Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Song Ngữ: Kinh AN 6.16: Lời người vợ khi chồng cận tử / A wife's words when her husband is near death

22/10/202407:47(Xem: 378)
Song Ngữ: Kinh AN 6.16: Lời người vợ khi chồng cận tử / A wife's words when her husband is near death

Phat thuyet phap-2

Song Ngữ: Kinh AN 6.16:
Lời người vợ khi chồng cận tử 
A wife's words when her husband is near death




Kinh AN 6.16: Nữ cư sĩ dặn dò khi chồng bệnh liệt giường, cơ nguy từ trần.


Kinh AN 6.16 nơi đây được viết lại cho dễ hiểu. Dựa trên bản tiếng Việt của Thầy Minh Châu và hai bản tiếng Anh của Bhikkhu Sujato và Thanissaro Bhikkhu.

Kinh này ghi lời của mẹ Nakula, nói với cha của Nakula đang nằm bệnh liệt giường, cơ nguy cận tử.
 
Một thời, Thế Tôn trú ở vườn Lộc Uyển. Cha và mẹ của Nakula đều là cư sĩ, học trò của Đức Phật. Lúc bấy giờ, cha của Nakula bị bệnh nguy ngập. Mẹ của Nakula nói với cha của Nakula như sau.
 
--- Thưa anh, đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cấu ái luyến. Anh có thể suy nghĩ rằng, vợ của mình, mẹ của Nakula, sẽ không có thể nuôi các con và giữ được nhà. Thưa anh, anh đừng lo vậy. Em khéo dệt vải và chải lông cừu. Sau khi anh từ trần, em có thể nuôi các con và giữ được nhà. Anh đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cầu ái luyến.
   
Thưa anh, anh có thể suy nghĩ rằng sau khi anh từ trần, em sẽ lập gia đình khác. Anh đừng suy nghĩ như vậy, vì 16 năm qua anh và em sống hạnh trong sạch. Tương lai, em cũng giữ hạnh trong sạch. Anh đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cầu ái luyến.
 
Thưa anh, anh có thể suy nghĩ rằng sau khi anh từ trần, em sẽ không còn muốn tới gặp Đức Phật và chúng tăng. Anh đừng suy nghĩ như vậy. Sau khi anh từ trần, xem sẽ muốn tới gặp Đức Phật và chúng tăng nhiều hơn. Anh đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cầu ái luyến.
 
Thưa anh, anh có thể suy nghĩ rằng sau khi anh từ trần, em sẽ không giữ giới đầy đủ nữa. Anh đừng suy nghĩ như vậy. Khi nào các nữ đệ tử cư sĩ áo trắng của Đức Phật còn giữ giới luật đầy đủ, em sẽ là một trong những người đó. Anh đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cầu ái luyến.
 
Thưa anh, anh có thể suy nghĩ rằng sau khi anh từ trần, em sẽ không chứng được nội tâm tịch lặng. Anh đừng suy nghĩ như vậy. Khi nào các nữ đệ tử cư sĩ áo trắng của Đức Phật còn chứng được nội tâm tịch lặng, em sẽ là một trong những người đó. Anh đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cầu ái luyến.
 
Thưa anh, anh có thể suy nghĩ rằng sau khi anh từ trần, trong Pháp và Luật này, em sẽ không thể nhập được, không an trú được, không vượt khỏi nghi, không đạt vô úy, còn phải nhờ người khác giảng dạy. Anh đừng suy nghĩ như vậy. Khi nào các nữ đệ tử cư sĩ áo trắng của Đức Phật trong Pháp và Luật này, còn thể nhập được, an trú được, vượt nghi, rời do dự, đạt vô úy, không nhờ người khác để sống theo lời Phật dạy, em sẽ là một trong những người ấy. Anh đừng từ trần với tâm còn mong cầu ái luyến. Như thế sẽ đau khổ. Thế Tôn quở trách người khi từ trần còn mong cầu ái luyến. Nếu có ai có nghi ngờ lời em nói, người ấy hãy đi đến gặp Thế Tôn và hỏi.
 
Sau khi cha của Nakula được mẹ của Nakula dặn dò với lời giáo giới này, bệnh liền dịu lại và biến mất. Rồi cha của Nakula sau khi lành bệnh một thời gian ngắn, chống gậy đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với cha của Nakula:
 
---- Này nam cư sĩ, cha của Nakula, thật lợi ích cho ông, khi được nữ cư sĩ, mẹ của Nakula, khuyên dạy ông như thế. Khi nào Ta còn các nữ đệ tử cư sĩ áo trắng giữ giới luật viên mãn, chứng được nội tâm tịch lặng, trong Pháp và Luật này đạt được thể nhập, an trú, thoải mái, rời nghi hoặc, hết do dự, đạt vô úy, không còn phải nhờ người khác giảng, thì mẹ của Nakula là một trong những người đó.
   
(Nguồn: Kinh AN 6.16: https://suttacentral.net/an6.16/vi/minh_chau)

Video dài 4:45 phút:







Phat thuyet phap 9

AN 6.16 Sutta: A laywoman offered advice while her husband was bedridden and in critical condition.

The following text is AN 6.16 Sutta, rewritten for ease of understanding, based on the Vietnamese version by Master Minh Châu and two English versions by Bhikkhu Sujato and Thanissaro Bhikkhu.

This Sutta records the words of Nakula's mother as she speaks to Nakula's father, who is bedridden and in danger of death.
 
At one time, the Buddha was residing in the Deer Park. Nakula's parents were both lay followers and disciples of the Buddha. There was a time when Nakula's father was gravely ill. Nakula's mother spoke to him, saying the following:
 
---- Please do not pass away with a troubled mind, as this will lead to suffering. The Blessed One admonished those who departed with attachment. You may be concerned that your wife, Nakula's mother, will struggle to care for the children and maintain the household. Please do not worry. I am skilled in weaving and carding wool. After your passing, I will be able to provide for the children and manage the home. Do not leave this world with a worried mind, as it will only lead to suffering. The Blessed One admonished those who departed with attachment.
 
You may believe that after you pass away, I will remarry. Please do not think this way, as for the past 16 years, you and I have shared a pure life together. In the future, I will continue to uphold this purity. Do not leave this world with a troubled mind, as it will only lead to suffering. The Buddha admonished those who, at the time of their passing, still clung to desires and attachments.

You may believe that after you pass away, I will no longer wish to see the Buddha and the Sangha. Please do not think this way. After your passing, my desire to see the Buddha and the Sangha will only grow stronger. Do not depart with a troubled mind, as this will lead to suffering. The Buddha admonished those who, at the time of their passing, still clung to desires and attachments.
 
You may believe that after you pass away, I will not fully adhere to the precepts. Please do not think this way. As long as the white-robed female lay disciples of the Buddha continue to uphold the precepts, I will be among them. Do not depart with a troubled mind, as this will lead to suffering. The Buddha admonished those who, at the time of their passing, still harbor desires and attachments.
 
You may believe that after you pass away, I will not achieve inner peace. Please do not think this way. As long as the white-robed female lay disciples of the Buddha attain inner peace, I will be among them. Do not depart with a troubled mind, as this will lead to suffering. The Buddha admonished those who, at the time of their passing, still harbor desires and attachments.
 
You may believe that after you pass away, I will be unable to practice, abide, overcome doubt, attain fearlessness, and will have to depend on others for guidance. Do not think this way. Just as the white-robed female lay disciples of the Buddha in this Dharma and Vinaya can still enter, abide, overcome doubt, dispel hesitation, attain fearlessness, and live according to the Buddha's teachings without relying on others, I will be one of them. Do not depart with a troubled mind, as this will lead to suffering. The Buddha admonished those who, at the time of their passing, still clung to desires and attachments. If anyone has doubts about what I have said, let them go to the Buddha and inquire.
 
After Nakula's father received guidance from Nakula's mother, his illness subsided and eventually disappeared. Once he had recovered, Nakula's father leaned on his staff, approached the Blessed One, paid his respects, and took a seat to one side. The Blessed One then addressed Nakula's father:
 
---- Layman, Nakula's father, it is advantageous for you that the laywoman, Nakula's mother, has offered you this advice. As long as I have white-robed female lay disciples who are exemplary in the precepts, who have achieved inner tranquility, who possess penetration, stability, and ease in this Dhamma and Vinaya, who are free from doubt and hesitation, and who have attained fearlessness—who no longer require others to provide explanations—Nakula's mother will be among them.
 


Video dài 4:57 phút:
 
.... o .... 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/02/2011(Xem: 9252)
1) Đối với các Thiền Sư thời Lý-Trần, sự ứng dụng tâm thức tu hành với những giáo lý Đức Phật truyền dạy là một. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, Đức Phật khai thị về không gian: "Mười phương thế giới đồng nhất thể." Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật mở bày ý niệm về thời gian: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vi lai tâm bất khả đắc."
30/01/2011(Xem: 15293)
Rõ ràng hơi thở là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Nói khác đi, ta có thể dùng quán sát hơi thở để kiểm soát cảm xúc và hành vi của ta.
20/01/2011(Xem: 4432)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
08/01/2011(Xem: 4526)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 9510)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 13636)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 14117)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 14440)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 5292)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]