Như Lai quá khứ, hết thảy Như Lai vị lai, hết thảy Như Lai hiện tại đều dùng Ấn này để Thọ Ký riêng. Thế nên người Trí nên kết Ấn này ban cho các hữu tình thọ nhận Bồ Đề Ký.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3)hổ-hồng (4) đặc phạm (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ HŪṂ TVAṂ
Một Ấn Chú này hay thành hết thảy sự nghiệp của Như Lai. Do sức của Ấn Chú cho nên đời đời thường được Niệm Lực, Tấn Lực, Giới Định Tuệ Lực, Phước Thắng Uẩn Lực chẳng bị hết thảy Si Mỵ Quỷ Thần gây nhiễu não.
NHƯ LAI KIẾN
Lại dùng tay phải: co khuỷu tay hướng lên trên, ngón giữa co đầu cùng dựa đầu ngón cái. Kèm dựng ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út, cùng áp nhau đứng thẳng.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) bả-la tất địa, ca lý (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ PRASIDDHI KARE SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Kiến Chư Pháp Tánh Tam Ma Địa Môn
NHƯ LAI QUANG DIỆM ẤN_ CHI BỐN MƯƠI BA
Dựa theo Kiến Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út hướng về lòng bàn tay bung mở, hơi co như mặt trăng mới mọc.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ lý nê (4) tốt-phạ ha (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ JVALIṆI SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Quang Diệm Tam Ma Địa Môn. Hiển các Pháp
NHƯ LAI QUANG CHIẾU ẤN_ CHI BỐN MƯƠI BỐN
Lại dùng tay phải: duỗi dựng ngón cái nắm cạnh ngón trỏ, dựng thẳng ngón trỏ. Duỗi ngón giữa, ngón út hướng về lòng bàn tay co như mặt trăng mới mọc. Hướng ngón vô danh về lòng bàn tay, co như hình móc câu.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) hồ-hồng, hổ-hồng (4) mãng mãng, phán (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ HŪṂ HŪṂ, MAṂ MAṂ, PHAṬ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Quang Chiếu Chư Tam Ma Địa Môn. Viên mãn hiện.
NHƯ LAI TAM MA ĐỊA ẤN_ CHI BỐN MƯƠI LĂM
Lại dùng tay trái: năm ngón cùng kèm nhau để dưới rốn cách mặt đất khoảng hai hạt lúa, nghiêng ngang, ngửa lòng bàn tay duỗi bằng nhau. Tiếp theo dùng tay phải: bốn ngón cùng kèm nhau cũng nghiêng ngang, ngửa lòng bàn tay duỗi bằng nhau, đem lưng bàn tay để lên lòng bàn tay trái. Co ngón cái phải nằm ngang trong lòng bàn tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) a để xả dã (4) nhĩ cật-la mê (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ ADHĪŚAYA VIKRAME SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Tề Tam Ma Địa Môn.
NHƯ LAI KIM CANG QUANG DIỆM ẤN_ CHI BỐN MƯƠI SÁU
Dựa theo Tam Ma Địa Ấn lúc trước, chỉ sửa để trên trái tim.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) nhập phạ la (4) bạt nhật la (5) phồn nặc lý (6) nặc-lâm chủ (7)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ _ JVALA-VAJRA PUṆḌRĪ DṚṂH
Này Mật Tích Chủ! Kim Cang Quang Diệm Ấn Chú này cũng gọi là Quá Khứ Vị Lai Hiện Tại Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Quang Diệm Tâm Tam Ma Địa Đại Minh Chú Vương. Hết thảy hàng Chứng Địa Đại Bồ Tát với các Trời, Rồng, tám Bộ Quỷ Thần, bậc có Đại Oai Đức đều không thể trái vượt, huống chi là Si Mỵ, Quỷ Thần thấp kém khác.
NHƯ LAI ĐẠI TỪ ẤN_ CHI BỐN MƯƠI BẢY
Dựa theo Tích Ấn lúc trước. Lại sửa: đè đầu móng ngón giữa, lòi đầu ngón vô danh, đè trên móng ngón cái.
Ta vì hết thảy hữu tình cấu trọng nói Đại Từ Ấn khiến sanh Tâm Từ. Xưa kia, Ta ngồi dưới cây Bồ Đề dùng Tâm Đại Từ trì kết Ấn này thì được các quân Ma tự bỏ chạy. Người kết Ấn này nên dùng hết thảy Phật Lực, Pháp Lực, A La Hán Lực, Từ Niệm Tâm Lực trì kết Ấn này, liền được hết thảy tội dơ cực nặng mau đều tiêu diệt.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) đát địa tha (3) cự nghê ninh (4) áng củ lý, ma lý giả (5) bát-lạt noa xả phạ lý (6) lạc khất sái, lạc khất sái, ma-hồng (7) củ ma lý, thất-lý dã (8) ma lý nê (9) tốt-phạ ha (10)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ
TADYATHĀ: KUGANIN-AṄKULE-MĀLYA PRĀṆA-ŚĀVARĪ, RAKṢA RAKṢA MĀṂ, KUMĀRI-ŚRĪYA MĀLINĪ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đại Từ Lực Chú. Nếu có người trì Chú thường khởi Tâm Từ trì Chú này, tức sẽ chẳng bị hết thảy Tỳ Na Dạ Ca, cọp, sói, oán tặc, đấu tranh, tai nạn, hoạnh can (?), nhiễu não. Do sức của Ấn Chú mau chứng Từ Tâm Tam Ma Địa.
NHƯ LAI ĐẠI BI ẤN_ CHI BỐN MƯƠI TÁM
Lại chắp hai tay lại sao cho lòng bàn tay trống rỗng, co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) đả đăng nghê ninh (4) hổ-hồng, phán (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ TĀTAṂ-GUṆE HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đại Bi Tam Ma Địa Môn.
NHƯ LAI VÔ CẤU ẤN_ CHI BỐN MƯƠI CHÍN
Dựa theo Từ Ấn lúc trước, lại sửa đầu ngón vô danh đè ở dưới ngón cái, tiếp theo, đem đầu ngón út đè trên móng ngón cái.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) mạc lợi đạt-nê (4) hổ lỗ (5) hổ-hồng, phán (6) tốt-phạ ha (7)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ BALI-DĀNE HURU HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ.
Một Ấn Chú này. Người Trí tụng chú vào các thức ăn uống, lại ăn uống vào thì hay diệt mọi tội. Lại sẽ chẳng bị Tỳ Na Dạ Ca trong thức ăn gây não hại
NHƯ LAI
Lại dùng tay phải: đặt ngón cái nằm ngang đè nhóm móng của ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ấn nghê ninh (4) bộ đá ninh (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ AṄGAṆA PŪTANA SVĀHĀ
Một Ấn Chú này hay khiến cho người trì chứng
NHƯ LAI ĐẠI SƯ TỬ HỐNG ẤN_ CHI NĂM MƯƠI MỐT
Chắp tay để ngang trái tim, đem hai ngón cái đều co vào trong lòng bàn tay. Lại đều đem hai ngón trỏ, hai ngón giữa, hai ngón vô danh, hai ngón út co nắm ngón cái làm quyền sao cho lưng móng cùng dính với nhau, tám đầu ngón tay ấy không chạm dính lòng bàn tay.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) ca bỉ la, nhạ trí la (4) hổ-hồng, phán (5)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ KAPILA JAṬILA HŪṂ PHAṬ
Một Ấn Chú này gọi là Đại Sư Tử Hống thành tựu Kim Cang Đảnh Luân Vương Giáo, hay rộng bày các việc vượt qua ý nghĩ chưa từng có chẳng thể nghĩ bàn.
NHƯ LAI TƯỚNG TỰ (chữ của tướng Như Lai) ẤN_ CHI NĂM MƯƠI HAI
Lại dùng hai tay đều duỗi tám ngón mở tách ra, bên phải đè bên trái, cài chéo nhau cùng đè lóng giữa, tám đầu ngón tay duỗi dựng thẳng không chạm khoảng rẽ. Hai ngón cái ấy cũng đều tách nghiêng duỗi dựng sao cho đầu ngón tay cách nhau nửa thốn (1/6 dm). Đem Ấn để ngang ngực dựa khoảng ba thốn (1 dm).
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) thị (3)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ JI
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Đại Trượng Phu Tướng Tam Ma Địa Môn.
NHƯ LAI LẠC CẬT SẮT NHĨ CÁT TƯỜNG ẤN_ CHI NĂM MƯƠI BA
Lại dùng hai tay: hợp dính cổ tay, mười ngón tay ấy đều tách mở, dựng thẳng, hơi duỗi co sao cho đầu ngón đều cách nhau khoảng một thốn rưỡi (1/2 dm)
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) tố một-la khiếm-nhĩ (4) lạc cật sáp nhĩ (5) lạc cật sáp nhĩ (6) tốt-phạ ha (7)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ SU-MṚLIKA LAKṢMI LAKṢMI SVĀHĀ
Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Cát Tường Tam Ma Địa Môn hay khiến cho người trì được Đại Pháp Tài, mọi người kính khen.
NHƯ LAI BÁT NHÃ BA LA MẬT ẤN_ CHI NĂM MƯƠI BỐN
Lại đem hai tay chắp lại sao cho bên trong trống rỗng, như đóa hoa sen chưa nở.
Ấn Chú là:
“Na mạc sai mạn đả (1) bột đà nam (2) Úm-hồng (3) thất lỗ để (4) tắc mật-lật để (5) nhị nhạ duệ (6) tốt-phạ ha (7)”
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ_ ŚRŪTI SMṚTI VIJAYE SVĀHĀ
Này Mật Tích Chủ! Một Ấn Chú này gọi là Như Lai Bát Nhã Ba La Mật Tam Ma Địa Môn. Hết thảy Như Lai, các Đại Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn trong ba đời đều từ Bát Nhã Ba La Mật Ấn Chú Tam Ma Địa Môn này sanh ra, thành chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Địa. Nên biết Ấn Chú này có oai đức lớn, gọi là mẹ của hết thảy Như Lai, các Đại Bồ Tát, tất cả Kim Cang, Độc Giác, Thanh Văn trong ba đời”
_Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Nhóm Ấn Chú này được sanh ra từ tướng Đại Trượng Phu trang nghiêm thân phần chi tiết của Như Lai.
Này ông, Thiện Nam Tử! Như Lai lại có vô lượng cu chi trăm ngàn Chú Ấn, mỗi một Ấn này đều có vô lượng nhóm Ấn Bộc Tòng (tôi tớ) thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Vương này. Nay Ta chỉ vì đời đương lai, khi người thành Chú này thì được lợi ích lớn, nên lược nói chút phần của Ấn Chú này.
Này Mật Tích Chủ! Ở đời sau này, ít có hữu tình thành tựu, hiểu biết cái dụng của Pháp Nghi của Chú Ấn này. Ông nên đọc tụng, y theo Pháp thọ trì nhóm Ấn Chú này, vì hết thảy hữu tình đời đương lai mà phân biệt, giải nói sức gom chứa công của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Bộc Tòng Ấn Chú này.
Nếu Thiện Nam Tử ham thích thành Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này, nên thường thanh khiết luôn tụng Chú này, xoay vần kết Ấn này thì người này được vô lượng trăm ngàn Công Đức đáng khen ngợi, tiêu diệt hết thảy hắc ám cấu chướng, được chư Như Lai, Đại Bồ Tát hoan hỉ thương nhớ, ở nơi sanh ra được Túc Mạng Trí, thân tướng Tâm Trí đều được viên mãn, không có yểu tật, hay làm ánh sáng lớn ban cho hữu tình, hay ở nơi cõi ác (ác giới) độ thoát hữu tình, được Đại Biện Trí, đủ đại tinh tấn, oai đức quang minh quyến thuộc đầy đủ, hiểu rõ hết thảy công xảo của Thế Gian, cũng hay trị cứu bệnh si mê phiền não của hết thảy hữu tình, thường được mười phương hết thảy Như Lai gia bị hộ niệm, hiện được Pháp Thân thanh tịnh của Bồ Tát.
Nếu có người, ngày ngày xoay vần trì kết nhóm Ấn Chú này, tự xưng tên mình, tức sẽ chẳng bị hết thảy Tỳ Na Dạ Ca bức bách quấy nhiễu, hết thảy tội chướng tự nhiên diệt hết. Nếu người ở trong đời này chứng thành Đại Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này, tức đời đương lai, nhất định được chứng Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề Đại Tam Ma Địa.
Này Mật Tích Chủ! Nhóm Ấn Chú này đều là cây đuốc Pháp của Ấn Chú chân thật của hết thảy Như Lai Chủng Tộc. Nay, Thích Ca Mâu Ni Như Lai vì muốn khiến cho người thành tựu Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú mà nói Ấn Chú Tam Ma Địa Môn này.
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
_QUYỂN THỨ BA (Hết)_