Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Tâm

26/01/201805:55(Xem: 5708)
Thiền Tâm

Phat_thanh_dao

Thiền Tâm
Lê Huy Trứ



Contents
Tâm Điểm
Thầy Muốn Điểm Tâm Nào?
Tâm là gì?




Tâm Điểm

 
Tu thiền chỉ xuay quanh một điểm tâm mà chỉ có những bật tu hành một thời gian dài, và đạt được giác ngộ mới vào được tâm điểm.
 
Tôi xin lưu ý, vì những câu chuyện về tâm của Phật Giáo Đại Thừa dưới này quá phổ thông nhiều người thuật lại, thêm mắm thêm muối, tam sao thất bổn, đem râu ông ni cắm càm bà nớ nên tôi không biết chắc là Phật copied Tổ, Tàu đã đạo văn Nhật (Dr. Suzuki), Tàu đã ăn trộm của Tàu, Việt chơm chỉa từ Tàu, Ấn Độ, Nhật, Tây rồi thì mạnh ai nấy vãi tùm lum trên internet làm cho tam thế Phật oan?
 
Tương tự, 2 câu nổ như sấm trong bài kệ 4 câu của Thiền tông dưới đây mà mọi người đổ oan cho Đạt Ma Lão Tổ “noái,”
 
Chỉ thẳng thật tâm, thấy tánh thành Phật!”  
 
Ngài là người Hồ tóc đỏ ngồi diện bích tham thiền 9 năm trên núi Thiếu Thất, trong thiếu lâm tự vì không noái một tiếng Tàu thì noái hồi mô mà noái là ôn nớ noái?
 
Tương truyền do Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ và là tổ đầu tiên của Thiền tông Trung quốc, dạy:
 
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ chân tâm
Kiến tánh thành Phật
 
*
Special transmission outside the scriptures
Not founded upon words and letters;
By pointing directly to [one's] mind
It lets one see into [one's own true] nature and [thus] attain Buddhahood
 
4 câu kệ ở trên được viết vào năm 1108, không phải của Đạt Ma Sư Tổ nói mà chỉ là khái niệm diễn tả về yếu chỉ của thiền.
 
 
This concept relates to Bodhidharma's original depiction of Zen:
A special transmission outside the scriptures; (教外別傳)
No dependence upon words and letters; (不立文字)
Direct pointing to the human mind; (直指人心)
Seeing into one's own nature and attaining Buddhahood. (見性成佛)”  Albert Welter, The Disputed Place of "A Special Transmission," Outside the Scriptures in Ch'an. Access date June 23, 2006
 
Trong sách “ Ba Mươi Hai Vị Tổ Ấn Hoa”, mục Ma Ha Ca Diếp (Mahākā śyapa), Hòa thượng Trúc Lâm viết:
 
“ Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có Ngài [Mahākā śyapa] đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu).
 
Phật bảo:
 
– Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A Nan. Thế-Tôn đến trước tháp Đa Tử gọi Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa) đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-già-lê quấn vào mình Ca Diếp, rồi nói kệ phó pháp:
 
Pháp bổn pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
 
Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay khi trao không pháp
Mỗi pháp đâu từng pháp.”
 
Thiền Tông đã có một câu chuyện rất nổi tiếng về công án tâm điểm của thời gian này mà từ tiền nhân cho đến bây giờ vẫn chưa mấy ai hoàn toàn điểm trúng cái tâm này.
 
Như đa số những người khác, tôi đã đọc những câu chuyện dưới đây nhiều lần rồi nhưng mỗi lần tôi đọc lại tôi lại hiểu mỗi khác tùy vào tâm trạng của tôi lúc ấy như thế nào?
 
Trong kinh Kim Cang, Phật dạy, "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là "tâm." Tại sao vậy? Vì tâm quá khứ tìm không được, tâm hiện tại tìm không được, tâm vị lai cũng tìm không được."
 
Rồi thì chuyện của Ngài Huệ Khả (Nhị Tổ) và Tổ Đạt Ma (Sư Tổ) dưới đây cũng tương tự như trên không biết Phật mượn ý Tổ hay tam thế Phật oan?
 
Thuở xưa, Ngài Huệ Khả (Nhị Tổ) đến cầu Tổ Đạt Ma (Sư Tổ) về pháp an tâm.
 
Tổ Đạt ma hỏi: "Ông đến đây để làm gì?"
 
Ngài Huệ Khả thưa: "Bạch Tổ Sư ! Con đến đây để cầu pháp an tâm."
 
Tổ Đạt Ma hỏi: "Quá khứ tâm bất đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, vậy ông muốn an cái tâm nào?"
 
Ngài huệ Khả thưa: "Trong ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) con tìm tâm đều không thể được."
 
Tổ Đạt Ma dạy: "Ta đã an tâm cho ông rồi."
 
Ngài Huệ Khả liền tỏ ngộ.
 
Trong Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20, HT Thích Thanh Từ, 1998, tr. 46-61 giảng dạy:
 
Chỗ biết được đường vào của ngài Huệ Khả là một pháp tu mà không có pháp. Bởi vì từ xưa đến nay, tất cả chúng ta đều nhận cái suy nghĩ phân biệt lăng xăng là tâm của mình, ngài Huệ Khả cũng chung một thông lệ ấy. Cho nên ngồi lại tu, muốn cho tâm an mà nó không chịu an, khiến chúng ta rất khổ sở về vấn đề này.
 
Cầu pháp an tâm là điều cấp thiết của người quyết chí tu hành. Ở đây Tổ Đạt-ma không dạy phương pháp gì, ngài chỉ bảo “Đem tâm ra ta an cho.” Câu này là một tiếng sấm dẹp tan mê lầm muôn thuở của ngài Huệ Khả.
 
Rõ ràng pháp an tâm mà không có pháp, chỉ xoay ánh sáng trí tuệ soi rọi xem cái tâm bất an ấy thế nào thì nó biến mất.
Thuật ngữ nhà Thiền gọi là “Hồi quang phản chiếu.”
 
Chúng tôi gọi “Biết vọng không theo.”
 
Chính đây là “Biết được đường vào” của ngài Huệ Khả.
 
“Biết đường vào” chưa phải là kẻ đến nhà, phải trải thời gian lâu xa, ngài Huệ Khả mới bạch với Tổ Đạt-ma: “Từ đây trở đi con dứt hết các duyên.”
 
Tổ Đạt-ma bảo: “Chớ rơi vào đoạn diệt.”
 
Huệ Khả thưa: “Không rơi!”
 
Tổ Đạt-ma hỏi: “Con làm thế nào?”
 
Huệ Khả thưa: “Con thường biết rõ ràng, nói không thể đến.”
 
Tổ Đạt-ma dạy: “Đây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên hoài nghi.”
 
Đến đây mới thật là người về tới nhà, không còn nghi ngờ gì nữa.
 
Khi Tổ Đạt-ma sắp tịch,  hỏi lại chỗ sở ngộ của các đồ đệ, đến lượt Huệ Khả, Ngài chỉ bước ra đảnh lễ ba lạy rồi lui.
 
Tổ Đạt-ma nói: “Ông được phần tủy của ta.”
 
Đến chỗ cứu kính không còn ngôn ngữ để trình bày, vì ngôn ngữ là phương tiện tương đối, không thể diễn tả được cái chân thật tuyệt đối.
 
Từ đó ngài Huệ Khả được truyền y bát làm Tổ thứ hai ở Trung Hoa.”
 

Thầy Muốn Điểm Tâm Nào? 

 
Trong chuyện Thiền Tông rất phổ thông, Thầy Muốn Điểm Tâm Nào?  Thuật lại về chuyện một bà già bán điểm tâm bên đường gặp sư Đức Sơn Tuyên Giám dưới đây.
  
Sư họ Chu, quê ở Kiến Nam, Giản Châu, xuất gia lúc 20 tuổi. Sư thông Luật tạng và các bộ kinh, luận. Vì thường giảng Kim cang bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh nên người đời gọi sư là Chu Kim Cang. Nghe Nam phương Thiền tông thịnh hành sư bất bình nói:
“Kẻ xuất gia muôn kiếp học uy nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật. Những tên ma con ở phương Nam dám nói ‘Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.’ Ta phải quét sạch tận hang ổ của chúng, diệt hết bọn ma quái để đền ân Phật.”
 
Sư bèn khăn gói lên đường, mang theo bộ Thanh Long sớ sao tới Lễ Châu. Trên đường, sư gặp một bà già bán bánh rán, bảo bà lấy ít bánh ăn điểm tâm.
 
Bà chỉ cái gánh của sư hỏi: “Gói này là cái gì ?”
 
Sư trả lời: “Thanh Long sớ sao.”
 
Bà nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp không được, mời thầy đi nơi khác.”
 
Sư tự tin đồng ý, bà liền hỏi: “Trong kinh Kim cang có nói: Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, vậy Thầy muốn điểm tâm nào?”
 
Sư lặng thinh, không đáp được, lặng lẽ bỏ đi. Bà già gọi lại, chỉ sư đến tham vấn Thiền sư Long Đàm Sùng Tín.
 
Vừa tới cửa Long Đàm, sư liền nói:
“Nghe danh Long Đàm đã lâu, nay đến đây, đầm (đàm) cũng chẳng thấy, rồng (long) cũng chẳng hiện.”
 
Long Đàm bước ra, nói: “Ngươi đã tới Long Đàm rồi.”
 
Sư không đáp được, liền dừng lại đây học hỏi thêm. Một đêm, sư đứng hầu.
 
Long Đàm bảo: “Đêm khuya rồi sao chẳng xuống nghỉ ?”
 
Sư kính chào bước ra, lại trở vào thưa: “Bên ngoài tối đen.”
 
Long Đàm thắp đèn đưa sư. Sư toan tiếp lấy, Long Đàm liền thổi tắt.
 
Sư bỗng nhiên đại ngộ, tất cả kiến chấp đều tan vỡ, quỳ xuống lễ bái.
 
Long Đàm hỏi: “Ngươi thấy gì?”
 
Sư thưa: “Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư Hoà thượng trong thiên hạ.”
 
Hôm sau Long Đàm thượng đường bảo chúng: “Trong chúng đây có một gã răng như kiếm bén, miệng tợ chậu máu, đánh một gậy chẳng ngó lại, khi khác y lên ngọn núi cao vút, dựng lập đạo tràng truyền pháp của ta.”
 
Sư đem bộ sớ sao ra chất đống nổi lửa đốt và nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền như một sợi lông ném trong hư không; hết sạch các trọng yếu trong đời như một giọt nước rơi vào hồ lớn.”
 
Sư lễ tạ từ Long Đàm rồi đi du phương.
 
Sau khi khai ngộ, Sư nhận ra phải dụng công phu mới có thể thực sự hiểu được Pháp tạng. Nếu không chân chánh dụng công, mà thay vào đó chỉ nói Thiền ngoài miệng, dù có thể nói nhiều cũng chỉ là hời hợt, ở ngoài cửa Không, không bao giờ thấm nhuần được đạo lý chân chánh trong Kinh.”
 
Theo tôi, bà lão bán điểm tâm bên đường này có thể là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân, biến ra cái quán bên đường để điểm tâm cho Sư họ Chu, hay đây chỉ là câu chuyện ngụ ngôn đầy thiền tánh tuy rất đơn giản nhưng cao siêu của thiền tông để dạy sư họ Chu bài học vô ngã, không nên trì trọng vào kinh điển để bị kinh trì. 
 
Không nên ngạo mạn tưởng mình là cao tăng dám đi tới đất linh để dạy cao nhân trong khi đó trí tuệ của mình còn thua xa bà lão bán điểm tâm tầm thường bên đường trong lãnh thổ của thiền tông.
 
Trở lại chủ đề điểm tâm ở trên, có thể vì còn bình minh, sao mai chưa mọc, Sư vừa mới thức dậy, còn ngái ngũ chưa có càfe/trà mở mắt, bụng thì đói, cần phải “ăn điểm tâm” dằn bụng nhưng vì tâm lòng kim cương còn chưa tỉnh tĩnh nên vô minh lẫn bụng đói, nhứt đầu, tay run, mắt mờ không thấy rõ tâm điểm để điểm tâm nên không thể điểm tâm...chùa.
 
Thật ra cả ba chỉ là “nhất điểm tâm.”  Cứ nhắm mắt mà điểm đại thì trúng ngay “nhất điểm không.”
 
Tóm lại, theo thiển ý, Tâm bất nhị không có tâm điểm để điểm tâm.  Tâm bất nhị là nhất điểm tâm.  Tâm bất nhị là vô điểm tâm.  Mà nhất điểm tâm và vô điểm tâm chỉ là một thể.  Hay vô điểm tâm và nhất điểm tâm không là độc tâm hay không tâm mà là bất nhị nguyên tâm.
 
Tâm bất nhị (vô sanh) không biết gì về tánh nhị nguyên để tạo ra vạn vật.  Cho nên, vạn vật do “tâm vô sanh” tạo ra có thể không hoàn toàn đúng? 
 
Nhưng hình như vũ trụ, vô lượng vật chất lẫn phi vật chất, từ tâm nhị nguyên tưởng tượng như vậy?
 
Hay, có thể nhân sinh bận tâm, phiền não, nhứt đầu, và điên cái đầu đều do “hai phần trái phải đối xứng” của não bộ nhị nguyên suy tưởng rồi lên máu, sôi sục mà ra.
 
Người bình thường muốn kiến tánh được những điều quái dị khó bàn luận này thì phải một là ngộ hay là điên mới ... cười mỉm chi.
 
Khái niệm lạ trên này có thể không hoàn toàn đúng, đúng không?
 

Tâm là gì?

 
Trong Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, trong Duy Lực Thiền, 23/08/2017, Truyền Bình viết:
 
“Trong bài này, chúng ta sẽ khảo sát câu nói trong Kinh Kim Cang có ý nghĩa gì?
 
 “Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc.”
 
Trước hết cần hiểu Tâm là gì? Tâm được mô tả rõ ràng nhất trong Duy Thức Học Phật giáo. Tâm (Citta) bao gồm 8 thức : Thấy, Nghe, Ngửi, Nếm, Tiếp xúc thân thể, Ý thức, Mạt-na thức (Manas) và A-lại-da thức (Alaya). Cơ chế hoạt động của tâm bao gồm 18 giới (lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, não bộ; lục trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; lục thức: thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc thân thể, ý thức). Tất cả mọi dữ liệu (data) hoạt động của 18 giới được chất chứa trong Manas, đó là cái ta của mỗi chúng sinh. Dữ liệu của tất cả manas được chất chứa trong một cái kho cực lớn gọi là Tàng thức hay A-lại-da thức (Alaya), đó là Tâm.
 
Như vậy Tâm là toàn bộ dữ liệu của Tam giới. Cái vũ trụ mênh mông mà chúng ta đang sống trong đó chỉ là một phần nhỏ của Tam giới.
 
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất thiết duy tâm tạo” nghĩa là tất cả mọi cảnh giới, trong thế gian hay ngoài thế gian, trong vũ trụ đều là do tâm tưởng.  Dĩ nhiên, Einstein và rất nhiều người không thấy như vậy với nhục nhãn và cái não chấp nhị nguyên của họ.
 
Ông ta biện luận, nếu tôi nhìn không mặt trăng nữa thì nó không còn có đó?
 
Mà thật như vậy, khoa học hiện đại đã chứng minh, đúng như lời kinh xưa ghi lại, Đức Phật quán thấy vi mô, vĩ mô, và ngũ uẩn giai không, thấy thật như vậy, khi các khoa học gia quan sát/không quan sát những bản chất có/không với tính thông minh của hạt (particles) và sóng (waves). 
 
Khoa học gia chỉ chứng nghiệm qua quan sát nhưng không thể giải thích được tại sao khi họ cố tình quan sát thì sóng (waves) biến thành hạt (particles).  Nhưng khi lơ là không nhìn thì hạt trở thành sóng?
 
Nếu họ nghiên cứu một tí Phật Pháp thì sáng tỏ ngay:
 
Sắc (hạt, vật chất, matters, particles) từ Không (sóng, vô sắc tướng, waves, emptiness) mà có.   Khi cố tâm tìm sắc thì nó hiện hữu nhưng khi không cố tình tìm thì nó hoàn không, trở lại cái bản tánh nguyên thủy của nó là Không (vô, emptiness).  Điều này đã chứng minh là vạn vật do tâm tạo. 
 
Những cái tiểu tâm này có tính linh, thông minh.  Nó có thể liên hệ, nói chuyện với nhau trong đại tâm linh.  Tất cả cũng chỉ là một.
 
Cái nguyên lý tự nhiên của vũ trụ này không những xảy ra trong thế giới vi mô mà nó cũng áp dụng cho cả thế giới vĩ mô, và ngay cả như thị trong cõi tâm linh mà khoa học đang dậm chân tại chỗ vì khoa học chưa có đầy đủ trí tuệ để khám phá được cái mà họ vô minh gọi đó là huyền bí này.
 
Ý nghĩa này còn được diễn tả trong câu: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” nghĩa là Tam Giới đều là tâm, tất cả các pháp đều là thức.  Tất cả mọi sắc giới đều chỉ là thông tin (information) từ cái Alaya database.
 
Trong những kinh điển Pali, nền tảng nguyên thủy của tất cả kinh điển Đại Thừa, Nguyệt Xứng (Chandrakirti), trong Prasannapadà Madhyamakavrti, trang 45, có trích đoạn kinh Ratnakùta sau đây nói về cái tâm bất khả này: “Khi ta tìm kỉếm cái tâm thì ta không thể nhận ra cái tâm; cái mà ta không thể nhận ra được thì ta không thể cho rằng nó có thực; cái mà ta không nhận có thực thì cái đó không phải là quá khứ, không phải tương lai và cũng không phải hiện tại; cái không phải quá khứ, tương lai và cũng không phải hiện tại thì cái ấy không tự có bản tính; cái không tự có bản tính thì cái đó không phát khởi; cái không phát khởi thì không có tiêu diệt” (Cittamahi pa rigavesya-mànam na labhyate yam na labhyate tan nopa-labhyate yan nopalabhyate tan naivàtìtamnànàgatam na pratyutpannam yam naivàtitam nànàgatam na pratyutpannam, tasya nàsti svabhàvah. Yasya nàsti svabhàvas tasya nàstyutpàdah yasya nàstyutpàdas tasya nàsti nirodha iti vistarah). (Mervyn Sprung Lucid Exposition of the Middle Way,  1979, trang 46; Th. StcherbaLsky, The Conception of Buddhist Nirvana, 1977, trang 134).
 
Trong pháp luận của Candrakìrti này, những danh từ  “citta” bao gồm cả tơ tưởng, tư tưởng, xúc động tình cảm, cả hai mặt tình cảm và lý trí, ý thức linh động hằng chuyển, “mano” thì có tính cách lý luận trí thức, và “vinnàna” có tính cách trực nhận của giác cảm, được chúng ta hiểu nhầm là đồng nghĩa với nhau (ti cetas cittam mano vijnànamiti tasyaiva paryàyah, trang 303).   
 
Điều này cho thấy, có thể Ngài cũng chưa nắm chắc được tâm cho nên khi thì gọi nó là tâm, khi thì lòng, khi là hồn?  Chó, mèo, trâu, ngựa, người, ma, phật lẫn lộn không có được một căn cước (ID, cái ngã) nhất định? 
 
Những định nghĩa ở trên về Tâm cũng không khác gì những triết luận gia mù khác định nghĩa về con voi ảo tưởng.  Danh không trúng nên ngôn không chỉnh!
 
Tóm lại, Kinh Kim Cang đã trực chỉ nhân tâm, nói lên một thực tế phủ phàng mà nhân sinh vẫn tâm tư, hoài công tìm kiếm ngay cả trước khi Đức Thích Ca tái sinh cho đến bây giờ, đó là tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc, nghĩa là không có thật, mọi sắc giới đều do tâm tưởng tượng mà ra.  Không có chuyện cảnh giới hiện tại khác về bản chất với cảnh giới quá khứ hay vị lai. Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai cũng chỉ là một thứ cá mè một lứa như nhau và đều chỉ là ảo tưởng không phải thật. 
 
Mà đã chấp nhận là nó không có thật rồi thì tại sao chúng ta cứ dài dòng văn tự, lẫm cẫm chia tâm thành ba thì, không gian thời gian, ở ngay lúc này đây để làm gì ... bây giờ đây?
 
Hiện nay vẫn có đa số trí thức cũng vẫn mê muội như Sartre, cho rằng chỉ có hiện tại là Phật, còn quá khứ, vị lai, là Ma, đó là một thứ nhận thức ấu trĩ, vô minh, mà cố Hòa Thượng Duy Lực đã quở trách rằng họ không hiểu Phật pháp, cũng không biết khoa học, lẫn triết lý nhân sinh.
 
Định nghĩa về Tâm của Duy Thức Học Phật Giáo ở trên tuy hấp dẫn nhưng rất khó hiểu cho đa số những người bình thường như chúng ta.
 
Hơn nữa,  không phải ai ai từ Đông lẫn Tây cũng điều đồng ý với cái chủ quan ở trên, đó là, “Tâm được mô tả rõ ràng nhất trong Duy Thức Học Phật giáo.
 
Dĩ nhiên, những học giả, những tôn giáo, và Phật Giáo kinh điển khác cũng đã định nghĩa và luận rất chi tiếc dài dòng về tâm. Nhưng càng đọc nhiều về những suy luận từ tâm tưởng này càng làm cho chúng ta thêm rối trí, đau tim chứ chả ai thật sự hiểu tâm là cái chi chi?
 
Phạm Công Thiện viết, “Người khám phá đầu tiên và cuối cùng tất cả tinh thể bí mật của “Tâm” (Psyché) trong suốt dòng Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Tây phương gần 2.500 năm, đó là tư tưởng gia bí mật nhất của Tây phương Héraclite. Chỉ có hai câu sau đây thôi của Héraclite cũng đủ xô đẩy tất cả tâm lý học, phân tâm học, tâm bệnh học, vân vân, rơi kẹt vào tuyệt lộ.” 
 
Cái Tâm (Psyché, tâm Phật) có cái Tính (Lógos hiểu theo Héraclite, tức là đồng nghĩa với Trí Tuệ Bát Nhã) tự huân trưởng lên” (câu thứ 115).
  
Người không thể bao giờ tìm thấy được những sự tận cùng của Tâm (Psyché, Bồ Đề Tâm), dù người có đi tìm kiếm khắp mọi nẻo đường cái Tính (Lógos, bản lai) của Tâm (Psyché) thì quả là hố sâu của đoạn kiến. (câu thứ 45, sắp loại theo Diels) ”
 
Chữ “Psychologie” xuất phát từ chữ “Psyché” và “Lógos”.
 
Muốn hiểu nổi hai câu trên của Héraclite thì phải bỏ ra ít nhất hai chục năm để học Triết lý Tây phương và phải đốt hết tất cả những quyển sách về Tâm lý học và Triết học và Luận lý học.” (Bước Chân Thứ Hai Đảo Ngược Trở Về Sự Im Lặng. Sự Chuyễn Động Toàn Diện Của Tâm Thức Trong Ánh Sáng Bất Tận Của Phật A Di Đà, Phạm Công Thiện)
 
Thoát nhiên đốn ngộ, một trạng thái nổ bùng của tâm thức, một sự thông thì vạn sự điều thông, tất cả xảy ra trong khoảng khắc như bị điện giựt, ngoài sức tưởng tượng và kiểm soát của chúng ta. 
 
Trí tuệ không cần học mà tự có.  Chân lý tự nó có tánh thuyết phục.  Khi còn vô minh thì dù cho có bỏ ra suốt kiếp cũng khó mà giác ngộ được.  Triết lý Tây Phương bây giờ đã vô dụng chỉ dành cho những triết gia của viện tâm thần. Trong thời đại văn minh kỷ thuật bây giờ, may phước, chúng ta không còn thấy những “gàn triết gia” này chạy đầy đường trên thế giới.
 
Hai câu trên của cái ông Héraclite, “vô danh” đối với số đông nhân loại, không có gì cao siêu để dựng lên, để tôn sùng, và mất công tới hai chục năm để học triết lý tây phương họa ra hiểu được cái ông ta không hiểu nổi, 2500 năm về trước.  Thay vì, chúng ta có thể tìm thấy cái bí tỉ của Héraclite trong vài giây trên internet, và cũng đọc được những giải thích này trong vài dòng ngắn gọn rỏ ràng, nhan nhản trong nhiều kinh sách của Phật Giáo.
 
Xuyên thiền sư có câu kệ: “Tìm kiếm hoài ba thời cái tâm trong ba cõi thời gian mà vẫn không thấy được.” (Tam tế cầu tâm. Tâm bất kiến).
 
Trong kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Như Lai nói về cái tâm, nhưng thực ra không phải có cái tâm, vì thế mới gọi là cái tâm. Tại sao vậy ? Vì không thể tìm được cái tâm quá khứ, không thể tìm được cái tâm hiện tại, không thể tìm được cái tâm tương lai.” (Như Lai thuyết chư tâm, giai vi phi tâm, thị danh vi tâm. Sở dĩ giả hà ? Tu Bồ Đề, Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc).
 
Duy Thức Tam Thập Tụng, kệ thứ 4, có ghi:
 
Cái tâm có đó, mà không có đó, cái tâm trôi chảy liên tục như dòng sông ‘hằng chuyển như bộc lưu’.”
 
Chữ “Tâm” (Citta) là nền tảng của tất cả kinh điển Phật Giáo. Danh từ “Citta” có nhiều nghĩa tùy theo căn trí bất đồng của nhân sinh.  (The Pali-English Dictionary suggests citta is heart/mind.) 
 
Cũng nên để tâm, chữ Citta xuất phát từ chữ “Cit” có nghĩa là suốt ngày Tơ Tưởng (day dream, mơ tưởng, nghĩ liên miên, lo ra?
 
Tình kia ai đợi mà chờ, Tâm này ai tưởng mà tơ tưởng tình?
 
Và Citta ở trong chữ Cittàkulàni là “Loạn tâm, Tâm điên đảo, Tâm viên.”   Vậy thì tâm đi từ mê tới ngộ hay ngược lại, từ an tới động? 
 
Cho nên cái định nghĩa trên này cũng là vọng ngữ không điểm tâm đặng.
 
Trong kinh Anguttara Nikàya, Đức Phật đã nói: “Này hỡi những tỳ kheo, ta thấy rằng không có hiện tượng nào lướt đi nhanh chóng như cái tâm. Khó mà tìm được một sự so sánh nào để diễn tả được sự lướt đi nhanh chóng của tâm.” (Nàham bhikkhave annam ekadhammam pi samanupassàmi yam evam lahuparivattam yathàyidam cittam yàvàncitam bhikkhave upamà pi na sukarà yàva lahuparivattam cittam ti) (Anguttara Nikàya, I tr. 10).
 
Trong kinh Anguttara Nikàya II, tr. 177, và kinh Samytta Nikàya, I, tr. 39, Đức Phật cũng đã nói: “Hỡi các tỳ kheo, thế giới này được dẫn đạo bởi tâm tư, thế giới này bị quét sạch bởi tâm tư, thế giới này dưới sức mạnh của tâm tư” (S. I. p. 39: Cittena niyyati loko cittena parikassati, cittassa ekadham-massa sabbeva vasam anvagù; A. II, p. 177: Cittena kho bhikkhave loko niyyati, cittena parikassati cittassa uppannassa vasam gacchati).
 
Chỉ có tư tưởng mới lãnh đạo cả thế giới này: “Tâm” và “Tư Tưởng” đều đồng nghĩa ở đây.” Theo kinh Samyutta Nikàya, tác động nổi bật nhất của “citta” (tâm) là “tơ tưởng” (cinteti) (S. I, p. 57).  
 
Tôi không đồng thông với quan điểm như trên của kinh điển, vì tốc độ, sức mạnh, tư tưởng và tơ tưởng không phải là những thành phần của vô sắc tướng lẫn vô lượng sắc tướng trong vũ trụ mà chúng chỉ hiện hữu ở trong tâm tưởng của con người mà thôi.  Ngay cả vũ trụ cũng ở trong tâm vì tâm tạo ra vũ trụ. 
 
Đức Thế Tôn thay vì yên lặng nhưng đã phải giảng về cái Tâm bất khả thuyết đó qua cái ngôn ngữ giả danh của nhân loại.  Cho nên, Ngài nói như vậy mà nó không phải như vậy nhưng nó là như vậy đó.
 
Tâm bất khả đắc, không thể nhân cách hóa, cá nhân hóa, nắm bắt bỏ túi, hay dễ dàng tư nghị qua ngôn ngữ truyền tin giới hạn của nhân sinh.
 
Vì khi đã điểm trúng tâm rồi thì nó không còn là vô tâm, vô ngã nữa mà là hữu tâm, chấp ngã.
 
Tôi không muốn mất công độc giả, lập đi lại lại những luận điệu phổ thông hóa ra thông thường mà ai cũng đã từng nghe, và đọc qua nhiều lần về định nghĩa của nó.
 
Tôi chỉ muốn lập dị tài khôn trình bày cái tâm này đây qua một lăng kính và khía cạnh mà những người mù sờ voi chưa với cao tới được.  Vì tôi là quản tượng đui ngồi trên đầu voi bị mấy đứa mù dưới đất thay vì xờ voi lại sờ nhằm chân tôi, rồi thừa thế leo lên, lần mò, sờ mó, xâm phạm tiết hạnh của tôi bằng cách sờ bóp viên ngọc báu Mani của tôi, mà chúng mù ́ tưởng là họ đang thi nhau rờ voi, và rồi thì chúng nó cải nhau chí chóe tự cho là chỉ có riêng mỗi mình họ mới diễn tả đúng là voi thật, kể cả phần không voi của tôi? 
 
Nghe họ cải nhau riết rồi tôi cũng nhập tâm tưởng tôi cũng là một phần của voi, bất khả phân, thật đúng “dữ sợ như rứa”?
 
Danh từ citta còn được dịch là spirit (soul, linh hồn) trong tiếng Anh, còn nghĩa là tâm (heart).  Spirit cũng có nghĩa là chi (khí), và còn có nghĩa là sự sống, sinh (life). 
 
Gốc Latin của danh từ Spirit là spirare có nghĩa là ‘thở.’  Thở vào là inspiration, thở ra là expiration!  Spirit có nghĩa là tập hợp hơi thở vì đó là sinh lực (lifeforce) tối cần thiết của đời sống.
 
Nếu tâm là “thở” và nếu thở là hít vào thở ra như định nghĩa của tiếng Latin ở trên thì “nó” hít vào cái khí gì?  Oxygen (O2) và thở ra thán khí (CO2)?
 
Nhưng cái gì thở?  Chúng sinh thở hay cái Thở thở?
 
Nếu Tâm là vô sắc tướng, không diện mục, phi vật chất vậy thì Tâm (linh hồn, spirit) có cần thở hít Oxygen như thân xác phải thở, phải ăn, phải uống, phải ngủ để sống không? 
 
8 thức và 18 giới ở trên có thể là bản lai của “tâm ta” chứ không phải là diện mục của tâm ta.  Muốn kinh nghiệm những thức giới này tâm ta phải tạm thời cấu tạo ra thân xác để kinh nghiệm vật chất hữu hình.
 
Rồi vì vô minh và từ đó chủ quan, sở hữu hóa Tâm là của Ta bằng cách gắn thêm cho cái tâm ta (Citta của Ngã) 8 cái thức rất người: “Thấy, Nghe, Ngửi, Nếm, Tiếp xúc thân thể, Ý thức, Mạt-na thức (Manas) và A-lại-da thức (Alaya). Với 18 giới khả năng và cơ chế phàm tục của chúng sinh (lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, não bộ; lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; lục thức: thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc thân thể, ý thức.”
 
Rồi thì xây “kho ta” (storehouse-consciousness, alāya-vijñāna, C.    ) để chứa đựng nó như đã diễn tả trườu tượng ở trên, “Tất cả mọi dữ liệu [metadata] hoạt động của 18 giới căn trần được chất chứa trong Manas (mind, citta and viññāṇa)rồi lạc quan cho đó là cái Ta của mỗi chúng sinh. Dữ liệu của tất cả manas được chất chứa trong một cái kho Tàng thức với ý kiến, ý tưởng, lối nhìn, linh tính (Alāya-vijñāna is a reservoir in which all ideas, impressions, perceptions and cognitions are deposited), từ tiền nhân chủ quan suy ra rồi đa số cả tin, chấp ngã tưởng thật là Tâm ta.
 
Mọi vật cũng là tâm và mọi tâm cũng là vật.
 
“Everything material is also mental and everything mental is also material”  David Bohm
 
Tôi cố gắng đơn giản như thế này, chưa ai thật sự biết tâm là cái quái gì, nó ở đâu, và cái bản lai diện mục nó như thế nào nhưng cũng vì đồng vô minh như vậy nên chúng ta điều đồng tâm công nhận trên căn bản là tâm không có sắc tướng, phi vật chất.  
 
Vì như đã nói, không ai thật sự biết nó là cái quái gì nhưng ưa dạy khôn người khác về cái quái dị không biết đó của mình.
 
Có thể đó là lý do mà tôi thường thích nói và viết về cái Tâm vì tôi biết, chả ai biết tôi nói trúng hay sai.  Nhất là khi mà tôi độc tôn, tự phong cho mình là đại thiện tri thức trí tuệ gia, được sắp đứng trên hạng nhì trên các thiện tri thức khác trên thế giới.
 
Rỉ tai mà nghe, ngay chính tôi cũng không biết tôi nói cái quái gì nữa cho nên có đồng tâm với tôi thì không hẳn là điểm trúng tâm mà bất đồng tâm với tôi cũng chưa chắc là điểm trật tâm?  Trừ khi chúng ta cùng nhắm mắt điểm càn may ra trúng ngay tâm điểm?
 
Cho nên, muốn biết điểm đúng hay trật thì phải thấy được tâm điểm để mà nhắm vào.  Ngày nào, chưa tìm ra được cái trọng tâm đó thì làm sao biết được điểm trúng hay trật?
 
Tôi đã vừa mới điểm tâm không.  Thử ngắm dùm điểm Tâm, để nhắm xem là tôi vừa điểm Tâm, trúng hay trật?
 
Tóm lại, vạn vật duy nhân tâm phan duyên tạo ra ... ảo/thật.
 
Điều mà tôi thường nói, đó là nhân sinh không bỏ công, chú tâm, cố tình đi tìm cái có mà mong tìm cái không...có.
 
Chúng ta không thể đi tìm cái biết mình đang có “trong nhà có báu thôi tìm kiếm,” không thể kiếm cái chưa mất, mà chỉ nhìn ra để ngóng tìm cái mình mất.
 
Tuy nhiên, thấy vậy nhưng đừng tưởng như vậy.  Nghe vậy đừng nghĩ như vậy. Đọc những gì tôi viết như vậy nhưng đừng thật thà cả tin như vậy vì nó không đúng như vậy nhưng mà nó thật như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2011(Xem: 8374)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11578)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12646)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12656)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4660)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4790)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 4971)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7208)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
27/10/2010(Xem: 8913)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567