LĂNGGIÀA BẠT ĐA LA BỬU KINH
PhápSư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sangHán đời nhà Tống.
ViệtDịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Khiấy, Đại Huệ bồ tát bạch Phật rằng:
-ThếTôn! Cúi xin vì con và các Đại Bồ Tát thuyết tướng TôngThông, khiến con và các đại bồ tát thông đạt tướng này.Thông đạt tướng này rồi thì khéo phân biệt tướng TôngThông, chẳng theo giác tưởng của chúng ma ngoại đạo, chóngthành tựu Vô Thượng
ChánhĐẳng Chánh Giác.
Phậtbảo Đại Huệ:
- Hãychú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
ĐạiHuệ bồ tát bạch Phật rằng:
- Cúixin thọ giáo.
Phậtbảo Đại Huệ:
- Tấtcả Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát có hai thứ tướng thônglà Tông Thông và Thuyết Thông.
- ĐạiHuệ! Nói TÔNG THÔNG, là tướng duyên Tự Đắc Thắng Tiến,xa lìa vọng tưởng ngôn thuyết và văn tự, tiến vào tựtướng Tự Giác Địa của hàng Vô Lậu, xa lìa tất cả giáctưởng hư vọng, hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo,phát huy ánh sáng của Duyên Tự Giác, ấy là tướng Tông Thông.
- Thếnào là tướng THUYẾT THÔNG? Là nói mỗi mỗi giáo pháp trongchín bộ kinh, lìa những tướng khác hay chẳng khác, hữu vàvô v.v.., dùng phương tiện khéo léo tùy thuận căn tánh củachúng sanh mà ứng cơ thuyết pháp, khiến họ được độ thoát,gọi là tướng Thuyết Thông. Đại Huệ! Đối với hai tướngthông này, ngươi và các Bồ Tát cần nên tu học.
Khiấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
TướngTông Thông, Thuyết Thông,
Duyêngiáo pháp tự giác.
Khéophân biệt chánh tà,
Chẳngtheo giác (giác tưởng) ngoại đạo
Nhưphàm phu vọng tưởng,
Chẳngcó tánh chơn thật.
Tạisao vọng chấp cho,
Phitánh là giải thoát?
Quánsát pháp Hữu vi,
Sanhvà diệt tương tục.
Điênđảo Vô Sở Tri,
Tăngtrưởng theo nhị kiến.
ChơnĐế chỉ là một,
NiếtBàn là không lỗị
Quánsát việc thế gian,
Nhưhoa đốm mộng huyễn
Dùcó tham sân si,
Cócũng như mộng huyễn.
Áidục sanh ngũ ấm,
Thânngười vốn chẳng thật.
Khiấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
- ThếTôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng vọng tưởng chẳngthật. Vọng tưởng đã chẳng thật, do đâu mà sanh khởi?Pháp gì gọi là vọng tưởng chẳng thật? Ở trong pháp nàocó vọng tưởng chẳng thật?
Phậtbảo Đại Huệ :
- Lànhthay, lành thay! Ngươi khéo hỏi Như Lai những nghĩa như thế,là thương xót tất cả Trời, Người thế gian, khiến họđược nhiều lợi ích và nhiều an lạc. Hãy chú ý nghe vàkhéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Lànhthay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Mỗimỗi nghĩa lý là mỗi mỗi vọng tưởng chấp trước chẳngthật, dó đó sanh khởi vọng tưởng. Đại Huệ! Người chẳngbiết tự tâm hiện lượng, đọa kiến chấp hữu và vô, chấptrước năng nhiếp sở nhiếp, tăng trưởng kiến chấp củangoại đạo. Do tập khí vọng tưởng, chấp trước đủ thứnghĩa lý của ngoại đạo, đối với pháp Tâm, Tâm số (1)vọng tưởng chấp trước, cho là chỗ nhân duyên sanh khởicủa ngã và ngã sở.
(1)PHÁP TÂM, TÂM SỐ: TÂM là tâm vương, gồm tám thứ thức,chấp cho là ngã. TÂM SỐ gồm năm mươi mốt thứ, như tham,sân, si v.v.. cho là sở hữu của ngã, chấp là ngã sở.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
- ThếTôn! Nếu mỗi mỗi nghĩa lý mỗi mỗi chẳng thật, do tậpkhí vọng tưởng, chấp trước những pháp tâm và tâm sốmà sanh khởi kiến chấp ngã và ngã sở. Thế Tôn! Nếu nhưthế thì mỗi mỗi tướng nghĩa của ngoại đạo, đọa tướnghữu và vô, lìa tướng thấy, lìa tánh phi tánh. Thế Tôn!Đệ Nhất Nghĩa cũng thế, lìa tướng nhân căn lượng thídụ phân biệt. Thế Tôn! Tại sao chỉ có một chỗ nghĩa vọngtưởng chẳng thật của ngoại đạo thì mỗi mỗi tánh vọngtưởng chấp trước sanh, mà chấp trước chỗ Đệ Nhất Nghĩathì vọng tưởng bất sanh? Nói một sanh (ngoại đạo), mộtbất sanh (Phật), há chẳng phải Thế Tôn thuyết tà Nhân Luậnư?
Phậtbảo Đại Huệ :
- Chẳngphải vọng tưởng một sanh một bất sanh. Tại sao? Vì bậcThánh vọng tưởng hữu vô bất sanh, nên ngoài hiện tánh phitánh, do giác được tự tâm hiện lượng mà vọng tưởngbất sanh. Đại Huệ! Ta nói mỗi tướng vọng tưởng tự tâmcủa phàm phu, vì trước kia đã tạo nghiệp chấp trước phânbiệt, nên mỗi mỗi tánh tướng vọng tưởng sanh. Nay muốnkhiến phàm phu ngộ pháp vốn Vô Sanh, phải lìa kiến chấpngã và ngã sở, lìa kiến chấp vọng tưởng năm pháp tựtánh, thì thân tâm chuyển biến, thấu rõ cảnh giới CứuCánh Nhất Thiết Địa của Như Lai tự giác, do nhân duyênnày nên ta nói vọng tưởng từ chấp trước mỗi nghĩa chẳngthật mà sanh. Nếu ngộ nghĩa như thật thì chẳng sanh, màđược giải thoát mỗi mỗi vọng tưởng của tự tâm.
Khiấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Từnhân duyên hữu vô,
Màsanh khởi thế gian.
Vongtưởng chấp Tứ cú,
Chẳngrõ Thuyết Thông ta
Thếgian chẳng hữu sanh,
Cũngchẳng phải vô sanh.
Chẳngtừ hữu, vô sanh,
Cũngchẳng phi hữu vô.
Tạisao những phàm phu,
Vọngtưởng chấp nhân duyên.
Tấtcả pháp Vô Sanh,
Donhân duyên có sanh.
Phihữu cũng phi vô,
Cũngchẳng phải hữu vô.
Quánthế gian như thế,
Chuyểntâm đắc Vô Ngã.
Tấtcả duyên sở tác,
Sởtác chẳng tự có.
Việcchẳng tự sanh việc,
Vìcó lỗi hai việc.
Nếuchẳng lỗi hai việc,
Thìchẳng tánh để đắc.
Quáncác pháp Hữu Vi,
Lìanăng duyên sở duyên.
Tâmlượng của vô tâm,
Tanói là tâm lượng.
Nơitự tánh nói lượng,
Nhânduyên thảy đều lìa.
Tựtánh vốn trong sạch,
Tagọi là tâm lượng
Phươngtiện lập tục đế,
Bổnlai chẳng sự thật,
Phươngtiện lập ngũ ấm,
Chẳngthật cũng như thế.
Cóbốn thứ bình đẳng :
Tướngvô tướng bình đẳng,
Sanhvô sanh bình đẳng,
Ngãvô ngã bình đẳng,
Tusở tu bình đẳng.
Vọngtưởng tập khí chuyển,
Cómỗi mỗi tâm sanh.
Cảnhgiới hiện bên ngoài,
Làtâm lượng thế tục.
Ngoàihiện vốn chẳng có,
Tâmlại thấy đủ thứ.
Dokiến lập thân tài,
Tanói là Tâm Lượng.
Lìatất cả kiến chấp,
Năngtưởng và sở tưởng.
Vôđắc cũng Vô sanh,
Tanói là Tâm Lượng.
Phitánh chẳng phi tánh,
Tánhphi tánh đều lìa.
Nơitâm được giải thoát,
Tanói là Tâm Lượng.
Nhưnhư với hư không,
Niếtbàn và pháp giới
Mỗimỗi ý sanh thân,
Tanói là Tâm Lượng.