Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Goenka và phương trời thiền quán như thị

04/10/201306:36(Xem: 8540)
Thiền Sư Goenka và phương trời thiền quán như thị
goenka_2

THIỀN SƯ GOENKA
VÀ PHƯƠNG TRỜI THIỀN QUÁN NHƯ THỊ

Nguyễn Bá Chung

1.

Tôi là một người tha hương đang sống nhờ ở đậu trên xứ người. Tôi có thể nói được tiếng nước người, thích ứng được vào cuộc sống nước người, và đi lại bình thường như một người bình thường trên đất nước người. Nhưng trong tận cùng sâu thẳm, vẫn có một cái gì đó không bình thường, một thứ tiếng gì đó không vỡ nghĩa, một nỗi đau nào đó không rõ tên, như những đợt sóng ngầm, bất kỳ lúc nào, có thể bất thần dâng lên như mưa lũ gió cuồng, xô tôi vào thế giới của hụt hẫng và mộng mị.

Lớn lên trong một gia đình Phật giáo nhưng khi còn nhỏ mỗi năm tôi tới chùa chừng khoảng đôi mươi lần khi theo mẹ vào dịp lễ rằm hay lễ Vu Lan, v.v. Tôi chưa bao giờ quy y, và cũng chưa bao giờ nghĩ tới là một ngày nào đó tôi sẽ quy y. Nhưng những bài thơ tôi đã đọc, từ Bài Kệ Ðọc Lúc Mất của thiền sư Mãn Giác, Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Ðài của Nguyễn Du, Chùa Tiên Du của Nguyễn Trãi, v.v. tới những câu ca dao mộc mạc của dân gian, đã để lại những dấu ấn thật đậm. Nó như những hòn cuội ném xuống một chiếc giếng sâu thẳm vô cùng. Tiếng vang thinh lặng của nó như những tiếng sét của hố thẳm, luồn sâu vào từng tế bào, từng thớ thịt, làm toàn thân vỡ ra như những hạt bụi của hư không.

Sau này tôi lớn lên với những bài thơ thật ngu ngơ nhưng cũng thật kỳ diệu của Bùi Giáng, và với con người như một biểu tượng và một nỗi khắc khoải bất khả tư nghì của cuộc đời ông - một khách rong chơi với tâm hồn thương yêu của một bồ tát, giữa một đất nước tan hoang, từng mảnh vụn vỡ giữa hận thù và bom đạn đổ xuống nhân danh những giá trị cao cả nhất của con người. Nó đã đặt ra những câu hỏi tôi không thể trả lời.

Tôi, như rất nhiều những thanh niên của thế hệ đó, đi tìm lời giải đáp trong những ngôi nhà huy hoàng đầy tráng lệ và uy vũ của tư tưởng Tây phương. Nước tôi nghèo, lạc hậu, chậm tiến, hầu như không có gì có thể so sánh với những sức mạnh vô song của khoa học, những phát minh tuyệt luân của kỷ thuật, và những tiện nghi hấp dẫn của vật chất. Và đã phải gục đầu chấp nhận thân phận tôi đòi của một thế kỷ nhục nhằn.

Tôi thuộc lòng bài thơ Bất Nhị của Phạm Công Thiện ngay khi đọc nó lần đầu. Nó nói lên được tâm sự khắc khoải giữa ngã ba đường, vừa nhìn thấy được cái đỉnh cao tuyệt vời của nàng công chúa phương Tây, vừa cùng lúc cảm nghiệm được những ảo tưởng sa mạc của đối tượng đó. Vẫn bị phương Ðông lôi cuốn một cách diệu kỳ. Nhưng không lý giải hay xác định được một cách thỏa đáng bất cứ một chọn lựa nào. Như Tú Xương đã một thời cô đơn dứng giữa ngã ba của dòng lịch sử, không thể “quẳng bút lông đi viết bút chì”, những vẫn khắc khoải cho đến lúc lìa đời – “biết gặp ai không để đợi chờ ?”

Gần 60 tuổi, tôi vẫn không tìm được lời giải.

2.

Vậy mà sau 10 ngày ở Shelburne, Massachusetts, tôi đã tìm được câu trả lời. Hay nói đúng hơn, không phải là những thắc mắc âm ỉ của cả một đời người thình lình lóe lên những đáp số trong tia chớp bất ngờ của trí huệ, mà sự thực là tự nhiên tôi không còn đặt ra những câu hỏi đó nữa. Câu trả lời nằm yên trong sự triệt tiêu của câu hỏi. Từ những bông hoa của hư không – “hoa không” - nó lại trở về nơi chôn nhau cắt rốn của nó – “không hoa”.

Cuộc hành trình đi tìm một căn bản tư tưởng hóa ra là vận hành của một chu trình khép kín của vọng tưởng.

3.

Goenka là một người Ấn sinh đẻ trên xứ Miến Ðiện. Thời thuộc địa Anh, phần lớn thương mại của Miến Ðiện nằm trong tay các Ấn kiều, người Miến chỉ được dùng trong những chức vụ nhỏ để không có khả năng hoặc phương tiện tập hợp chống lại kẻ thống trị mình. Vì thế khi mới khoảng mười chín hai mươi ông đã gia nhập các công ty của bố mẹ và trở thành vô cùng giầu có, đứng đầu nhiều cơ sở thương mại đồ sộ. Ông được bầu làm chủ tịch Hội Ðồng Thương Mại ở thủ đô Rangoon, đạt đến tuyệt đỉnh giầu sang và danh vọng.

Nhưng một tai họa bất ngờ chụp xuống - ông thình lình bị mắc chứng nhức đầu kinh niên (migraine headache). Ông đã bỏ ra rất nhiều tiền của chữa chạy khắp nơi, nhưng bịnh càng ngày cành nặng. Cuối cùng bác sĩ phải chích bạch phiến (morphine) cho ông, hai tuần một lần. Một người bạn thân khuyên: “Tình hình như thế này nguy lắm. Bây giờ hai tuần chích một lần, một thời gian nữa, một tuần một lần, rồi mỗi ngày một lần. Lúc đó anh sẽ không còn là người nữa. Tôi khuyên anh đừng nghĩ gì tới chuyện làm giàu nữa. Bỏ tất cả. Anh đi một nơi nào đó thật đẹp ở Âu châu, nghỉ ngơi và tìm xem bên đó có bác sĩ nào có thể chữa cho anh không.” (*) Ông nghe 1ời và sang Âu châu tìm thầy chữa bệnh, hết ở nước này lại sang nước khác. Nơi nào nghe danh bác sĩ có tiếng tăm, ông đều tìm đến. Cuối cùng bệnh vẫn hoàn bệnh.

Thất vọng, ông trở lại Miến Ðiện. Thấy ông không còn con đường nào khác, một người khác đề nghị: “Tôi biết có một ông thầy mở khóa luyện tâm 10 ngày, rất có kết quả và được rất nhiều người ca ngợi. Bệnh nhức đầu của anh chắc chắn là có liên hệ tới tâm rồi. May ra ông ấy có thể chữa khỏi cho anh chăng”. Hoàn toàn tuyệt vọng, Goenka đến gặp Sayayi U Ba Khin. Thiền sư U Ba Khin sẵn sàng chấp nhận Goenka nhưng với điều kiện ông phải tuân hành nghiêm túc tất cả các đòi hỏi của khóa học, như giữ 5 giới (không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sát sinh, không dùng chất kích thích), v.v.

Là một người theo đạo Bà La Môn, lại là một nhân vật có tên tuổi lớn ở Rangoon, ghi tên theo khóa thiền định của một nhà sư đã là khó rồi, lại còn phải hứa tuân thủ những lề luật “ngoại đạo” nữa thì ông còn mặt mũi nào nhìn mặt cộng đồng người Ấn nữa. Vì thế ông nhất quyết – “Thưa thầy, tôi muốn theo học khóa 10 ngày của thầy chỉ để chữa bệnh nhức đầu thôi. Còn những vấn đề khác thì thực sự tôi không chú ý lắm”. U Ba Khin trả lời – “Khóa thiền tập nhằm thay đổi toàn diện con người anh, dẫn anh từ những thói quen lâu dày gây khổ đau cho chính mình đề anh có thể tự tạo một cuộc sống bình an, hạnh phúc và giúp ích xã hội. Anh phải tuân thủ mọi điều kiện thì anh mới đạt mục đích đó được.

Nếu anh chỉ muốn chữa bệnh nhức đầu thì anh tìm bác sĩ. Ðó không phải là mục tiêu của khóa thiền tập”. Goenka thật khó sử. Người theo đạo Bà La Môn rất có thành kiến với đạo Phật. Họ cũng kính trọng đức Phật, coi ông là hóa thân của một trong ba vị Thần tối cao của Ấn Ðộ. Nhưng không tin vào Thượng đế (Brahma), và những hiệu quả tất yếu của các lễ thờ cúng của giới tăng lữ thì thật quá lắm, không thể chấp nhận được ! Ông về suy nghĩ cả tháng trời, giữa những e ngại tai tiếng sẽ không thể tránh với cộng động, và nét từ bi đầy thu hút của thầy U Ba Khin. Cuối cùng, Goenka tới xin tuân thủ tất cả những điều kiện của khóa học. Một thời gian sau, Goenka khỏi bệnh nhức đầu kinh niên.

Từ đó ông tiếp tục theo học với thiền sư U Ba Khin như bóng với hình. Sau 14 năm, thiền sư cho phép Goenka mở lớp dạy người khác. Lúc đó ông nghe tin mẹ ông ở Ấn Ðộ mắc bịnh tâm thần. Ông biết là chỉ mình ông mới có thể cứu được mẹ. Nhưng thời gian đó chánh phủ Miến điện không cho ai xuất ngoại. Họ đã quốc hữu hóa các công ty, làm rất nhiều người Ấn phá sản. Nhiều người trở về Ấn Ðộ. Khi rời Miến điện họ phải đi tay không, không được mang theo bất cứ một thứ tài sản gì. Vì lý do xin chữa bệnh cho mẹ, Goenka được cấp chiếu khán 3 tháng. Tới Ấn năm 1969, ông mở lớp thiền tập đầu tiên, cho bố mẹ, mấy người con, và 12 ngưòi bạn đã từng biết ông ở Miến điện. Sau khi khóa học kết thúc, bạn bè ông yêu cầu ông mở lớp kế tiếp cho bạn bè của họ. Rồi lớp kết tiếp “Hết hạn 3 tháng, ông phải xin gia hạn. Hết một năm, ông lại phải xin gia hạn tiếp”.

Bây giờ Ấn Ðộ có khoảng 30 trung tâm thiền vipassana ở khắp mọi nơi, từ Ahmedabad, Bangalore, Balaghat, Bodh Gaya, Bophal, tới Dharamsala, từ Hyderabad, Igatpuri, Jaipur, Kushinagar, Madras, New Dehli, Sarnath, tới Shravasti. Tuyệt đại đa số những người theo học không phải là tín đồ của đạo Phật. Họ là những ngươi theo đạo Bà la môn, Sik, Jain, hoặc Thiên chúa giáo vì Ấn độ hiện còn rất ít người theo đạo Phật. Bắt đầu từ năm 1979, ông bắt đầu mở các khóa dạy ở ngoài Ấn Ðộ. Các trung tâm thiền như thị đã lan ra khắp thế giới, từ Australia, Belgium, Canada, Căm Bốt, tới Pháp, từ Ðức, Nam Dương, Ý, Nhật Bản, Nepal, Tân Tây Lan, Nam Phi, Tây Ban Nha, Sri Lanka, Thụy Sĩ, Ðài Loan, Thái Lan, Anh, tới Mỹ.

Ngoài ra, có các trung tâm tạm thời ở 49 nước khác, như Angola, Á căn đình, Áo, Bahrain, Bolivia, Ba Tây, Chí Lợi, Trung Quốc, Cuba, Phần Lan, Hy Lạp, Hung Gia Lợi, Do Thái, Iran, Kenya, Ðại Hàn, Mễ Tây Cơ, Mông Cổ, Bal An, Phi Luật Tân, Romania, Nga, Serbia, Tân Gia Ba, Thụy Ðiển, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine, Uruguay, Venezuela, Zimbabwe, v.v. Hiện nay trên thế giới hàng năm có khoảng trên 100,000 người theo học các khóa thiền tập Goenka.

4.

Tại sao các trung tâm thiền như thị lại phát triển nhanh và vững vàng như vậy? Nói theo lời thiền sư Nhất Hạnh, những trung tâm này đã đi như một dòng sông, và bây giờ đã hội thành một đại dương bát ngát - xinh đẹp ở giai đoạn đầu, xinh đẹp ở giai đoạn giữa, và xinh đẹp ở giai đoạn cuối. Ðặc điểm thứ nhất là tất cả mọi người đều có thể ghi tên học qua mạng và không phải đóng bất cứ một chi phí nào. Trung tâm lo chỗ ở, ăn, và tất cả mọi thiền cụ cần thiết trong suốt 10 ngày hoàn toàn miễn phí.

Thứ hai, tất cả mọi người tổ chức giảng dậy, bếp núc, đánh chuông khuya sớm, hoặc thay mặt Goenka làm thiền sư phụ giảng (assistant teacher) đều hoàn toàn tự nguyện. Không một ai trong tổ chức phục vụ khóa học nhận bất cứ một thù lao nào. Toàn trung tâm toát ra một không khí thương yêu, tự nguyện, tất cả cùng nhau tu học, tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. Từ cái nhìn vô ngã, vô thường người đóng góp vui trong sự đóng góp, và đóng góp không vì bất cứ một động cơ cá nhân nào; người nhận vui trong nỗ lực tu học nghiêm túc, vì cách bày tỏ sự cảm kích chân thực nhất là ngồi với tất cả ba nghìn thế giới trên vai, ân đức muôn đời của Tam Bảo, nhìn thấy sự thực như là sự thực, góp phần làm đẹp cuộc đời.

Thiền sư Goenka đã phát kiến ra một con đường tu học trong đó tu và học trở thành một, cùng song hành với nhau như hai cánh của một con chim, như hai bánh của một chiếc xe kéo. Những pháp thoại của ông không những nắm bắt một cách chính xác, thi vị, và đầy sinh động giáo lý của đức Phật, một con đường không có giáo điều hay đặc thù của bất cứ giáo phái nào (non-sectarian), mà còn bắc một cái cầu dẫn học viên đi thẳng vào công phu hành trì. Những người phục vụ vừa là người phục vụ vừa là học viên của khóa thiền tập. Họ không chỉ học hạnh từ bi, sự hiện diện của họ chính là hiện thân thầm lặng của tinh thần từ bi.

Trong 10 ngày học viên hoàn toàn sống như một tăng hay ni đoàn, không bị chi phối bởi cuộc sống xô bồ bên ngoài. Không điện thoại, không cell phones, không nói chuyện. Dạy từ 5 giờ sáng, theo các thời khóa thiền và pháp thoại tới 9 giờ tối, tất cả hướng về thế giới bên trong, một thế giới mà trong đời sống hàng ngày con người bỏ quên, hoàn toàn không hề biết tới.

Trung tâm không nhận tiền tài cúng dường từ bất cứ một nguồn nào ngoại trừ những ai đã từng là học viên của trung tâm. Không có bất cứ một lời kêu đóng góp nào trong suốt khóa giảng. Nếu học viên thấy khóa học làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình, chỉ cho mình một con đường để từ đó mình có thề tự mình lặng lẽ hành trình suốt đời, một hé mở của sự tỉnh thức vô giá, tự mình có thể làm chủ được con đường miên viễn giữa một thế gian đầy mộng mị, thì học viên đó sẽ tự phát tâm mong muốn những người khác sẽ cũng có cơ hội đó. Từ tình thương dẫn đến tình thương, từ sự tỉnh thức dẫn đến sự tỉnh thức, từ ánh sáng của ngọn đèn này thắp sang trái tim của ngọn đèn khác.

5.

Những câu hỏi tại sao lại tự biến mất, như những nỗi sợ hãi ban đêm tan biến khi ánh mặt trời lấp ló chân mây ? Tôi đã đọc rất nhiều sách Phật học, rất nhiều sách về Thiền tông, kể cả những sách dạy phương pháp ngồi thiền. Nhưng tôi chưa bao giờ ngồi thiền được quá 20 phút. Nếu không buồn ngủ thì hàng ngàn con kiến vô hình bắt đầu bò ra, tung hê về mở hội lớn. Ðến ngày thứ tư ở thiền đường Shelburne, lần đầu tiên tôi ngồi được liên tục một giờ, không buồn ngủ và cũng không có một chú kiến nào lấp ló. Từ đó tới nay khi về nhà, tôi có thể ngồi từ 30-40 phút (vì thời giờ còn eo hẹp) dễ dàng. Khi đã bắt đầu thực hành, mọi câu hỏi không trực tiếp liên quan tới công phu tu tập trở thành vô nghĩa. Nó chỉ là những trò chơi của trí thức, trong cái vòng kim cô của tưởng tượng, vì những lời giải, nếu có, cũng chỉ là tiến trình mới của những chuỗi mắt xích này, từ vọng tượng này qua vọng tưởng khác.

Thiền sư Goenka đã tổng hợp phương pháp Thiền Như Thị với kỹ thuật giáo dục hiện đại để có thể hướng dẫn một kẻ sơ học trong thời ngắn ngủi 10 ngày, nắm vững được những điều cơ bản để sau đó có thể tự mình tu tập và tinh tấn trên hành trình hướng về Chân Như - thấy sự thật như là sự thật. Kẻ sơ học sẽ lần đầu tiên hiểu được thế nào là vô thường (anicca), vô ngã (anatta), và khổ đau (dukkha), không phải qua những lời pháp thoại tài ba, mà bằng kinh nghiệm của chính bản thân mình - quán sát trong yên lặng từng giây từng phút hàng trăm hàng ngàn những cảm thọ đến rồi đi như những biển cát của sông Hằng. Ðể lần đầu tiên trong đời nhận ra là cái mình vẫn tưởng là mình chỉ là những hư ảo…

Thiền đường Shelburne không treo một hình ảnh, không thờ một bức tượng, kể cả tượng Phật. Thiền sư Goenka nhấn mạnh là mục đích của thiền tập này không nhằm cải đạo bất cứ ai. Tất cả mọi nguyên lý tu tập đều mang tính phổ quát (“universal”) mà tôn giáo nào, triết học nào cũng chấp nhận được. Có học thuyết nào phản đối chuyện giữ 5 giới (Sila -không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sát sinh, không dùng chất kích thích) ? Có tôn giáo phản đối nỗ lực giữ cho tâm không phân tán (Samadhi) ? Có triết lý nào phản đối công trình hướng tâm đến tuệ giác (Panna) - làm chủ được cái tâm vốn bay nhẩy như hươu như vượn, nhìn sự thật như là sự thật để đạt tới một cuộc sống hoàn toàn bình an, hạnh phúc và lợi lạc xã hội ?

Tôi mơ hồ có cảm tưởng mình đang được sống lại cách nay hơn 2500 năm, thời các khất sĩ cũng ngồi thiền như thế này - không có hình ảnh hay pho tượng Phật, và lúc đó cũng chưa có “đạo Phật” nữa. Ðó chỉ là con đưởng mở ra cho bất cứ ai, thuộc bất cứ tôn giáo nào, nếu thành tâm nỗ lực thử nghiệm, thì sẽ tự thân chứng thấy kết quả. ”Khi chim sắt biết bay”, người Tây tạng có truyền thuyết, “Phật pháp sẽ truyền sang xứ của người mặt đỏ”. Và từ đó nó sẽ truyền trở lại Á châu. Tôi đang ngồi mơ hay tôi đang ngồi thực?

Chú Thích:

Vipassana: theo từ cổ, nghĩa là nhìn hiện tượng như là hiện tượng, không do tưởng tượng, thiên kiến làm cho sai khác, nghĩa là như thị, sự vật thế nào thì thấy như thế, không thêm không bớt. Thừơng gọi là thiền minh sát, từ dịch từ Trung quốc. Từ này có hai vấn đề - một là chữ “sát” vốn đồng âm, đa nghĩa trong tiếng Việt, dễ gây ra những liên tưởng không chính xác; hai là chữ “minh” dễ bị hiểu lầm là sự sáng suốt do quá trình tri thức cân nhắc chọn lựa, hoàn toàn đi ngược với tinh thần vipassana. Các lời thoại trong bài viết ra dựa trên văn mạch và trí nhớ, không phải dựa trên nguyên bản.

Ðịa chỉ trên mạng của tất cả các trung tâm Thiền Như Thị dưới sư hướng dẫn của thiền sư Goenka:

"http://www.dhamma.org/" - http://www.dhamma.org/

Nguồn: thuvienhoasen.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2017(Xem: 14395)
Chánh Pháp Nhãn Tạng _Nguyên tác Shōbō Genzō_ Tác giả Đạo Nguyên Hy Huyền_ Anh dịch Kazuaki Tanahashi, et al_ Việt dịch Đỗ Đình Đồng
12/11/2017(Xem: 4351)
Chữ “căng thẳng” là dịch sát nghĩa của chữ “stress” trong tiếng Anh. Ai cũng biết rằng căng thẳng là cội nguồn của rất nhiều tai họa. Căng thẳng ở tấm mức quốc tế sẽ dẫn tới, nặng là chiến tranh, nhẹ là cấm vận. Căng thẳng ở tầm mức xã hội là biểu tình, là rút dao, nổ súng. Căng thẳng ở tầm mức gia đình hễ nặng bạo lực gia đình, nhẹ sẽ là bể chén dĩa, và khi bất khả hòa giải là sẽ ly tan, chỉ hại cho đàn con. Căng thẳng cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm. Theo Mayo Clinic, hội chứng căng thẳng có thể tác động vào cơ thể của bạn, vào suy nghĩ của bạn, vào cảm thọ của bạn, và vào cả thái độ của bạn. Căng thẳng không hóa giải được sẽ gây bệnh, như cao huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh mập phì và bệnh tiểu đường.
12/11/2017(Xem: 18401)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
31/10/2017(Xem: 9311)
Đối Thoại Thiền_Giai Không (Thích Bảo Lạc)
21/10/2017(Xem: 7943)
Vỏn vẹn 5 tháng sau khi cho ra mắt cuốn “Thiền Tập Trong Đời Thường” do Ananda Viet Foundation xuất bản, Nguyên Giác lại cho ra đời tác phẩm mới nhất “Thiền Tông Qua Bờ Kia” đã được Cư Sĩ Tâm Diệu – giám đốc điều hành Ananda Viet Foundation cũng là nhà xuất bản ca ngợi như sau, “Điều chúng tôi cảm thấy thích thú là cuốn sách này trình bày rõ ràng nhiều điểm giống nhau rất cơ bản giữa tất cả các trường phái và tông phái Phật Giáo. Chúng tôi xin chúc mừng Cư Sĩ Nguyên Giác về tác phẩm này với công trình khảo sát và dịch thuật rất cẩn trọng của ông. Chúng tôi cũng ước mong độc giả sẽ tìm được lời hướng dẫn và nguồn cảm hứng để chọn cho mình một pháp hành (phương pháp hay môn để thực tập). Vì chỉ có pháp hành (thực tập) mới giúp cho hành giả chúng ta an trú tâm và an tịnh nội tâm.”
18/10/2017(Xem: 8390)
Thiền dưới ánh sáng Khoa Học - Thích Nữ Hằng Như
12/09/2017(Xem: 4640)
Đối với một người quan tâm đến thành tựu giác ngộ thì việc tu học có quan trọng hay không? Một số dòng truyền thừa đặt nặng việc hành thiền hơn tu học, và nói rằng không cần thiết phải tu học, vì điều này chỉ khiến tâm tràn đầy tư tưởng, và tư tưởng thì không phải là thiền. Tạp chí Mandala đã chọn lựa và trưng cầu ý kiến cùng sự quan sát của một số lạt ma, học giả và hành giả.
25/08/2017(Xem: 5578)
Việc tu hành của người theo đạo Phật là nhằm tu sửa, thanh tịnh hoá Thân Tâm. Phật dạy Con Người do năm Uẩn hợp lại mà thành. Đó là Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn và Thức Uẩn. Sắc ở đây ám chỉ cơ thể của chúng ta, còn bốn uẩn kia hợp lại là Danh. Danh là một tên gọi khác của Tâm. Như vậy Sắc là vật chất nên có hình tướng, màu sắc, chúng ta có thể nhìn thấy và sờ mó được. Còn Tâm thì chỉ là ý niệm, khái niệm hay là trạng thái nên nó trừu tượng, không nhìn thấy, không va chạm được, thì làm sao sửa đổi hay thanh tịnh Tâm? Cho nên, nếu như chúng ta không hiểu rõ Tâm là gì thì rất khó mà tu tập.
21/08/2017(Xem: 4960)
Bài này sẽ trình bày một số pháp vào định, dựa trên nhiều truyền thống. Tuy được viết để trả lời nhiều thắc mắc, bài này vẫn là một khảo sát không thẩm quyền, vì bản thân người viết tu học chưa tới đâu. Trong các phần dựa vào kinh và luận, hy vọng các ghi chú cuối bài sẽ làm sáng tỏ hơn. .
13/08/2017(Xem: 9204)
Hôm nay tất chúng ta cùng ngồi. Đầu tiên, thầy nói chuyện với những ai mới tập thiền, một số sư, một số ni chưa quen; và nhất là chúng điệu và cư sĩ. Ai ngồi kiết già, bán kiết già được thì ngồi, ai không có già nào cả, cũng không sao. Trong trường hợp này, lựa chọn thế ngồi cho thoải mái, lưng phải thật thẳng, giữ đầu và cổ tương đối vững vàng, đừng gục xuống mà cũng đừng thẳng đuột. Tuy nhiên, tốt nhất nên tập ngồi kiết già hoặc bán già vì các con còn trẻ, trẻ thì dễ tập, dễ uốn!Hôm nay tất chúng ta cùng ngồi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567