Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nơi thích hợp để tu thiền

22/12/201419:21(Xem: 6361)
Nơi thích hợp để tu thiền
thien that

Hôm nay chúng ta có một đề tài đột xuất, lý do là có một số thiền sinh muốn biết “trú xứ nào thích hợp để hành thiền”? Câu hỏi này rất hay. Đúng ra, đây phải là bài học đầu tiên cho tất cả những ai sơ cơ bước vào đời sống tu học nghiêm túc; nhưng do là tôi thường hay nói chuyện, giảng pháp, giảng thiền trước hội chúng đã từng tu tập - nên tôi quên bẵng là có những người đến tập thiền hôm nay còn rất mới mẻ.





“Trú xứ thích hợp”, thật ra cũng không phải đơn giản. Đã rất nhiều người hiểu lầm. Tôi nhớ thời gian sau những năm 1975 dường như chín mươi phần trăm tu sĩ đều hoàn tục do “hoàn cảnh tu học không còn thích hợp nữa”. Một số khác có chí tu, muốn tìm chỗ tu tập thuận tiện, tiện nghi  hơn, họ viện dẫn một đoạn kệ trong 38 pháp hạnh phúc: “Ở trú xứ thích hợp, công đức trước đã làm, chơn chánh hướng tự tâm, là phúc lành cao thượng”. Rồi họ nói: Chính đức Phật cũng đã từng dạy, muốn có hạnh phúc cũng cần phải đi tìm kiếm trú xứ thích hợp kia mà! 

Trú xứ thích hợp cái kiểu đó chính là đầy đủ phương tiện vật chất. Nhưng chúng ta đã hiểu rõ rằng, các nước văn minh tiên tiến, cơ bản họ không lo cái ăn, cái mặc nữa, nhưng những bất hạnh về gia đình, những mối bất hòa về cha con, vợ chồng, những căng thẳng quá tải do công việc đã đưa đến những khổ đau về tinh thần là thảm họa khôn lường do sự cạnh tranh lợi nhuận mà ra. Vậy, trú xứ thích hợp không phải là tìm chỗ dư dã vật chất. Nước Bhutan là nước theo Phật giáo, có thể họ còn rất nghèo nhưng chỉ số hạnh phúc đầu người của họ được xem là cao nhất thế giới. Xứ Kuru thời đức Phật - một bộ lạc nghèo - cũng thuộc loại có chỉ số hạnh phúc đầu người cao nhất Ấn Độ thời bây giờ, nhờ người dân ở đây đều tu tập Tứ Niệm Xứ. 

Myanmar là một trong những đất nước nghèo nhất thế giới nhưng lại là nơi xuất sinh những vị thiền sư có ảnh hưởng tầm thời đại; và ở tại đấy đã có nhiều trường thiền tu học nghiêm túc, lôi cuốn Tăng ni Phật tử khắp năm châu. Đến đây ta có thể loại trừ trú xứ thích hợp theo nghĩa vật chất ở trên... Nói cụ thể hơn tí nữa, trú xứ thích hợp không phải đi tìm chỗ ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao cửa rộng, mọi tiện nghi đều được cung phụng đầy đủ...

Có người hỏi.
- Vậy thì nghèo, khổ mới tu được hay sao, thưa thầy?
- Đấy, bạn lại rơi vào cực đoan khác. Ở Ấn Độ, ai đầy đủ quyền lực, giàu sang, danh vọng hơn đức vua Bimbisāra, đức vua Pāsenadi ? Ai có vàng bạc, của cải hơn ông Cấp Cô Độc, bà Visākha? Ai có gia sản lớn như ngài Sārīputta, Mahākassapa? Rồi các vị vua thời Lý, Trần của chúng ta nữa? Và gần đây nhất, hiện nay, các nước văn minh tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp, Úc, Canada... người ta nghiên cứu Phật học và hằng ngàn chùa chiền, tu viện, thiền viện để cho mọi người tu tập thì sao nhỉ? 

Vậy nghèo giàu không phải là vấn đề, nó không phải là cái quyết định. Lại nữa, trú xứ thích hợp cũng chưa phải là nhân tố quyết định. Nó chỉ là duyên. Chúng ta tu học, chúng ta thiền tập cũng phải biết tạo những duyên tốt cho sự tu học, cho sự thiền tập ấy được tốt hơn, có hiệu quả hơn, có phải thế không? Một hạt lúa mà gieo trên đất khô cằn, không có phân, không có nước... thì nó sẽ không thể thành cây lúa tốt tươi được. Cũng vậy, có tâm tu, muốn công phu thiền tập cho có hiệu quả, chúng ta phải có những bước chuẩn bị, lựa chọn, tìm kiếm môi trường thích hợp... tương tợ như thêm phân, thêm nước, chăm bón cho cái cây lúa kia vậy.

- Tức là lựa tìm cái chỗ ở hoặc nơi chốn thích hợp để hành thiền, phải không thầy?
- Ở trường hợp đang nói đây thì đúng như vậy! Cái nơi chốn, cái chỗ ở thích hợp để hành thiền, lý tưởng nhất - nói cái lý tưởng nhất trước đã - thuở đức Phật thì khác, bây giờ thì khác! Bây giờ thì có thể tìm kiếm 10 chỗ sau đây:

Một - rừng, cội cây, ngôi nhà trống...
Hai - không gần xóm cũng không xa xóm...
Ba - không gần đình, miếu, am, quán... thường có nhiều người vào ra và nhiều cuộc lễ hội, cúng kỵ...
Bốn - nơi không có thú dữ, nơi tụ họp của bọn xì-ke, ma túy, gần hang ổ bọn trộm cắp, tội phạm...
Năm - không gần chỗ nga ba, ngã tư, bến nước, nhà ga, siêu thị, chợ búa... 
Sáu - không gần chỗ khách du lịch, vui chơi giải trí, tắm giặt, vũ điệu hát ca phù phiếm...
Bảy - không gần chỗ hội họp, hội thảo, tiệm internet; nơi cờ bạc, quán cà phê, quán rượu, nơi chơi cổ phiếu - thị trường chứng khoán...
Tám - không gần nơi lò mổ, trại nuôi heo bò, gà vịt...
Chín - không gần trại phong cùi, trại tù binh trọng hình, trọng án...
Mười - tránh xa những cơ sở công nghiệp do động cơ, khí thải làm cho không gian, đất đai, nguồn nước ô nhiễm...

- Đúng là lý tưởng - một người thốt lên - nhưng ở đâu tìm ra được hoàn cảnh và môi trường tuyệt vời như thế?
- Tôi biết. Vì đấy là lý tưởng. Nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, ai cũng có thể thu xếp cho mình một góc phòng nào đó, khoảng thời gian nào đó để tập định. Nói ngắn gọn, là nên tránh xa chỗ ồn ào, bụi bặm, chỗ dễ bị lây nhiễm tập tính xấu, chỗ dễ làm cho ta phân tâm, nhiễu loạn... quý vị đã nắm rõ như thế chưa?
- Thưa vâng!
Yên lặng một lát rồi có người nói:
- Chỗ của tôi ở rất ồn ào, hai bên kẹp chặt một quán cà-phê và một quán ăn nhậu, đến chín mười giờ đêm vẫn không yên; trong trường hợp ấy, làm sao để tập thiền hở thầy?
- Quả là khó đấy! Vậy thì từ lâu, bạn đã đối trị ra làm sao?
- Dạ thưa vâng! 

Tôi sẽ kể hầu thầy nghe, đồng thời muốn san sẻ với các bạn kinh nghiệm mà tôi đã trải qua. Suốt mấy tháng trường, tôi đã không an trú vào hơi thở được, thế là tức giận, sân hận ồ ạt nổi lên. Hôm kia, tôi chợt hỏi: Tại sao, mình lại tức giận? Mình ngồi thiền là để mà sân hận như thế này hay sao? Hóa ra, do mình muốn sự yên lặng, ước muốn ấy do không được toại nguyện, không được hài lòng, thỏa ý nên mình đã bực tức. Vậy tại sao mình không từ bỏ đối tượng trở ngại bên ngoài rồi lắng nghe sự tức giận ấy nó nung đốt mình ra làm sao? Thế rồi, tôi chỉ ngồi và quan sát, lắng nghe cái tức giận. 

Tôi đã tỉnh giác, chú tâm liên tục. Lát sau, điều kỳ diệu xẩy ra, nghĩa là, tiếng nhạc loạn ồn ào bên ngoài đã trở nên mơ hồ, xa vắng; và cơn tức giận bên trong nó cũng đã dần dần lắng dịu xuống rồi tan loãng đi. Tôi nhủ thầm: Đúng vậy rồi, cái gì có sanh thì cái ấy có diệt! Tôi đã nhìn ngắm được cái sinh diệt của tâm sân! Đấy là cách đối trị của tôi để vượt qua chướng duyên bên ngoài. Thế có tốt không thưa thầy?

- Đúng, vậy là tốt! Do nhờ ông bạn đã tập thiền nhiều năm nên đã thấy rõ mình luôn bị chi phối bởi hai năng lực tham và sân. Muốn yên lặng, muốn dứt tiếng ồn - đấy là tham; ước muốn ấy không được toại nguyện - nên sinh ra bực tức - đấy là sân. Bạn đã nghiêm túc lắng nghe, và biết rõ ước muốn yên lặng ban đầu là do tham, sau đó, do ước muốn ấy không toại nguyện nên phát sanh sân! Sự lắng nghe, quan sát tham và sân này - chính lúc ấy, bạn đã bước qua giai đoạn niệm tâm rồi đấy!

- Ông bạn làm được việc ấy, còn tôi vì mới sơ cơ nên không thể - một người góp ý - Chắc tôi sẽ nổi sùng lên, nóng nảy làm một việc sai lầm gì đấy thì nguy to! Vậy, tôi sẽ cố gắng tìm kiếm trú xứ thích hợp để hành thiền, để tu tập như 10 điều kiện thầy nêu ở trên - vừa lợi lạc cho mình vừa giúp cho con cái được sống trong môi trường trong lành, cách ly được một phần nào sự thác loạn, ồn ào, đủ mọi thứ ô nhiễm do con người và xã hội gây ra. Tôi sẽ cố gắng tìm chỗ tốt nhất.

- Đúng vậy! Mỗi người có thể tìm kiếm trú xứ thích hợp tùy hoàn cảnh của mình, khả năng của mình; tuy nhiên, không ở đâu có điều kiện tốt tuyệt đối. Sau khi có điều kiện về không gian tương đối rồi, chúng ta còn cần sự lựa chọn thời gian nữa. Buổi khuya, trước khi đi ngủ; và buổi sáng khi vừa thức dậy, thời gian ấy là tốt nhất. Tại sao vậy? Vì trước khi ngủ, mình tập thiền, năng lực của thiền có thể duy trì cho mình một giấc ngủ an lành, không có những giấc mộng dữ. Buổi sớm, mình tập thiền, năng lực của thiền giúp mình ổn định thân tâm suốt một ngày làm việc. Các bạn phải thấy sự rõ lợi ích ấy.

Có một người hỏi.
- Có người bảo nên tập thiền vào lúc nửa đêm, giờ tý, lúc ấy dương khí  mới sinh - có đúng không thầy?
- Điều ấy đúng, đúng với cách luyện khí công của đạo gia. Họ luyện tinh thành khí, khí hóa thần, thần hoàn hư  theo quan niệm bí thuật của các đạo sĩ tu tiên. Theo đó, họ thở dài và sâu, ép hơi thở xuống đan điền, giữ hơi thở càng lâu càng tốt, bế hậu môn, dùng tưởng hâm nóng, đốt cháy tinh, chuyển tinh thành khí, dẫn khí  lên cột tủy sống để nuôi dưỡng thân xác với ước mong trẻ mãi không già, thanh xuân, trường thọ... Chúng ta tu Phật, tu thiền cốt để giải quyết phiền não nội tâm, có nên cưng chiều cái thân, tu luyện cho cái thân để phát triển dục vọng như thế không - thì các bạn đã hiểu rồi.

Có người phát biểu.
- Đúng vậy! Thầy đã nói đúng, đấy là cách nuôi lớn, phát triển dục vọng. Nhưng nếu cũng ngồi vào giờ tý, quay mặt về hướng Bắc, vì lúc ấy mặt trời - dương khí ở hướng Bắc - thì có tốt không thầy?
- Tốt! 24 giờ đêm, mặt trời ở hướng Bắc; 6 giờ sáng, mặt trời ở hướng Đông; 12 giờ trưa, mặt trời ở hướng

Nam; 18 giờ chiều, mặt trời ở hướng Tây. Đúng những giờ khắc ấy, quay mặt về hướng dương khí ấy, nó trợ lực tốt cho dương khí ở trong chúng ta - nhưng cũng rất tương đối; quan trọng nhất ở đây là đừng có phản lạicác lực, các khí các từ của vũ trụ... quý vị có hiểu không?

- Dạ chưa hiểu! Dường như thầy cố ý nói đến phong thủy khi đề cập đến các khí, các từ, các lực của vũ trụ?

- Đúng vậy, nhưng, lãnh vực phong thủy cũng khá lớn rộng, cái đúng, cái sai của nó - các trường phái Đông Tây có nhiều kiến giải khác nhau; nó chưa hắn là thước đo trung chính; thứ nữa nó cũng không quan trọng lắm trong sự thiền tập. Chúng ta chỉ cần biết rằng, từ trường của quả đất đi từ Bắc xuống Nam. 

Khi đức Phật nhập diệt, ngài nằm thuận với từ trường của quả đất: Đầu hướng Bắc, nằm nghiêng mặt về hướng Tây - tim không bị ép - lưng hướng Đông, chân co chân duỗi xuôi Nam! Quả là kỳ diệu thay trí tuệ của một bậc Toàn Giác - vì thuở ấy khoa thiên văn, địa lý đang còn quá sơ khai!

- Vậy trú xứ thích hợp còn cả yếu tố phong thủy trong đó nữa sao?
- Không cần thiết! Chỉ cần biết chút ít. Chỉ cần biết chút ít để chúng ta không nên nghịch lại với các lực, các khí,các từ  ấy - có hại cho sức khỏe - mà phải biết vận dụng chúng để trợ lực thêm cho mình, thêm duyên lành cho mình không tốt hơn sao? Ví dụ, nhà ở nên quay mặt về các hướng Đông Nam, Tây Nam để hưởng ánh nắng mặt trời buổi sớm - chắc hẳn là tốt hơn khi chúng ta quay lưng lại với nó? 

Và gió cũng vậy, có gió lành, có gió độc. Nước cũng vậy, thuận thế nước tốt hơn là nghịch lại với nó. Nói tóm lại, với phong thủy, chúng ta cũng nên nắm bắt cái nguyên lý của nó để sống, để ở, để tập thiền - vì ngoại duyên thuận hợp bao giờ cũng tốt hơn là nghịch duyên vậy.

Một người hỏi.
- Vậy thì khi mà chúng ta lựa chọn trú xứ thích hợp rồi - nghĩa là không gian thích hợp, thời gian thích hợp - thì sự tập thiền của chúng ta sẽ dễ dàng thành tựu?
- Chưa đâu! Đấy mới chỉ là ngoại cảnh, chúng ta còn cần phải chuẩn bị thân tâm nữa.
- Xin thầy hãy cho nghe một cách rộng rãi.
- Vâng. Các bạn hãy nghe đây. 

Đức Phật dạy: Giới năng sinh định, định năng sinh tuệ; hoặc giới là nền tảng của định, định là nền tảng của tuệ. Vậy, chuẩn bị thân tâm có nghĩa là thân tâm ấy phải có giới, thân tâm ấy phải mát mẻ, trong lành cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ít ra là thân tâm ấy không có một đời sống buông lung, phóng dật, rượu chè, cờ bạc, tham lam, bạo tàn, hung dữ, độc ác... 

Nếu trước đây đã từng lỡ dại khờ, mê muội mà sống như vậy thì nay phải hồi đầu, hướng thiện, phải biết thọ trì tam quy và ngũ giới. Không có nền tảng tối thiểu của giới như vậy mà mong định, mong thiền, mong tuệ thì chỉ là ảo tưởng mê vọng. Gia dĩ trong năm giới mà bạn cảm thấy đôi lúc có sai phạm - cũng không sao, biết có sai phạm là tốt; nhưng trước khi hành thiền, bạn nên tắm rửa sạch sẽ, đốt nhang, xông trầm, đối trước tượng Phật, tự sám hối, tự xin giới rồi tụng đọc một bài kinh Tam Bảo... thì thật là một sự chuẩn bị thân tâm một cách chu đáo và trọn lành. Làm được như thế thì thân bạn an ổn, mát mẻ, tâm bạn an ổn, mát mẻ... và nó chính là cơ sở tiền đề, nền tảng cho chúng ta đi vào tập thiền, dù định hay tuệ một cách rất dễ dàng.

- Chúng tôi hoàn toàn hiểu! Nhưng nếu như lúc ấy - một không thời gian nào đó - chúng tôi muốn tập thiền nhưng không có một chỗ thờ tự trang nghiêm thì sao ạ?
- Cũng không sao cả! Tôi chỉ muốn nhấn mạnh trường hợp một vài người có đời sống buông lung, phóng dật; do đời sống buông lung, phóng dật nên thân tâm không yên; vì thân tâm không yên nên phải chuẩn bị cho thân tâm ấy một cách chu đáo như thế. Đấy là cá biệt. Còn đa phần, những người đã tập thiền lâu năm thì có thề ngồi đâu cũng được, không thời gian nào cũng được - và chỉ cần chấp tay, thầm niệm Phật ba lần cho thân tâm được thu thúc trang nghiêm lại - là đủ rồi! 

Và, có điều các bạn đừng quên, sau khi xả thiền - nên hồi hướng công đức đến cho chư thiên, thọ thần, phi nhân bao giờ họ cũng cư trú xung quanh chúng ta. Hồi hướng phước báu đến cho họ, họ sẽ hoan hỷ; và khi mà họ hoan hỷ thì cả không gian xung quanh đều được mát mẻ, yên ổn, an vui... Đừng nghĩ đấy là duy tâm, đừng nghĩ đấy là nương tựa tha lực! Nó là sự thật đấy! Sự thực trong đời sống toàn diện với mọi tương quan giữa ta và vạn hữu!

- Vâng! Phải vậy mới chí lý! Và cả chí tình nữa! Chúng tôi hoàn toàn hiểu trú xứ thích hợp rồi, thích hợp cho cả thiền định và thiền tuệ lúc tọa thiền. Còn trong sinh hoạt thường nhật nữa, thiền tập minh sát vipassanā nó như thế nào hả thầy?

- Từ từ đã! Dĩ nhiên, thiền tập minh sát vipassanā, ngoài tọa thiền ra, còn chú trọng nơi mọi oai nghi đi, đứng, ăn nói... của tất cả quý vị. Và dường như cái này quan trọng nhất: Thiền quán trong sinh hoạt thường nhật! Cái này thì còn nói dài dài, nhưng phải từng bước, từng bước một. 

Hôm nay ta có thể chấm dứt ngang đây là vừa phải lẽ! Buổi nói chuyện này chỉ để dành cho một số cư sĩ tập định sơ cơ, phải cần trú xứ thích hợp như vậy. Còn người tu minh sát tuệ lâu năm, đã thuần thục thì đối với họ, cái chợ đời ồn ào, huyên náo lại thuận hợp cho họ lắng nghe, chiêm nghiệm bài học giác ngộ.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2017(Xem: 5943)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung. Hình ảnh Đức Phật tọa thiền dưới một cội cây vào một đêm trăng sáng, đạt được những hiểu biết siêu nhiên đã nói lên thật cụ thể cái "cột trụ" đó.
06/01/2017(Xem: 8362)
Phật giáo Tây Tạng hay Kim Cương Thừa nói chung rất thực tế và cụ thể, giúp người tu tập trực tiếp biến cải tâm thức mình và đạt được giác ngộ. Dưới đây là một bài giảng ngắn của Đức Đạt-lai Lạt-ma về một trong các phép luyện tập thiền định chủ yếu và thiết thực của Phật giáo Tây Tạng, là "Phép thiền định gồm bảy điểm" do Atisha (A-đề-sa) đề xướng.
01/06/2016(Xem: 8597)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
28/04/2016(Xem: 16590)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
09/04/2016(Xem: 5916)
Chánh niệm, tiếng Pali viết là Sammàsati, là suy niệm chân chính, sự tỉnh giác, biết rõ các pháp một cách trọn vẹn. Chánh niệm—một trong tám chi phần quan trọng của Bát chánh đạo—vốn được xem là con đường tám lối (lanes) đưa đến sự an vui và giải thoát, là chân lý thứ 4 (Đạo đế) trong Tứ Diệu Đế.
21/12/2015(Xem: 5656)
Thừa hay xe không phải là người chuyên chở hay những gì được chuyên chở - nó là sự chuyên chở . Vì vậy Tiểu Thừa có nghĩa là "sự chuyên chở vật nặng nhỏ hơn", và Đại Thừa, "sự chuyên chở vật nặng lớn hơn."
14/10/2015(Xem: 4412)
Đây là bài thuyết trình cho ngày Hội nghị thượng đỉnh Giáo viên ở bang California (California Teachers Summit 2015) tại trường Đại học Tiểu Bang California Sacramento (CSUS) vào ngày 31 tháng 7, năm 2015. Chúng tôi được mời thuyết trình cho gần 400 giáo viên, hiệu phó, hiệu trưởng của những trường học K-12 trong Miền Bắc California. Cùng với hai nhà giáo dục Teresa Burke và Elzira Saffold danh dự trong năm 2015 (teachers of the year), chúng tôi được gặp và thảo luận với vị Chủ tịch trường Đại học Tiểu Bang California Sacramento (CSUS) Dr. Robert S. Nelsen, và Mr. Tom Torlakson, CA superintendent of public instruction. Họ tâm sự với chúng tôi rằng, giáo dục là một nhân quyền căn bản, cần luôn cải cách và tiến hoá. "Nếu đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì cùng đi chung". Họ cảm ơn chúng tôi nhận lời mời để chia sẻ những thực tập hữu ích cho đồng nhiệp. Xin mời quý vị đọc bài thuyết trình mà chúng tôi đã chia sẻ.
17/09/2015(Xem: 8681)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học. Quyển này không có ý viết cho đông đảo quần chúng Phật tử nhưng cung cấp cho một số Phật tử và các tăng ni trẻ những kiến thức mới nhất trong Khoa Học Não Bộ về Chánh Niệm. Tôi cố ý không dịch các từ ngữ não bộ và để nguyên tiếng Anh, xem chúng như là những tên riêng để các cư sĩ và tăng ni trẻ có thể Google trên mạng tìm thêm thông tin. Viết về khoa học não bộ là một điều rất khó vì đề tài khô khan và nhiều chỗ trái ngược với kiến thức thông thường và nhất là đòi hỏi người đọc phải có kiến thức vững vàng về Chánh Pháp. Tôi chỉ cố gắng làm hết sức mình và thỉnh thoảng pha đôi chút trào lộng để độc giả thấy được ý của chư Tổ qua lời dạy ‘Bình thường Tâm thị đạo’. Thực hành Chánh pháp không có gì mầu nhiệm hay huyền bí cả, mà chỉ là một cách sống theo n
24/08/2015(Xem: 4534)
Tập san Phật giáo Regard Bouddhique (Hướng nhìn Phật giáo) của Pháp, số tháng ba và tư, 2015, với chuyên đề "Phật giáo và việc chữa trị bệnh tật" có một bài của nữ ký giả Carole Rap, phỏng vấn thiền sư Roland Yuno Rech về phép tọa thiền (zazen) và việc chữa trị bệnh tật. Roland Yuno Rech sinh năm 1944, được nhà sư Niva Rempo Zeji vị lãnh đạo cao cấp nhất của thiền phái Tào Động (Soto) ở Nhật phong chức "Thầy" năm 1984 nhằm chứng nhận ông là một thiền sư uyên bác của học phái này. Roland Yuno Rech là đệ tử của vị Thiền sư nổi tiếng Taisen Deshimaru (1914-1982), người đã đưa thiền phái Tào Động vào Âu Châu. Roland Yuno Rech hiện trụ trì một thiền viện do chính ông thành lập ở Nice, một thành phố đẹp và sang trọng bên bờ Địa Trung Hải, miền nam nước Pháp. Ngoài ra ông cũng thường xuyên chủ trì các khóa tu thiền tổ chức tại Pháp cũng như tại các nước khác ở Âu Châu. Bài phỏng vấn dưới đây nêu lên nhiều nhận xét thật sắc bén và sâu sắc về sự vận hành sâu kí
15/08/2015(Xem: 7861)
Đây là cuốn sách thứ 4 của cư sỹ sau 3 cuốn trước “Bài học từ người quét rác”, “Tâm từ tâm”, “Hạnh phúc thật giản đơn”. Cuốn sách là những trải nghiệm thật trong cuộc sống và công việc của ông.Mong rằng mỗi bài viết trong cuốn sách này giúp bạn đọc nhận ra gì đó mới mẻ, có thể là chiếc gương để soi lại chính mình.Và biết đâu ngộ ra được một chân ý cũng nên.Xin trân trọng giới thiệu lời mở đầu của chính tác giả cho cuốn sách mới xuất bản này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567